
Ukraine không còn nhiều thời gian và nhiều lá bài mặc cả khi cuộc xung đột với Nga bước sang năm thứ tư và Tổng thống Mỹ Donald Trump muốn nhanh chóng chấm dứt cuộc chiến này.

Năm 2025 báo hiệu những diễn biến quan trọng đối với cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine, đặc biệt sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump trở lại Nhà Trắng.
Đây là khoảng thời gian các bên tìm cách gây sức ép tối đa với đối phương bằng cách này hay cách khác nhằm giành ưu thế trong bất cứ cuộc hòa đàm tiềm năng nào trong thời gian tới. Nga đang có ưu thế hơn, song Ukraine cũng có những "quân bài mặc cả" nhất định.
"Quân bài" trung chuyển khí đốt
Sau một thời gian đánh tiếng, Ukraine chính thức ngừng vận chuyển khí đốt từ Nga sang châu Âu từ ngày 1/1, chấm dứt thỏa thuận kéo dài 5 năm giữa tập đoàn Gazprom của Nga và tập đoàn Naftogaz của Ukraine. Điều này đánh dấu một sự thay đổi lớn trong bối cảnh năng lượng của châu Âu và có tác động khác nhau tới các bên liên quan.
Tất nhiên, khi lựa chọn bước đi này, Ukraine đã phải chấp nhận tổn thất. Việc chấm dứt trung chuyển khí đốt sẽ khiến cho Ukraine mất đi một khoản thu không nhỏ. Trong những năm gần đây, doanh thu của tập đoàn Naftogaz của Ukraine từ trung chuyển khí đốt lên tới hơn 1 tỷ USD.
Không có nguồn khí đốt trung chuyển cũng có thể làm suy yếu khả năng cạnh tranh các dịch vụ lưu trữ khí đốt của Ukraine cho EU. Hiện nay, tập đoàn Naftogaz của Ukraine có cơ sở lưu trữ lớn nhất châu Âu với công suất 30,9 tỷ m3, trong đó 10 tỷ m3 dành cho các thương nhân nước ngoài.
Thực tế cho thấy, nếu tiếp tục trung chuyển khí đốt qua Ukraine, các bên sẽ cùng có lợi ích về kinh tế, nhưng Kiev sẵn sàng chấp nhận tổn thất và coi năng lực trung chuyển khí đốt là một quân bài mặc cả trong các cuộc đàm phán trong tương lai với Nga.

Ukraine ngừng trung chuyển khi đốt Nga đến châu Âu từ ngày 1/1 (Ảnh: Reuters).
Tuy nhiên, theo giới quân sát, quân bài này của Kiev không thực sự hiệu quả bởi các bên đã chuẩn bị cho kịch bản Ukraine ngừng trung chuyển khí đốt Nga. Tác động của việc ngừng vận chuyển khí đốt đối với EU lại khác biệt đáng kể so với những gì có thể xảy ra cách đây vài năm.
Năm 2009, trong 2 tuần Nga ngừng cấp khí đốt cho châu Âu qua Ukraine đã gây ra sự hoảng loạn và khủng hoảng trên diện rộng với khu vực. Tuy nhiên, lần này các nước châu Âu khá bình tĩnh, giá khí đốt ở châu Âu chỉ tăng nhẹ.
Sở dĩ, ảnh hưởng lần này không quá nặng nề là bởi EU trước đó đã tiến hành dần các bước để giảm bớt phụ thuộc vào khí đốt từ Nga. EU từng bước đưa ra các biện pháp nhằm đa dạng hóa các nguồn năng lượng và củng cố thị trường nội khối.
Do vậy, bất chấp gánh nặng của giá năng lượng và chi phí đầu tư tăng, EU đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc giảm phụ thuộc vào khí đốt đường ống của Nga. Thị phần khí đốt tự nhiên của Nga (cả đường ống và LNG) trong tổng lượng khí đốt nhập khẩu của EU, tăng 35% vào năm 2015 lên 41% vào năm 2020, tuy nhiên con số này giảm xuống chỉ còn 9% vào năm 2023.
Đến cuối năm 2024, lượng khí đốt Nga vận chuyển qua Ukraine đến châu Âu chỉ còn 15 tỷ m3, trong đó 13 tỷ m3 đến Slovakia và tiếp tục đến EU, phần còn lại đến Moldova. Đây là một phần nhỏ so với trước kia.
Tác động của việc ngừng vận chuyển năm 2025 này cũng nhỏ hơn nhiều so với cuộc khủng hoảng khí đốt năm 2021 hay các đợt tăng giá mạnh năm 2022.
Tuy nhiên, tác động của việc ngừng trung chuyển khí đốt qua Ukraine lại không đồng đều đối các quốc gia thành viên.
Đến năm 2024, khí đốt của Nga thông qua Ukraine chỉ chiếm 5% nguồn cung cấp khí đốt của EU, nhưng Áo, Hungary và Slovakia lại phụ thuộc đáng kể vào tuyến này. Với các nước đó, khí đốt từ Nga chiếm từ 65% đến 78% lượng nhập khẩu, và từ 12% đến 22% tổng mức tiêu thụ năng lượng. Vì vậy, ngừng vận chuyển khí đốt qua Ukraine sẽ khiến những quốc gia này bị ảnh hưởng nhiều nhất.
Trước việc đường ống qua Ukraine ngừng hoạt động, châu Âu hiện phải tìm một giải pháp thay thế cho lượng khí đốt còn thiếu đó, bằng cách mua thêm khí hóa lỏng (LNG) hoặc giảm mức tiêu thụ, bao gồm cả việc sử dụng nhiều than hơn. Hiện tại, giá thị trường của LNG cao hơn đáng kể so với giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2021.
Hai dây chuyền nhà máy LNG mới với công suất hàng năm là 36 tỷ m3 đã được xây dựng và đang chuẩn bị được đưa vào hoạt động tại Mỹ. Một số nhà máy tại Mỹ, Canada và Mexico cũng sắp hoàn thành. Đây có thể là cơ hội giúp châu Âu đa dạng nguồn cung năng lượng.
Thời gian tới, nhu cầu khí đốt của châu Âu đối với Nga có thể giảm dần do kế hoạch REPowerEU của EU đặt mục tiêu là hoàn toàn không phụ thuộc vào tất cả các loại nhiên liệu của Nga vào năm 2027. Bên cạnh đó, các khoản đầu tư đã được thực hiện vào năng lượng ít carbon và xây dựng các nhà máy LNG mới.
Sự chuyển dịch từ khí đốt của Nga sang thị trường LNG sẽ đòi hỏi các khoản đầu tư cơ sở hạ tầng đáng kể ở EU và các quốc gia sản xuất LNG, điều này làm tăng nguy cơ phụ thuộc lâu dài.
Chẳng hạn, Mỹ, quốc gia cung cấp 50% LNG cho châu Âu vào năm 2023, đã ủng hộ các thỏa thuận mua hàng dài hạn. Điều này không những kéo dài sự phụ thuộc của EU vào nhiên liệu hóa thạch mà còn có thể trì hoãn việc áp dụng công nghệ xanh trong việc thực hiện mục tiêu RePowerEU.
Nhìn chung, trong ngắn hạn đến trung hạn EU có thể không phải đối mặt với những tác động quá lớn, vì lượng khí đốt nhập khẩu qua đường ống của Nga vốn đã giảm 6 lần kể từ khi xung đột Nga - Ukraine xảy ra.
Tuy nhiên, gia tăng phụ thuộc vào LNG cũng có nguy cơ làm chậm quá trình chuyển đổi xanh. Bên cạnh đó, EU sẽ phải đối mặt với hệ quả chính trị. Giá khí đốt và việc một số quốc gia mất phí trung chuyển như Slovakia có thể gây căng thẳng cho nội bộ EU và làm phức tạp thêm sự phối hợp chính sách giữa các quốc gia.
Đối với Nga, quân bài này có thực sự gây sức ép đủ mạnh? Xét theo báo cáo của tập đoàn Gazprom trong 9 tháng đầu năm 2024, việc ngừng cung cấp khí đốt qua Ukraine khiến Nga mất khoảng 10% doanh thu và gần một nửa lợi nhuận của bộ phận khí đốt thuộc tập đoàn Gazprom.
Năm 2025, tỷ lệ này sẽ thấp hơn một chút do doanh thu và lợi nhuận tăng từ việc xuất khí đốt sang Trung Quốc. Gazprom dự kiến xuất khẩu 38 tỷ m3 khí đốt sang Trung Quốc, khoảng 25 tỷ m3 khí đốt sang Thổ Nhĩ Kỳ và 15 tỷ m3 sang châu Âu qua đường ống TurkStream đi qua Biển Đen. Do đó, 15 tỷ m3 khí đốt mà Gazprom mất do Ukraine ngừng trung chuyển chỉ chiếm khoảng 16% danh mục xuất khẩu của họ.
Mặc dù vậy, bài toán về thu nhập phức tạp hơn nhiều. Giả sử việc vận chuyển qua Ukraine vẫn được duy trì, giá khí đốt ở châu Âu sẽ vẫn ở mức 300 USD/1.000 m3. Với giá này, trong trường hợp ngừng vận chuyển, thì Nga đã mất khoảng 4,5 tỷ USD/năm.
Ngược lại, nếu giả định việc chấm dứt vận chuyển qua Ukraine sẽ khiến giá tăng khoảng 100 USD/1.000 m3 cho 40 tỷ m3 còn lại mỗi năm được bán cho thị trường châu Âu và Thổ Nhĩ Kỳ, thì Nga gần như không chịu tổn thất nào. Tuy nhiên, các tính toán này chỉ là tạm thời, vì sự xuất hiện sắp tới của các nguồn cung cấp LNG mới trên thị trường có khả năng bù đắp cho sự thiếu hụt.
Vì vậy, tổn thất về kinh tế đối với Nga vẫn còn là điều cần xem xét và cân nhắc dựa trên tình hình thực tế.
Ở khía cạnh khác, việc ngừng trung chuyển khí đốt qua Ukraine có thể sẽ ảnh hưởng với Nga về địa chính trị. Trong lịch sử, lợi thế khí đốt đã củng cố vị thế của Nga trong khu vực. Tuy nhiên, ảnh hưởng này giờ đây có thể đang bị tác động. Hơn nữa, với việc mất tuyến trung chuyển qua Ukraine, kết nối đường ống của Nga với thị trường khí đốt EU, hiện chỉ phụ thuộc vào Thổ Nhĩ Kỳ, có thể khiến Nga thay đổi chính sách với Thổ Nhĩ Kỳ.
Ngoài ra, khi khí đốt của Azerbaijan đang nổi lên như một giải pháp thay thế khả thi cho châu Âu, thì ảnh hưởng của Nga trong quan hệ địa chính trị với Azerbaijan có khả năng sẽ bị ảnh hưởng theo.
Như vậy, bài toán về kinh tế giờ đây còn kéo theo bài toán về chiến lược trong khu vực, đánh dấu sự thay đổi đáng kể trong chiến lược năng lượng khu vực của Nga.