Bài viết lần này tôi muốn đề cập tới những hạn chế của Lão giáo hay còn gọi là Đạo giáo đối với khả năng nhận thức của đại đa số người Việt. Tôi biết đụng chạm đến những vấn đề như ngôn ngữ, tôn giáo hoặc truyền thống là một điều không hề dễ dàng vì đó là niềm tin của nhiều người. Tuy nhiên, sẽ không khách quan và đầy đủ khi chúng ta không xét tất cả những khía cạnh này trong việc hình thành tập quán tư duy cũng như tính cách của một cộng đồng. Một lập luận phổ biến của nhiều người không đọc kỹ những bài viết của tôi là: “Tôn giáo nào cũng dạy người ta hướng thiện, làm người tốt”.
Tôi không phủ nhận điều này nhưng xét về góc độ khoa học, tôi muốn mọi người trước khi nhận xét đánh giá hai điều quan trọng:
1. Những triết lý và tư tưởng của tôn giáo đó được áp dụng vào xã hội như thế nào? Sâu sắc và đúng đắn hay hời hợt và sai lầm? Có tốt đẹp và tích cực như trên lý thuyết hay không và có thúc đẩy xã hội phát triển hay bị lợi dụng theo hướng ngu dân hóa?
2. Triết lý hoặc tư tưởng đó có chịu dung nạp và cạnh tranh công bằng với những tư tưởng mới tiến bộ hơn hay tìm mọi cách chèn ép cấm đoán những tư tưởng khác để giữ vị trí độc tôn trong xã hội?
Hi vọng mọi người phản biện theo lý tính, đừng theo cảm tính
------------------
Một tôn giáo luôn luôn có hai phần: giáo lý và tín ngưỡng. Nếu ví tôn giáo như một tảng băng thì giáo lý, hay còn gọi là phần triết lý của tôn giáo đó, là cốt lõi của một tôn giáo và là phần chìm sâu dưới đáy. Để hiểu được trọn vẹn phần giáo lý của một tôn giáo không phải là một điều đơn giản.
Thứ nhất giáo lý của các tôn giáo đều được viết bằng những ngôn ngữ cổ và việc phiên dịch dù muốn dù không cũng không thể truyền tải hết ý nghĩa của giáo lý đó.
Thứ hai, để nghiên cứu giáo lý của một tôn giáo, người nghiên cứu cần có một trình độ hiểu biết nhất định và rất nhiều thời gian để dành cho việc nghiên cứu. Người dịch kinh sách có thể cố tình diễn giải theo ý mình vì trình độ không đủ hoặc theo mục đích riêng của mình để thao túng các tín đồ.
Phần lớn những người theo tôn giáo chỉ tiếp xúc với phần giáo lý qua những lời giảng của người đại diện cho tôn giáo (linh mục, mục sư, hòa thượng…) với hình thức rút gọn gọi là giáo điều chứ ít khi có người có đủ trình độ, điều kiện và thời gian để nghiên cứu giáo lý một cách bài bản. Một lần nữa, giáo điều này được giảng giải chính xác hay mơ hồ, theo hướng tích cực hay tiêu cực , có dụng ý chính trị hay không đều phụ thuộc vào trình độ và ý đồ của người giảng giải. Và tùy theo trình độ nhận thức cũng như mức độ sùng tín của tín đồ mà những giáo điều này có được suy luận theo hướng phản biện hay là mù quáng tuân theo.
Lão giáo (hay Đạo giáo) là tôn giáo nguyên thủy của Trung Quốc ra đời rất lâu trước Khổng giáo và là một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới. Bắt nguồn từ những tín ngưỡng dân gian và những triết lý giải thích sự hình thành thế giới của người Trung Quốc cổ đại, Lão giáo từng bước được hình thành và hoàn thiện thành một tôn giáo có giáo lý và nghi thức hoàn chỉnh. Giáo lý của Lão giáo tập trung trong ba tác phẩm Kinh Dịch, Đạo Đức Kinh và Nam Hoa Kinh.
Nền tảng lý luận của Đạo giáo được trình bày qua tác phẩm Kinh Dịch, tương truyền là thư tịch cổ nhất của Trung Quốc được truyền từ thời Phục Hy, một vị vua trong thần thoại. “Dịch” có nghĩa là thay đổi và dịch chuyển chỉ sự vận động không ngừng của vũ trụ. Kinh Dịch đưa ra những khái niệm giải thích sự hình thành vạn vật vẫn còn phổ biến đến ngày nay như Thái Cực (hợp nhất, hỗn mang) sinh Lưỡng Nghi (âm và dương) sinh Tứ Tượng (Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm) sinh Bát Quái (tám quẻ đơn gồm Càn (trời), Khôn (đất), Cấn (núi), Tốn (gió), Chấn (sấm sét), Khảm (nước), Ly (lửa) và Đoài (ao hồ)) và sáu mươi tư quẻ kép (do bát quái chồng lên nhau). Cùng với Ngũ Hành (Kim, Mộc Thủy, Hỏa, Thổ), Lưỡng Nghi chi phối mọi sự sinh diệt của những vật chất hữu hình trong vũ trụ. Tất cả được gọi chung là Đạo (con đường). Tư tưởng chủ yếu của Đạo giáo lúc bấy giờ là con người sống chan hòa với thiên nhiên vì con người vốn là một phần của thiên nhiên. Muốn vất bỏ ưu phiền trong cuộc sống con người phải rũ bỏ được những ham muốn về danh lợi tiền tài.
Trong Đạo giáo, những người có thể hiểu được lẽ âm dương tuần hoàn của đất trời thiên nhiên mới là cái đạo đúng sống cho phù hợp được gọi là “chân nhân” (con người thật sự). Những vị chân nhân này thường từ bỏ cuộc sống thế tục để lên núi tu luyện bằng cách luyện khí công, ngồi thiền, hấp thụ tinh khí của trời đất, luyện đơn dược. Nếu thành công họ có thể trẻ mãi không già, vượt qua vòng sinh lão bệnh tử và trở thành tiên. Ngoài việc luyện đơn và tu hành, các vị chân nhân hay đạo sĩ còn biết đoán vận mệnh con người hoặc một triều đại qua bốc phệ (bói mu rùa, bói cỏ thi), chiêm tinh (xem tinh tượng trên trời để đoán vận mệnh của con người hoặc của quốc gia) và chữa bệnh bằng cách trừ tà hoặc bằng thảo dược và khí công. Các loài cầm thú cây cỏ cũng có thể tu hành tuy nhiên thú tính chưa dứt được nên khó có thể thành chánh quả trở thành tiên mà tu theo còn đường tà đạo để thành yêu quái. Các yêu quái này nếu có thiện căn sẽ tiếp tục tìm các vị chân nhân đắc đạo để theo hầu hạ và tu hành, còn không chúng sẽ kết bè kết phái quấy nhiễu con người như các loài yêu quái trong Tây Du Ký.
Tác phẩm tư tưởng triết học quan trọng thứ hai của Lão giáo là Đạo Đức Kinh của Lão Tử tổng hợp tất cả những nguyên lý của Lão giáo. Đạo Đức Kinh gồm 81 chương, 5000 chữ và hai phần Thượng Hạ. Ngoài việc diễn giải thêm về những khái niệm căn bản của Kinh Dịch, Đạo Đức Kinh còn có hai triết lý quan trọng đó là Vô Vi (Vô cầu, vô tranh, vô đoạt, vô chấp) và Nhân Ái (sống chan hòa, thương yêu, cứu giúp người khác). Theo Lão Tử, con người sinh ra vốn là một thực thể của vũ trụ và vạn vật cũng như muôn loài khác. Cuộc sống không có gì là vui cũng chẳng có gì là buồn, chẳng có gì để sở hữu hay tranh chấp. Danh lợi đều là phù du. Lão Tử không đề cập đến thiên đường hay địa ngục hay luân hồi chuyển kiếp. Con người chỉ đơn giản sống trọn kiếp người rồi trở về với hư không. Người hiểu được đạo này có thể thoát được cái chết bằng cách tu tiên, thọ ngang trời đất với điều kiện phải dứt bỏ hết những thứ trần tục.
Sau Lão Tử, Trang Tử, một triết gia khác sinh vào thế kỉ thứ 4 trước Công Nguyên đã soạn thảo Nam Hoa Chân Kinh giải thích đạo vô vi qua những câu chuyện ngụ ngôn hoặc những lời đối đáp. Trang Tử bày tỏ sự chán ghét của mình với chế độ thống trị phong kiến và những gì thuộc về đạo đức phong kiến (Nho giáo). Tương truyền, Trang Tử thử vợ bằng cách hỏi vợ khi mình chết vợ sẽ thế nào. Vợ ông bảo sẽ thủ tiết thờ chồng. Một thời gian ngắn sau, Trang Tử giả chết và ngầm sai một người học trò đẹp trai của mình quyến rũ vợ mình. Quả nhiên vợ Trang Tử xiêu lòng và khi người học trò đó giả vờ bị bệnh nặng cần thuốc trị là quả tim của người mới chết, vợ Trang Tử không ngần ngại đề nghị mổ xác chồng lấy tim chữa bệnh cho tình nhân. Trang Tử sống dậy vạch mặt vợ rồi chán nản bỏ vào thâm sơn cùng cốc sau hóa bướm bay đi mất.
Phần nổi của tảng băng chính là phần tín ngưỡng bao gồm các nghi thức tôn giáo và các hình tượng tôn giáo. Đây là phần được đa số giáo dân tiếp cận vì nó dễ tiếp cận và có tác dụng rất lớn về mặt tâm lý đối với đa số giáo dân. Nhưng nếu lạm dụng vào phần tín ngưỡng nhưng không hiểu sâu hiểu đúng về giáo lý, con người rất dễ bị lệ thuộc vào tôn giáo và bị lợi dụng. Từ cuối thời Đông Hán, Đạo giáo đứng sau các cuộc khởi nghĩa nông dân nhằm lật đổ triều đình trong đó nổi tiếng nhất là cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng của ba anh em họ Trương chống lại chính quyền trung ương nhà Hán. Lợi dụng sự mê tín và đói khổ của người dân, các đạo sĩ đạo giáo thường tổ chức phát chẩn lương thực cứu đói, chữa bệnh miễn phí, làm bùa phép (thực ra là giở những trò tiểu xảo dựa trên sự thiếu hiểu biết của dân nghèo)… rồi dựa vào thiên cơ để xúi giục người dân nổi dậy. Chính vì vậy mà trong thời Đông Hán và Tam Quốc, Đạo giáo bị giai cấp thống trị coi như kẻ thù. Nếu như Nho giáo là cái ách của giai cấp thống trị thì Đạo giáo là sự cứu rỗi và giải thoát.
Qua nhiều biến thiên của lịch sử, Đạo giáo phân hóa thành hai nhánh: đạo giáo phù thủy và đạo giáo tiên học.
Người theo đạo giáo phù thủy được gọi là đạo sĩ, đạo nhân học cách sử dụng bùa phép, trừ tà bắt ma, luyện đơn dược, luyện công. Những đạo sĩ cao tay còn được xem là trên thông thiên văn, dưới thạo địa lý, biết điều khiển cả âm binh. Đạo sĩ có kẻ tốt người xấu. Các đạo sĩ xấu thường lợi dụng đạo pháp để làm chuyện đồi bại như luyện bùa ngải thuốc độc hại người, luyện phòng trung thuật (thuật phòng the) để làm khuynh đảo các vị vua háo sắc muốn trường sinh bất tử, thậm chí có những đạo sĩ còn bắt cóc trẻ con đồng nam đồng nữ nấu thuốc luyện đơn hoặc mang người tế sống để giữ của. Thay vì tìm cách chống lại triều đình, các đạo sĩ xấu xa (tà đạo) tìm cách tiến cử mình với các vị vua bằng cách khoe khoang việc biết luyện thuốc trường sinh, xuân dược (thuốc kích dục) và biến đá thành vàng (giả kim) để mưu cầu danh lợi. Nhiều tay yêu đạo còn được tín nhiệm tới mức được phong làm quốc sư do biết cách chiều theo những trò bệnh hoạn của các hoàng đế. Không thiếu các triều đại của Trung Quốc bị diệt vong cũng do tin vào các đạo sĩ kiểu này.
Phái tu tiên không màng đến chuyện đời, sống trên các ngọn núi cao hiểm trở để lánh đời, nhất quyết không tham gia chính sự. Những vị chân nhân này thường tham thiền, luyện công và làm thuốc trong các đạo quán của mình. Họ không thu nhận đệ tử bừa bãi mà chỉ truyền đạo cho những người có duyên. Trong các truyện kiếm hiệp Kim Dung thường nhắc đến Ngũ Nhạc, năm ngọn núi thiêng (Hằng, Hành, Thái, Hoa, Tung sơn) vốn là nơi các đạo sĩ ưa chuộng để lập đạo quán và dạy võ thuật. Nhiều môn phái võ công Trung Quốc bắt nguồn từ phái tu tiên trong đó nổi tiếng nhất và vẫn còn phổ biến đến nay là Thái Cực Quyền của Trương Tam Phong.

Là một tôn giáo lâu đời và tồn tại đến ngày nay, Đạo giáo tất nhiên có nhiều mặt tích cực.
- Trước nhất, Đạo giáo khuyên con người sống thuận theo tự nhiên, không nên quá coi trọng tiền bạc và danh vọng, phải có lòng từ bi và giúp đỡ những người yếu thế. Đây cũng là tôn chỉ chung của hầu hết tất cả các tôn giáo chính thống trên thế giới. Thuyết sáng thế của tôn giáo dựa trên Thái Cực (hỗn mang) sinh ra Lưỡng Nghi (âm dương) và từ đó sinh ra vạn vật ở một khía cạnh nào đó khá giống với thuyết BigBang của phương Tây sau này.
- Đạo giáo còn giúp phát triển các thuật của Đông Y như chữa bệnh bằng thảo dược, châm cứu các huyệt đạo, luyện khí công và thuật dưỡng sinh còn phổ biến đến tận bây giờ. Dựa vào âm dương ngũ hành, Đạo giáo phân biệt các loại thực phẩm và thảo dược theo vị (ngọt, cay, chua, mặn, đắng) và tính (hàn, bình, nhiệt) để theo đó mà khắc chế các bệnh tật. Đạo giáo còn đề xuất cách phân loại các loại động vật (gọi chung là “trùng”) theo hình dạng bên ngoài thành các loài: mao (có lông mao, chỉ các loài thú), vũ (có lông vũ, các loài chim), lân (có vảy, gồm cá và bò sát) và khỏa (trần trụi, các loài không có gì che phủ bên ngoài, trong đó có loài người). Tuy cách phân loại này không chính xác lắm về mặt khoa học ngày nay, nhưng đối với thời cổ đại, đây là một cách phân loại khá bài bản và có căn cứ.
- Ngoài ra, Đạo giáo còn có một đóng góp quan trọng về mỹ thuật đó là nghệ thuật vẽ tranh thủy mặc (sơn thủy).
(Tiếp theo dưới comment)
---
Huỳnh Chí Viễn
Tôi không phủ nhận điều này nhưng xét về góc độ khoa học, tôi muốn mọi người trước khi nhận xét đánh giá hai điều quan trọng:
1. Những triết lý và tư tưởng của tôn giáo đó được áp dụng vào xã hội như thế nào? Sâu sắc và đúng đắn hay hời hợt và sai lầm? Có tốt đẹp và tích cực như trên lý thuyết hay không và có thúc đẩy xã hội phát triển hay bị lợi dụng theo hướng ngu dân hóa?
2. Triết lý hoặc tư tưởng đó có chịu dung nạp và cạnh tranh công bằng với những tư tưởng mới tiến bộ hơn hay tìm mọi cách chèn ép cấm đoán những tư tưởng khác để giữ vị trí độc tôn trong xã hội?
Hi vọng mọi người phản biện theo lý tính, đừng theo cảm tính
------------------
Một tôn giáo luôn luôn có hai phần: giáo lý và tín ngưỡng. Nếu ví tôn giáo như một tảng băng thì giáo lý, hay còn gọi là phần triết lý của tôn giáo đó, là cốt lõi của một tôn giáo và là phần chìm sâu dưới đáy. Để hiểu được trọn vẹn phần giáo lý của một tôn giáo không phải là một điều đơn giản.
Thứ nhất giáo lý của các tôn giáo đều được viết bằng những ngôn ngữ cổ và việc phiên dịch dù muốn dù không cũng không thể truyền tải hết ý nghĩa của giáo lý đó.
Thứ hai, để nghiên cứu giáo lý của một tôn giáo, người nghiên cứu cần có một trình độ hiểu biết nhất định và rất nhiều thời gian để dành cho việc nghiên cứu. Người dịch kinh sách có thể cố tình diễn giải theo ý mình vì trình độ không đủ hoặc theo mục đích riêng của mình để thao túng các tín đồ.
Phần lớn những người theo tôn giáo chỉ tiếp xúc với phần giáo lý qua những lời giảng của người đại diện cho tôn giáo (linh mục, mục sư, hòa thượng…) với hình thức rút gọn gọi là giáo điều chứ ít khi có người có đủ trình độ, điều kiện và thời gian để nghiên cứu giáo lý một cách bài bản. Một lần nữa, giáo điều này được giảng giải chính xác hay mơ hồ, theo hướng tích cực hay tiêu cực , có dụng ý chính trị hay không đều phụ thuộc vào trình độ và ý đồ của người giảng giải. Và tùy theo trình độ nhận thức cũng như mức độ sùng tín của tín đồ mà những giáo điều này có được suy luận theo hướng phản biện hay là mù quáng tuân theo.
Lão giáo (hay Đạo giáo) là tôn giáo nguyên thủy của Trung Quốc ra đời rất lâu trước Khổng giáo và là một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới. Bắt nguồn từ những tín ngưỡng dân gian và những triết lý giải thích sự hình thành thế giới của người Trung Quốc cổ đại, Lão giáo từng bước được hình thành và hoàn thiện thành một tôn giáo có giáo lý và nghi thức hoàn chỉnh. Giáo lý của Lão giáo tập trung trong ba tác phẩm Kinh Dịch, Đạo Đức Kinh và Nam Hoa Kinh.
Nền tảng lý luận của Đạo giáo được trình bày qua tác phẩm Kinh Dịch, tương truyền là thư tịch cổ nhất của Trung Quốc được truyền từ thời Phục Hy, một vị vua trong thần thoại. “Dịch” có nghĩa là thay đổi và dịch chuyển chỉ sự vận động không ngừng của vũ trụ. Kinh Dịch đưa ra những khái niệm giải thích sự hình thành vạn vật vẫn còn phổ biến đến ngày nay như Thái Cực (hợp nhất, hỗn mang) sinh Lưỡng Nghi (âm và dương) sinh Tứ Tượng (Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm) sinh Bát Quái (tám quẻ đơn gồm Càn (trời), Khôn (đất), Cấn (núi), Tốn (gió), Chấn (sấm sét), Khảm (nước), Ly (lửa) và Đoài (ao hồ)) và sáu mươi tư quẻ kép (do bát quái chồng lên nhau). Cùng với Ngũ Hành (Kim, Mộc Thủy, Hỏa, Thổ), Lưỡng Nghi chi phối mọi sự sinh diệt của những vật chất hữu hình trong vũ trụ. Tất cả được gọi chung là Đạo (con đường). Tư tưởng chủ yếu của Đạo giáo lúc bấy giờ là con người sống chan hòa với thiên nhiên vì con người vốn là một phần của thiên nhiên. Muốn vất bỏ ưu phiền trong cuộc sống con người phải rũ bỏ được những ham muốn về danh lợi tiền tài.
Trong Đạo giáo, những người có thể hiểu được lẽ âm dương tuần hoàn của đất trời thiên nhiên mới là cái đạo đúng sống cho phù hợp được gọi là “chân nhân” (con người thật sự). Những vị chân nhân này thường từ bỏ cuộc sống thế tục để lên núi tu luyện bằng cách luyện khí công, ngồi thiền, hấp thụ tinh khí của trời đất, luyện đơn dược. Nếu thành công họ có thể trẻ mãi không già, vượt qua vòng sinh lão bệnh tử và trở thành tiên. Ngoài việc luyện đơn và tu hành, các vị chân nhân hay đạo sĩ còn biết đoán vận mệnh con người hoặc một triều đại qua bốc phệ (bói mu rùa, bói cỏ thi), chiêm tinh (xem tinh tượng trên trời để đoán vận mệnh của con người hoặc của quốc gia) và chữa bệnh bằng cách trừ tà hoặc bằng thảo dược và khí công. Các loài cầm thú cây cỏ cũng có thể tu hành tuy nhiên thú tính chưa dứt được nên khó có thể thành chánh quả trở thành tiên mà tu theo còn đường tà đạo để thành yêu quái. Các yêu quái này nếu có thiện căn sẽ tiếp tục tìm các vị chân nhân đắc đạo để theo hầu hạ và tu hành, còn không chúng sẽ kết bè kết phái quấy nhiễu con người như các loài yêu quái trong Tây Du Ký.
Tác phẩm tư tưởng triết học quan trọng thứ hai của Lão giáo là Đạo Đức Kinh của Lão Tử tổng hợp tất cả những nguyên lý của Lão giáo. Đạo Đức Kinh gồm 81 chương, 5000 chữ và hai phần Thượng Hạ. Ngoài việc diễn giải thêm về những khái niệm căn bản của Kinh Dịch, Đạo Đức Kinh còn có hai triết lý quan trọng đó là Vô Vi (Vô cầu, vô tranh, vô đoạt, vô chấp) và Nhân Ái (sống chan hòa, thương yêu, cứu giúp người khác). Theo Lão Tử, con người sinh ra vốn là một thực thể của vũ trụ và vạn vật cũng như muôn loài khác. Cuộc sống không có gì là vui cũng chẳng có gì là buồn, chẳng có gì để sở hữu hay tranh chấp. Danh lợi đều là phù du. Lão Tử không đề cập đến thiên đường hay địa ngục hay luân hồi chuyển kiếp. Con người chỉ đơn giản sống trọn kiếp người rồi trở về với hư không. Người hiểu được đạo này có thể thoát được cái chết bằng cách tu tiên, thọ ngang trời đất với điều kiện phải dứt bỏ hết những thứ trần tục.
Sau Lão Tử, Trang Tử, một triết gia khác sinh vào thế kỉ thứ 4 trước Công Nguyên đã soạn thảo Nam Hoa Chân Kinh giải thích đạo vô vi qua những câu chuyện ngụ ngôn hoặc những lời đối đáp. Trang Tử bày tỏ sự chán ghét của mình với chế độ thống trị phong kiến và những gì thuộc về đạo đức phong kiến (Nho giáo). Tương truyền, Trang Tử thử vợ bằng cách hỏi vợ khi mình chết vợ sẽ thế nào. Vợ ông bảo sẽ thủ tiết thờ chồng. Một thời gian ngắn sau, Trang Tử giả chết và ngầm sai một người học trò đẹp trai của mình quyến rũ vợ mình. Quả nhiên vợ Trang Tử xiêu lòng và khi người học trò đó giả vờ bị bệnh nặng cần thuốc trị là quả tim của người mới chết, vợ Trang Tử không ngần ngại đề nghị mổ xác chồng lấy tim chữa bệnh cho tình nhân. Trang Tử sống dậy vạch mặt vợ rồi chán nản bỏ vào thâm sơn cùng cốc sau hóa bướm bay đi mất.
Phần nổi của tảng băng chính là phần tín ngưỡng bao gồm các nghi thức tôn giáo và các hình tượng tôn giáo. Đây là phần được đa số giáo dân tiếp cận vì nó dễ tiếp cận và có tác dụng rất lớn về mặt tâm lý đối với đa số giáo dân. Nhưng nếu lạm dụng vào phần tín ngưỡng nhưng không hiểu sâu hiểu đúng về giáo lý, con người rất dễ bị lệ thuộc vào tôn giáo và bị lợi dụng. Từ cuối thời Đông Hán, Đạo giáo đứng sau các cuộc khởi nghĩa nông dân nhằm lật đổ triều đình trong đó nổi tiếng nhất là cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng của ba anh em họ Trương chống lại chính quyền trung ương nhà Hán. Lợi dụng sự mê tín và đói khổ của người dân, các đạo sĩ đạo giáo thường tổ chức phát chẩn lương thực cứu đói, chữa bệnh miễn phí, làm bùa phép (thực ra là giở những trò tiểu xảo dựa trên sự thiếu hiểu biết của dân nghèo)… rồi dựa vào thiên cơ để xúi giục người dân nổi dậy. Chính vì vậy mà trong thời Đông Hán và Tam Quốc, Đạo giáo bị giai cấp thống trị coi như kẻ thù. Nếu như Nho giáo là cái ách của giai cấp thống trị thì Đạo giáo là sự cứu rỗi và giải thoát.
Qua nhiều biến thiên của lịch sử, Đạo giáo phân hóa thành hai nhánh: đạo giáo phù thủy và đạo giáo tiên học.
Người theo đạo giáo phù thủy được gọi là đạo sĩ, đạo nhân học cách sử dụng bùa phép, trừ tà bắt ma, luyện đơn dược, luyện công. Những đạo sĩ cao tay còn được xem là trên thông thiên văn, dưới thạo địa lý, biết điều khiển cả âm binh. Đạo sĩ có kẻ tốt người xấu. Các đạo sĩ xấu thường lợi dụng đạo pháp để làm chuyện đồi bại như luyện bùa ngải thuốc độc hại người, luyện phòng trung thuật (thuật phòng the) để làm khuynh đảo các vị vua háo sắc muốn trường sinh bất tử, thậm chí có những đạo sĩ còn bắt cóc trẻ con đồng nam đồng nữ nấu thuốc luyện đơn hoặc mang người tế sống để giữ của. Thay vì tìm cách chống lại triều đình, các đạo sĩ xấu xa (tà đạo) tìm cách tiến cử mình với các vị vua bằng cách khoe khoang việc biết luyện thuốc trường sinh, xuân dược (thuốc kích dục) và biến đá thành vàng (giả kim) để mưu cầu danh lợi. Nhiều tay yêu đạo còn được tín nhiệm tới mức được phong làm quốc sư do biết cách chiều theo những trò bệnh hoạn của các hoàng đế. Không thiếu các triều đại của Trung Quốc bị diệt vong cũng do tin vào các đạo sĩ kiểu này.
Phái tu tiên không màng đến chuyện đời, sống trên các ngọn núi cao hiểm trở để lánh đời, nhất quyết không tham gia chính sự. Những vị chân nhân này thường tham thiền, luyện công và làm thuốc trong các đạo quán của mình. Họ không thu nhận đệ tử bừa bãi mà chỉ truyền đạo cho những người có duyên. Trong các truyện kiếm hiệp Kim Dung thường nhắc đến Ngũ Nhạc, năm ngọn núi thiêng (Hằng, Hành, Thái, Hoa, Tung sơn) vốn là nơi các đạo sĩ ưa chuộng để lập đạo quán và dạy võ thuật. Nhiều môn phái võ công Trung Quốc bắt nguồn từ phái tu tiên trong đó nổi tiếng nhất và vẫn còn phổ biến đến nay là Thái Cực Quyền của Trương Tam Phong.

Là một tôn giáo lâu đời và tồn tại đến ngày nay, Đạo giáo tất nhiên có nhiều mặt tích cực.
- Trước nhất, Đạo giáo khuyên con người sống thuận theo tự nhiên, không nên quá coi trọng tiền bạc và danh vọng, phải có lòng từ bi và giúp đỡ những người yếu thế. Đây cũng là tôn chỉ chung của hầu hết tất cả các tôn giáo chính thống trên thế giới. Thuyết sáng thế của tôn giáo dựa trên Thái Cực (hỗn mang) sinh ra Lưỡng Nghi (âm dương) và từ đó sinh ra vạn vật ở một khía cạnh nào đó khá giống với thuyết BigBang của phương Tây sau này.
- Đạo giáo còn giúp phát triển các thuật của Đông Y như chữa bệnh bằng thảo dược, châm cứu các huyệt đạo, luyện khí công và thuật dưỡng sinh còn phổ biến đến tận bây giờ. Dựa vào âm dương ngũ hành, Đạo giáo phân biệt các loại thực phẩm và thảo dược theo vị (ngọt, cay, chua, mặn, đắng) và tính (hàn, bình, nhiệt) để theo đó mà khắc chế các bệnh tật. Đạo giáo còn đề xuất cách phân loại các loại động vật (gọi chung là “trùng”) theo hình dạng bên ngoài thành các loài: mao (có lông mao, chỉ các loài thú), vũ (có lông vũ, các loài chim), lân (có vảy, gồm cá và bò sát) và khỏa (trần trụi, các loài không có gì che phủ bên ngoài, trong đó có loài người). Tuy cách phân loại này không chính xác lắm về mặt khoa học ngày nay, nhưng đối với thời cổ đại, đây là một cách phân loại khá bài bản và có căn cứ.
- Ngoài ra, Đạo giáo còn có một đóng góp quan trọng về mỹ thuật đó là nghệ thuật vẽ tranh thủy mặc (sơn thủy).
(Tiếp theo dưới comment)
---
Huỳnh Chí Viễn
Sửa lần cuối: