• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Bắt khẩn cấp: Giám đốc Đại học Huế Lê Anh Phương

Cơ quan Công an đã ra lệnh bắt giam ông Lê Anh Phương, Giám đốc Đại học Huế, để điều tra những sai phạm trong khoảng thời gian ông giữ chức Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm. Ông Lê Anh Phương (SN 1974, quê tỉnh Quảng Bình) được bổ nhiệm làm Giám đốc Đại học Huế nhiệm kỳ 2021-2026 vào tháng 7-2022​

Sáng 18/1, trao đổi với PV VietNamNet, ông Hồ Thanh Hải, Viện trưởng VKSND TP Huế xác nhận, đơn vị vừa phê chuẩn quyết định khởi tố vụ án, phê chuẩn lệnh bắt tạm giam đối với ông Lê Anh Phương, Giám đốc Đại học Huế.

z2504313442591f83965d7e517a1fcba51ff7c5502cd4d_xsfp.jpg
Ông Lê Anh Phương. Ảnh: CTV
Theo Viện trưởng VKSND TP Huế, ông Phương bị bắt để điều tra, làm rõ hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ trong thời gian giữ chức Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm (Đại học Huế).

Thời điểm trước khi bị bắt tạm giam, ông Lê Anh Phương có đơn gửi các trường đại học thành viên, các đơn vị trực thuộc Đại học Huế thông báo về việc bản thân xin nghỉ ốm; ủy nhiệm cho ông Bùi Văn Lợi - Phó Giám đốc Đại học Huế, quyền điều hành và giải quyết công việc của Đại học Huế trong thời gian này.

Ông Lê Anh Phương (SN 1974, quê tại Quảng Bình) tốt nghiệp Cử nhân ngành Toán học tại Trường Đại học Sư phạm Huế, sau đó học thạc sĩ, tiến sĩ tại Đại học Bách khoa Hà Nội.

Từ tháng 12/2016 đến tháng 5/2022, ông Lê Anh Phương giữ chức Phó Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế. Năm 2017, ông Phương được bổ nhiệm chức danh Phó Giáo sư.

Tháng 7/2022, ông Lê Anh Phương được Bộ GD&ĐT bổ nhiệm giữ chức Giám đốc Đại học Huế, nhiệm kỳ 2021-2026.

Lý do bắt:
ĐM dân Huế tinh hoa vô số, 1968 Việt Cộng giết mãi không hết. ĐM tư cách gì thằng này ngồi lên tinh hoa! Cho đi tù


GDVN - Thanh tra Bộ GD&ĐT đã thanh tra Dự án Đầu tư mua sắm thiết bị đào tạo bằng nguồn vốn chương trình mục tiêu quốc gia cho Trường Đại học Sư phạm, ĐH Huế.
Thanh tra Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố kết luận số 38/KL-TTr về việc thanh tra Dự án Đầu tư mua sắm thiết bị đào tạo bằng nguồn vốn chương trình mục tiêu quốc gia cho Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế.

Theo Kết luận thanh tra, chủ đầu tư dự án trên là Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế. Tổng dự toán đầu tư là 12.500.000.000 đồng. Nguồn kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước (Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo). Thời gian thực hiện là năm 2014.

Kết luận thanh tra chỉ rõ một số hạn chế, thiếu sót và vi phạm

Về hạn chế, thiếu sót, trong chuẩn bị đầu tư, Hội đồng thẩm định danh mục thiết bị của Dự án thành lập theo Quyết định 1015/QĐ-ĐHSP ngày 20/6/2014 không triển khai họp thẩm định thiết bị Dự án để đề nghị điều chỉnh các thiết bị theo ý kiến thẩm định của Cục Cơ sở vật chất và thiết bị trường học, đồ chơi trẻ em tại Công văn số 218/CSVCTHTH-TB.

Về thực hiện đầu tư, danh mục thiết bị kèm theo Biên bản nghiệm thu của cả 3 Gói thầu thuộc Dự án đều thiếu thông tin về Serial number đối với các thiết bị có gắn Serial number. Do đó, không đủ cơ sở để kiểm tra thực tế.

Bên cạnh đó, các nhà thầu của cả 3 gói thầu thuộc Dự án đều không thực hiện đào tạo, hướng dẫn sử dụng cho nhà trường (với vai trò bên mua hàng) theo đúng nội dung của Hợp đồng.

Tại một số nội dung của Biểu phạm vi cung cấp trong hồ sơ dự thầu của cả 03 gói thầu, hồ sơ dự thầu của các nhà thầu tham gia từng gói thầu đều có một số lỗi chính tả cũng như cách trình bày giống nhau. Tuy nhiên, chưa có đủ căn cứ để kết luận có sự “thỏa thuận để một hoặc nhiều bên chuẩn bị hồ sơ dự thầu cho các bên tham dự thầu để một bên thắng thầu" giữa các công ty, làm cơ sở xác định có hành vi vi phạm quy định tại điểm b khoản 3 Điều 89 Luật Đấu thầu.

truong-dhsp-hue-2-6625e0759c6be-7961.jpgẢnh: Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế.
Về vi phạm, kết luận nêu rõ, trong công tác chuẩn bị đầu tư, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế thực hiện thuê đơn vị thẩm định giá theo thủ tục chỉ định thầu rút gọn nhưng không thực hiện thương thảo hợp đồng theo quy định tại khoản 2 Điều 56 Nghị định 63/2014/NĐ-CP; không có kế hoạch lựa chọn nhà thầu gói thầu thẩm định giá và dự toán được phê duyệt theo quy định tại điểm b, c, d khoản 2 Điều 22 Luật Đấu thầu.

Cục Cơ sở vật chất và thiết bị trường học, đồ chơi trẻ em không lưu trữ đầy đủ hồ sơ liên quan đến việc xây dựng, trình, thẩm định, phê duyệt Dự án vi phạm quy định tại điểm 171 mục 13 Bảng thời hạn bảo quản hồ sơ, tài liệu hình thành phổ biến trong hoạt động của cơ quan, tổ chức ban hành kèm theo Thông tư số 09/2011/TT-BNV; điểm 70 mục 5 Phụ lục I thời hạn bảo quản tài liệu hình thành trong hoạt động của cơ quan, tổ chức ban hành kèm theo Thông tư số 10/2022/TT-BNV.

Trong thực hiện đầu tư, khi thực hiện thuê đơn vị tư vấn lập hồ sơ mời thầu cả 3 gói thầu thuộc Dự án theo thủ tục chỉ định thầu rút gọn, nhà trường không thực hiện thương thảo hợp đồng theo quy định tại i khoản 2 Điều 56 Nghị định 63/2014/NĐ-CP.

Công ty Cổ phần Tư vấn xây dựng Thừa Thiên Huế là đơn vị được Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế chỉ định thầu tư vấn lập hồ sơ mời thầu nhưng không có tên trong cơ sở dữ liệu về nhà thầu của cơ quan quản lý nhà nước theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 22 Luật Đấu thầu.

Tổ thẩm định hồ sơ mời thầu và kết quả đấu thầu, tổ chuyên gia xét thầu cả 3 gói thầu thuộc Dự án ban hành theo Quyết định số 1749/QĐ-ĐHSP không đáp ứng điều kiện theo quy định tại điểm b, c, d khoản 3 Điều 116 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP và khoản 2, khoản 3 Điều 4 Thông tư số 21/2010/TT-BKH.

Ngoài ra, nhà trường ban hành Quyết định số 1736/QĐ-ĐHSP ngày 03/11/2014 phê duyệt chỉ định thầu Tư vấn lập hồ sơ mời thầu Gói thầu số 1; ban hành Quyết định số 1735/QĐ-ĐHSP ngày 03/11/2014 phê duyệt chỉ định thầu Tư vấn lập hồ sơ mời thầu Gói thầu số 2; ban hành Quyết định số 1734/QĐ-ĐHSP ngày 03/11/2014 phê duyệt chỉ định thầu Tư vấn lập hồ sơ mời thầu Gói thầu số 3 khi không có kế hoạch lựa chọn nhà thầu là không đáp ứng điều kiện theo quy định tại điểm b, c, d khoản 2 Điều 22 Luật Đấu thầu.

Bên cạnh đó, báo cáo thẩm định hồ sơ mời thầu cả 3 gói thầu đều không có nội dung đánh giá về cơ sở pháp lý để lập hồ sơ mời thầu theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 105 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP.

Khi phê duyệt hồ sơ mời thầu 03 gói thầu thuộc Dự án, hồ sơ trình không có Tờ trình đề nghị phê duyệt hồ sơ mời thầu, quyết định phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu gói thầu tư vấn lập hồ sơ mời thầu theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 1 Điều 105 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP nhưng Hiệu trưởng vẫn ban hành Quyết định phê duyệt.

Biên bản mở thầu của cả 3 gói thầu thuộc Dự án đều không có đánh giá chi tiết các nội dung kiểm tra về tính hợp lệ và sự đầy đủ của hồ sơ dự thầu theo biểu mẫu số 3 ban hành kèm theo Thông tư số 09/2010/TT-BKH.

Báo cáo đánh giá hồ sơ dự thầu của cả 3 gói thầu thuộc Dự án đều có một số vi phạm quy định tại Thông tư số 09/2010/TT-BKH. Sau khi có kết quả đánh giá về kỹ thuật và xếp hạng nhà thầu, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế không tổ chức thẩm định và phê duyệt danh sách xếp hạng nhà thầu của cả 3 gói thầu theo quy định tại khoản 3 Điều 106 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP.

Báo cáo thẩm định kết quả đấu thầu cả 3 gói thầu thuộc Dự án của Tổ thẩm định đều có một số vi phạm quy định tại Thông tư số 08/2010/TT-BKH. Sau khi có kết quả kết quả lựa chọn nhà thầu của 3 gói thầu thuộc Dự án, văn bản thông báo kết quả lựa chọn nhà thầu của Trường gửi các Công ty trúng thầu và Công ty không trúng thầu, không có đầy đủ nội dung quy định tại khoản 6 Điều 20 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP.

Việc Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế đồng ý gia hạn thời gian thực hiện hợp đồng gói thầu số 1 với Công ty AIC; gia hạn thời gian thực hiện hợp đồng Gói thầu số 3 với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Khoa Trí là không đúng quy định tại khoản 6 Điều 67 Luật Đấu thầu.

Khi thực hiện gia hạn hợp đồng Gói thầu số 1 và Gói thầu số 3, Trường và nhà thầu không làm thủ tục bảo lãnh thực hiện hợp đồng đối với thời gian gia hạn là vi phạm quy định tại khoản 4 Điều 66 Luật Đấu thầu.

Kết thúc thực hiện Dự án, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế chưa thực hiện quyết toán Dự án là không đúng quy định tại Điều 19 Thông tư số 19/2011/TT-BTC.

Đáng chú ý, nhà trường không thực hiện việc báo cáo quản lý, sử dụng tài sản của Dự án sau khi đưa vào sử dụng theo quy định tại khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 34 Nghị định số 52/2009/NĐ-CP.
 

Có thể bạn quan tâm

Top