nguyennghia6666
Chịu khó la liếm
Mọi người thường nói rủi ro cao thì lợi nhuận mới cao, liều mới ăn nhiều, nhưng có cách nào làm ngược lại quy luật này mà vẫn đạt đúng kết quả mong muốn không?
nguyennghia, [19/1/2025 11:10 AM]
Rủi ro là một khái niệm khó nắm bắt và thống nhất, ngay cả trong giới học thuật. Theo Từ Điển Di Sản Tiếng Việt: Định nghĩa rủi ro là khả năng bị hại hoặc chịu thiệt. Nếu bạn mua trái phiếu kho bạc với lợi tức 5% và nắm đến khi đáo hạn, bạn gần như chắc chắn kiếm được 5% tiền lãi trước thuế thu nhập, nguy cơ thua lỗ trường hợp này quá nhỏ, có thể chưa đến 0,1%. Nhưng nếu bạn nắm cổ phiếu DIG trong vòng 2 năm với mức lợi tức mong muốn 80%, thì khả năng thua lỗ cũng cao hơn(cổ tức của công ty có thể bị cắt và nghiêm trọng hơn, giá thị trường vào thời điểm bán có thể thấp hơn nhiều, khiến bạn phải chịu khoản lỗ nặng). Vậy thì rủi ro đầu tư là khoản lãi chứng khoán kì vọng không thể trở thành hiện thực.
Một khi thống nhất quan điểm cho rằng yếu tố rủi ro đối với nhà đầu tư có liên quan đến nguy cơ không đạt được lợi nhuận kỳ vọng, thì một thước đo tự nhiên sẽ hình thành bao gồm: Khả năng biến đổi hoặc phân tán lợi nhuận trong tương lai. Do đó, rủi ro tài chính thông thường được định nghĩa là sự biến đổi hoặc chênh lệch cơ bản của lợi nhuận.
Một trong những định lý được chứng minh thuyết phục nhất trong lĩnh vực tài chính đó là nhìn chung, nhà đầu tư sẽ có lợi nhuận lớn hơn khi chấp nhận rủi ro cao hơn. Công ty Abbotson Associates đã thực hiện một nghiên cứu chi tiết nhất về chủ đề này, dữ liệu được lấy từ thị trường Mỹ năm 1926 đến 2005. Kết quả nghiên cứu cho thấy sau một thời gian dài, cổ phiếu thường tạo ra tổng tỷ lệ lợi nhuận cao vượt trội so với các tài sản vốn khác. Bao gồm cả cổ tức và lãi vốn, lợi nhuận này cao hơn hẳn so với trái phiếu dài hạn, trái phiếu công và cả tỷ lệ lạm phát tính bằng CPI hằng năm. Do đó cổ phiếu có xu hướng tạo ra lợi nhuận thực dương, tức là lợi nhuận sau khi loại bỏ mọi tác động lạm phát gây ra. Tuy nhiên các số liệu cũng chỉ ra rằng lợi nhuận từ cổ phiếu có độ biến thiên rất cao, được phản ánh qua độ lệch chuẩn và phạm vi lợi nhuận hằng năm(Trong quá khứ, lợi nhuận từ cổ phiếu đã biến thiên từ lỗ trên 50% vào năm 1931 đến lãi trên 50% vào năm 1933). Điều đó cho thấy, để kiếm được lợi nhuận, các nhà đầu tư cổ phiếu phải đối diện với rủi ro cao hơn rất nhiều so với các nhà đầu tư trái phiếu. Cổ phiếu các công ty penny thậm chí còn có độ lệch chuẩn lớn hơn.
Cũng có nhiều giai đoạn kéo dài năm năm hoặc lâu hơn, cổ phiếu chỉ mang lại tỷ lệ lợi nhuận âm. Đầu thập niên 1930 và 1970 là khoản thời gian cực tệ hại đối với thị trường chứng khoán. Lần khác, trong suốt tháng 10 năm 1987, chỉ số bình quân thị trường đã mất đi hơn 1/3 giá trị(đây là lần vốn hóa thị trường mất nhiều nhất trong thời gian ngắn nhất tính từ 1930 đến 2005). Mặc dù vậy, trong suốt thời gian dài, các nhà đầu tư vẫn gặt hái được nhiều khoản lợi nhuận lớn nhờ chấp nhận rủi ro cao. Tuy nhiên, với mức lợi nhuận tối ưu nhất, luôn tồn tại một số cách thức giúp hạn chế rủi ro. Chính điều này đã đưa chính ta đến với Lý Thuyết Danh Mục Đầu Tư Hiện Đại - lý thuyết giúp cách mạng hóa quan điểm của cộng đồng đầu tư.
Lý thuyết Danh Mục Đầu Tư Hiện Đại hay còn gọi là MPT được Harry Markowitz xây dựng vào những năm 1950, ông đã được trao giải Nobel Kinh Tế năm 1990 nhờ vào những đóng góp này. Cuốn sách có tựa đề Porfolio Selection(Lựa Chọn Danh Mục Đầu Tư) chính là thành quả nghiên cứu luận văn tiến sĩ của ông tại trường Đại Học Chicago. Harry sở hữu vốn kinh nghiệm vô cùng phong phú được tích lũy từ quá trình giảng dạy ở trường Đại Học California, Los Angeles.
Thuật toán của thuyết MPT rất khó hiểu và rắc rối, khiến ngay cả trong các học giả cũng có rất nhiều người phải bận rộn phân tích và nghiên cứu thuật toán này. Song thật may mắn, bạn không cần phải đi qua mê cung căn bậc hai rối rắm để hiểu được bản chất của nó. Mà chỉ cần một ví dụ sẽ giúp bạn nắm được rõ ràng.
nguyennghia, [19/1/2025 11:10 AM]
Giả sử chúng ta có một hòn đảo nhỏ chỉ có hai ngành nghề kinh doanh. Thứ nhất là một khu nghỉ mát rộng lớn với bãi biển, quầy bar và các trò giải trí khác. Thứ hai là nhà sản xuất áo mưa. Vào mùa nắng, khu nghỉ mát kinh doanh phát đạt trong khi nhà máy sản xuất áo mưa thì tuột dốc không phanh. Đến mùa mưa, tình hình kinh doanh của khu nghỉ mát lại cực tệ hại còn nhà máy sản xuất áo mưa thì lợi nhuận tăng phi mã.
Giả sử thêm, hòn đảo này chỉ có hai mùa mưa nắng và mỗi mùa chia nhau 50% thời gian trong năm. Nhà đầu tư mua cổ phiếu của công ty sản xuất áo mưa nhận thấy nửa thời gian trong năm lợi nhuận 30%, song nửa thời gian còn lại thì lỗ 15% vốn đầu tư. Như vậy tính trung bình nhà đầu tư đạt lợi nhuận 7,5%/mùa. Đây chính là mức lợi nhuận kỳ vọng khi đầu tư nhà máy áo mưa. Tương tự như vậy, đầu tư vào khu nghỉ mát cũng có kết quả như trên. Trong kinh tế học các học giả gọi đây là Chu Kì Kinh Doanh, chính là vận động kinh tế trong trung hạn mang tính mùa vụ(Sở dĩ xác định đây là trung hạn bởi lẽ sự chênh lệch do mùa màng khiến chia đều mức rủi ro và lợi nhuận của cả hai ngành về dài hạn, các chênh lệch chỉ có ý nghĩa trong trung hạn, về dài hạn lượng hàng hóa dịch vụ về nghỉ mát và áo mưa đều phụ thuộc vào tiết kiệm và thu nhập toàn dân chứ không phải ở thời tiết). Trong thực tế thì kết quả sẽ biến đổi do có hiện tượng mùa nắng và mưa kéo dài thành chuỗi bất định, từ đó khiến việc dự đoán trước mùa mưa hay nắng để chọn cổ phiếu trở nên bất khả thi.
Giả sử tiếp, nhà đầu tư thay vì chỉ mua 1 trong hai loại chứng khoán đã quyết định chia đôi vốn để mua cả hai. Một nửa tiền đầu tư vào khu nghỉ mát và nửa còn lại đầu tư vào việc sản xuất áo mưa. Vào mùa mưa, một đồng đầu tư khu nghỉ mát sẽ lỗ 15 cắc trong khi một đồng đầu tư vào sản xuất áo mưa sẽ lời 30 cắc. Như vậy dù nắng hay mưa thì nhà đầu tư vẫn lãi trung bình 15 cắc tương đương 15%/mùa thay vì chỉ 7,5 cắc trong trường hợp chỉ mua 1 trong hai. Trong trường hợp này đa dạng hóa đã giúp nâng lợi nhuận lên gấp đôi đồng thời giảm rủi ro gấp đôi. Như vậy công lớn của Harry chính là ở chổ chỉ ra được lợi nhuận không chỉ được nâng lên bằng cách nâng rủi ro mà còn có thể vừa giảm rủi ro vừa nâng lợi nhuận(hay nói cách khác là nâng rủi ro đến một mức nhất định sẽ khiến lợi nhuận giảm). Mặc dù cả hai doanh nghiệp đều có mức độ rủi ro thể hiện qua tỷ lệ lợi nhuận biến thiên theo mùa và năm, song hai cả hai đều chịu những tác động khác nhau của thời tiết, nói theo ngôn ngữ thống kê là cả hai có phương sai âm. Miễn là điểm rơi lợi nhuận và rủi ro của hai doanh nghiệp không tương đương nhau trong cùng nền kinh tế thì phương thức đa dạng hóa có thể hiệu quả.
Mấu chốt ở đây chính là rủi ro từ Chu Kì Kinh Doanh hay nói cụ thể hơn là rủi ro từ thời tiết thì có thể loại bỏ mà vẫn tăng lợi nhuận, nhưng rủi ro từ tiết kiệm và thu nhập toàn dân giảm sút thì lại không thể loại bỏ mà không giảm lợi nhuận(hoặc chưa ai tìm được cách?).
Rủi ro từ thời tiết và chu kì kinh doanh là rủi ro Phi Hệ Thống, do nó mang tính vi mô, nghĩa là mỗi ngành lại có tác động khác nhau, như ví dụ trên với ngành nghỉ dưỡng tác động khác mà ngành sản xuất lại tác động khác. Còn rủi ro từ giảm tiết kiệm và thu nhập toàn dân là rủi ro Hệ Thống, do khi nó xảy ra thì kể cả ngành nghỉ dưỡng hay sản xuất hay bất kể ngành nào cũng đều sẽ bị ảnh hưởng thiệt hại như nhau. Theo thống kê, một danh mục lớn cần tối ưu đến 50 cổ phiếu nội địa có phương sai âm sẽ đạt mức rủi ro phi hệ thống thấp nhất, sẽ giảm đi trên 60% rủi ro, nhưng đây đồng thời cũng là mức giao thoa hiệu suất, nghĩa là khi tăng trên 50 thì hiệu suất chỉ có thể giảm dần chứ khó tăng được nữa(quy luật Hiệu Suất Giảm Dần trong Vĩ Mô).
nguyennghia, [19/1/2025 11:10 AM]
-Ứng dụng thực tế trong Vĩ Mô Toàn Cầu Hóa:
Giá dầu lửa tăng cao tác động xấu đến khu vực Châu Âu, Nhật Bản và Mỹ(quốc gia tự cấp dầu 1 phần). Tuy nhiên giá cao đó lại tác động tích cực đến kinh tế Indonesia, Venezuela và các nước sản xuất dầu lửa Trung Đông. Tương tự như vậy, giá khoáng sản và nguyên liệu thô tăng lên mang lại hiệu quả tích cực cho các quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng ảnh hưởng tiêu cực đến các quốc gia có nền sản xuất công nghiệp phát triển.
Các nghiên cứu thực tế vào cuối thế kỉ 20, đầu thế kỉ 21 cũng cho thấy 50 là con số cổ phiếu gần hoàn hảo cho các Quỹ đầu tư toàn cầu. Trong trường hợp này, cổ phiếu không chỉ được tuyển chọn từ thị trường chứng khoán Việt Nam mà còn có thể thu thập từ quốc tế. Các thống kê dài hạn chỉ ra rằng, danh mục đầu tư đa dạng hóa quốc tế luôn có xu hướng chịu ít rủi ro hơn so với danh mục có quy mô tương tự nhưng chỉ đầu tư nội địa. Tiền lãi thu được trong 35 năm từ 1970 đến 2006, cổ phiếu nước ngoài(được xác định bằng chỉ số Morgan Stanley EAFE của các nước phát triển) có tỷ lệ lợi nhuận trung bình năm cao hơn so với lợi nhuận trung bình các cổ phiếu nội địa như Mỹ, lợi nhuận được tính bằng chỉ số S&P500. Tuy nhiên, các cổ phiếu nội địa an toàn hơn ở chổ lợi nhuận hàng năm ít biến động hơn. Sự tương quan giữa hai chỉ số này hàng năm chỉ rơi vào mức ±0,5 điểm phần trăm.
Bạn cũng có thể thấy, khi chuyển 100% vốn nội địa sang vốn toàn cầu thì lợi nhuận cũng tăng dần lên, bởi vì giai đoạn này nhóm cổ phiếu EAFE cho lợi nhuận cao hơn các nhóm cổ nội địa trong mẫu thống kê. Điểm cần lưu ý ở đây là trên thực tế bổ sung thêm một lượng các cổ phiếu có rủi ro cao hơn hóa ra lại giúp rủi ro tổng thể giảm bớt đi(ít ra là trong một chu kì kinh doanh). Cuối cùng, nếu như lượng cổ phiếu rủi ro tăng lên quá cao mất cân đối trong tổng 50 cổ phiếu, sẽ khiến rủi ro tăng cao so với tổng lợi nhuận(Quy luật Hiệu Suất Giảm Dần).
Mức lợi nhuận cao từ các nhà sản xuất xe hơi Nhật Bổn có thể bù đắp cho thị phần các công ty Mỹ mất đi khi cổ phiếu Nhật tăng lên. Trái lại, tỷ lệ lợi nhuận cao của các hãng sản xuất nội địa Mỹ sẽ bù đắp cho các nhà sản xuất Nhật khi tỷ giá có lợi cho Mỹ(Nhật Bổn và Châu Âu có xu hướng suy thoái trong một thời gian sau khi Mỹ phát triển phi mã). Chính những giao động bù trừ như vậy đã giúp xuất hiện một nghịch lý: rủi ro bị loại bớt trong khi lợi nhuận vẫn được tăng thêm.
Vậy một danh mục bao gồm cổ phiếu nội địa và quốc tế như thế nào là tối ưu?
Cũng theo các nghiên cứu từ 1970-2006, một danh mục 50 cổ phiếu sẽ tối ưu khi 76% là cổ phiếu nội địa và 24% là cổ phiếu quốc tế(ví dụ nhóm EAFE bao gồm Châu Âu, Australia và Viễn Đông).
Quá trình Toàn Cầu Hóa đã phát triển mối tương quan giữa các thị trường trên thế giới, tuy nhiên hệ số tương quan tổng thể vẫn còn nhiều “đồi núi”. Ví dụ Trung Quốc, Ấn Độ và thị trường Mỹ vẫn còn ít tương quan. Miễn hệ số này giữa các thị trường không phải là một số dương tuyệt đối thì giới đầu tư hoàn toàn có thể tận dụng hiệu suất của Đa dạng hóa danh mục quốc tế.
Phần lớn dân số các nước phát triển là người tiêu dùng toàn cầu, họ mua xe hơi Nhật và Đức; mua TV, điện thoại, may mặc từ Châu Á. Giống như người tiêu dùng được lợi từ thị trường toàn cầu thì nhà đầu tư cũng có thể được lợi từ đầu tư toàn cầu. Trong dài hạn, cũng như chi phí sản xuất và giá thành được trở nên rẻ hơn(như các mặt hàng công nghệ) thì các sản phẩm đầu tư tài sản vốn cũng hưởng lợi xu thế này thể hiện qua rủi ro chiết khấu thấp hơn. Ngoài ra, một trong các tài sản vốn có thể giúp đa dạng hóa tốt là các chứng chỉ tín thác bất động sản(nhờ vào tính năng nhạy cảm với lạm phát), nên nếu thêm nhóm bất động sản vào danh mục đầu tư trong thời gian lạm phát cũng sẽ khiến danh mục giảm rủi ro trong khi tăng lợi tức.
Mọi ý kiến đóng góp và trao đổi hãy còm bên dưới hoặc gửi đến mail cá nhân: [email protected] nha các bạn.
NguyenDucNghia
Nguồn tư liệu:
-Trước tác của Maurice Kendall về Lý Thuyết Thị Trường Hiệu Quả.
-Sách The Theory of Price - George J. Stigler.
-Porfolio Selection - Harry Markowitz
-Abbotson Associates®
và một số tài liệu khác
nguyennghia, [19/1/2025 11:10 AM]
Rủi ro là một khái niệm khó nắm bắt và thống nhất, ngay cả trong giới học thuật. Theo Từ Điển Di Sản Tiếng Việt: Định nghĩa rủi ro là khả năng bị hại hoặc chịu thiệt. Nếu bạn mua trái phiếu kho bạc với lợi tức 5% và nắm đến khi đáo hạn, bạn gần như chắc chắn kiếm được 5% tiền lãi trước thuế thu nhập, nguy cơ thua lỗ trường hợp này quá nhỏ, có thể chưa đến 0,1%. Nhưng nếu bạn nắm cổ phiếu DIG trong vòng 2 năm với mức lợi tức mong muốn 80%, thì khả năng thua lỗ cũng cao hơn(cổ tức của công ty có thể bị cắt và nghiêm trọng hơn, giá thị trường vào thời điểm bán có thể thấp hơn nhiều, khiến bạn phải chịu khoản lỗ nặng). Vậy thì rủi ro đầu tư là khoản lãi chứng khoán kì vọng không thể trở thành hiện thực.
Một khi thống nhất quan điểm cho rằng yếu tố rủi ro đối với nhà đầu tư có liên quan đến nguy cơ không đạt được lợi nhuận kỳ vọng, thì một thước đo tự nhiên sẽ hình thành bao gồm: Khả năng biến đổi hoặc phân tán lợi nhuận trong tương lai. Do đó, rủi ro tài chính thông thường được định nghĩa là sự biến đổi hoặc chênh lệch cơ bản của lợi nhuận.
Một trong những định lý được chứng minh thuyết phục nhất trong lĩnh vực tài chính đó là nhìn chung, nhà đầu tư sẽ có lợi nhuận lớn hơn khi chấp nhận rủi ro cao hơn. Công ty Abbotson Associates đã thực hiện một nghiên cứu chi tiết nhất về chủ đề này, dữ liệu được lấy từ thị trường Mỹ năm 1926 đến 2005. Kết quả nghiên cứu cho thấy sau một thời gian dài, cổ phiếu thường tạo ra tổng tỷ lệ lợi nhuận cao vượt trội so với các tài sản vốn khác. Bao gồm cả cổ tức và lãi vốn, lợi nhuận này cao hơn hẳn so với trái phiếu dài hạn, trái phiếu công và cả tỷ lệ lạm phát tính bằng CPI hằng năm. Do đó cổ phiếu có xu hướng tạo ra lợi nhuận thực dương, tức là lợi nhuận sau khi loại bỏ mọi tác động lạm phát gây ra. Tuy nhiên các số liệu cũng chỉ ra rằng lợi nhuận từ cổ phiếu có độ biến thiên rất cao, được phản ánh qua độ lệch chuẩn và phạm vi lợi nhuận hằng năm(Trong quá khứ, lợi nhuận từ cổ phiếu đã biến thiên từ lỗ trên 50% vào năm 1931 đến lãi trên 50% vào năm 1933). Điều đó cho thấy, để kiếm được lợi nhuận, các nhà đầu tư cổ phiếu phải đối diện với rủi ro cao hơn rất nhiều so với các nhà đầu tư trái phiếu. Cổ phiếu các công ty penny thậm chí còn có độ lệch chuẩn lớn hơn.
Cũng có nhiều giai đoạn kéo dài năm năm hoặc lâu hơn, cổ phiếu chỉ mang lại tỷ lệ lợi nhuận âm. Đầu thập niên 1930 và 1970 là khoản thời gian cực tệ hại đối với thị trường chứng khoán. Lần khác, trong suốt tháng 10 năm 1987, chỉ số bình quân thị trường đã mất đi hơn 1/3 giá trị(đây là lần vốn hóa thị trường mất nhiều nhất trong thời gian ngắn nhất tính từ 1930 đến 2005). Mặc dù vậy, trong suốt thời gian dài, các nhà đầu tư vẫn gặt hái được nhiều khoản lợi nhuận lớn nhờ chấp nhận rủi ro cao. Tuy nhiên, với mức lợi nhuận tối ưu nhất, luôn tồn tại một số cách thức giúp hạn chế rủi ro. Chính điều này đã đưa chính ta đến với Lý Thuyết Danh Mục Đầu Tư Hiện Đại - lý thuyết giúp cách mạng hóa quan điểm của cộng đồng đầu tư.
Lý thuyết Danh Mục Đầu Tư Hiện Đại hay còn gọi là MPT được Harry Markowitz xây dựng vào những năm 1950, ông đã được trao giải Nobel Kinh Tế năm 1990 nhờ vào những đóng góp này. Cuốn sách có tựa đề Porfolio Selection(Lựa Chọn Danh Mục Đầu Tư) chính là thành quả nghiên cứu luận văn tiến sĩ của ông tại trường Đại Học Chicago. Harry sở hữu vốn kinh nghiệm vô cùng phong phú được tích lũy từ quá trình giảng dạy ở trường Đại Học California, Los Angeles.
Thuật toán của thuyết MPT rất khó hiểu và rắc rối, khiến ngay cả trong các học giả cũng có rất nhiều người phải bận rộn phân tích và nghiên cứu thuật toán này. Song thật may mắn, bạn không cần phải đi qua mê cung căn bậc hai rối rắm để hiểu được bản chất của nó. Mà chỉ cần một ví dụ sẽ giúp bạn nắm được rõ ràng.
nguyennghia, [19/1/2025 11:10 AM]
Giả sử chúng ta có một hòn đảo nhỏ chỉ có hai ngành nghề kinh doanh. Thứ nhất là một khu nghỉ mát rộng lớn với bãi biển, quầy bar và các trò giải trí khác. Thứ hai là nhà sản xuất áo mưa. Vào mùa nắng, khu nghỉ mát kinh doanh phát đạt trong khi nhà máy sản xuất áo mưa thì tuột dốc không phanh. Đến mùa mưa, tình hình kinh doanh của khu nghỉ mát lại cực tệ hại còn nhà máy sản xuất áo mưa thì lợi nhuận tăng phi mã.
Giả sử thêm, hòn đảo này chỉ có hai mùa mưa nắng và mỗi mùa chia nhau 50% thời gian trong năm. Nhà đầu tư mua cổ phiếu của công ty sản xuất áo mưa nhận thấy nửa thời gian trong năm lợi nhuận 30%, song nửa thời gian còn lại thì lỗ 15% vốn đầu tư. Như vậy tính trung bình nhà đầu tư đạt lợi nhuận 7,5%/mùa. Đây chính là mức lợi nhuận kỳ vọng khi đầu tư nhà máy áo mưa. Tương tự như vậy, đầu tư vào khu nghỉ mát cũng có kết quả như trên. Trong kinh tế học các học giả gọi đây là Chu Kì Kinh Doanh, chính là vận động kinh tế trong trung hạn mang tính mùa vụ(Sở dĩ xác định đây là trung hạn bởi lẽ sự chênh lệch do mùa màng khiến chia đều mức rủi ro và lợi nhuận của cả hai ngành về dài hạn, các chênh lệch chỉ có ý nghĩa trong trung hạn, về dài hạn lượng hàng hóa dịch vụ về nghỉ mát và áo mưa đều phụ thuộc vào tiết kiệm và thu nhập toàn dân chứ không phải ở thời tiết). Trong thực tế thì kết quả sẽ biến đổi do có hiện tượng mùa nắng và mưa kéo dài thành chuỗi bất định, từ đó khiến việc dự đoán trước mùa mưa hay nắng để chọn cổ phiếu trở nên bất khả thi.
Giả sử tiếp, nhà đầu tư thay vì chỉ mua 1 trong hai loại chứng khoán đã quyết định chia đôi vốn để mua cả hai. Một nửa tiền đầu tư vào khu nghỉ mát và nửa còn lại đầu tư vào việc sản xuất áo mưa. Vào mùa mưa, một đồng đầu tư khu nghỉ mát sẽ lỗ 15 cắc trong khi một đồng đầu tư vào sản xuất áo mưa sẽ lời 30 cắc. Như vậy dù nắng hay mưa thì nhà đầu tư vẫn lãi trung bình 15 cắc tương đương 15%/mùa thay vì chỉ 7,5 cắc trong trường hợp chỉ mua 1 trong hai. Trong trường hợp này đa dạng hóa đã giúp nâng lợi nhuận lên gấp đôi đồng thời giảm rủi ro gấp đôi. Như vậy công lớn của Harry chính là ở chổ chỉ ra được lợi nhuận không chỉ được nâng lên bằng cách nâng rủi ro mà còn có thể vừa giảm rủi ro vừa nâng lợi nhuận(hay nói cách khác là nâng rủi ro đến một mức nhất định sẽ khiến lợi nhuận giảm). Mặc dù cả hai doanh nghiệp đều có mức độ rủi ro thể hiện qua tỷ lệ lợi nhuận biến thiên theo mùa và năm, song hai cả hai đều chịu những tác động khác nhau của thời tiết, nói theo ngôn ngữ thống kê là cả hai có phương sai âm. Miễn là điểm rơi lợi nhuận và rủi ro của hai doanh nghiệp không tương đương nhau trong cùng nền kinh tế thì phương thức đa dạng hóa có thể hiệu quả.
Mấu chốt ở đây chính là rủi ro từ Chu Kì Kinh Doanh hay nói cụ thể hơn là rủi ro từ thời tiết thì có thể loại bỏ mà vẫn tăng lợi nhuận, nhưng rủi ro từ tiết kiệm và thu nhập toàn dân giảm sút thì lại không thể loại bỏ mà không giảm lợi nhuận(hoặc chưa ai tìm được cách?).
Rủi ro từ thời tiết và chu kì kinh doanh là rủi ro Phi Hệ Thống, do nó mang tính vi mô, nghĩa là mỗi ngành lại có tác động khác nhau, như ví dụ trên với ngành nghỉ dưỡng tác động khác mà ngành sản xuất lại tác động khác. Còn rủi ro từ giảm tiết kiệm và thu nhập toàn dân là rủi ro Hệ Thống, do khi nó xảy ra thì kể cả ngành nghỉ dưỡng hay sản xuất hay bất kể ngành nào cũng đều sẽ bị ảnh hưởng thiệt hại như nhau. Theo thống kê, một danh mục lớn cần tối ưu đến 50 cổ phiếu nội địa có phương sai âm sẽ đạt mức rủi ro phi hệ thống thấp nhất, sẽ giảm đi trên 60% rủi ro, nhưng đây đồng thời cũng là mức giao thoa hiệu suất, nghĩa là khi tăng trên 50 thì hiệu suất chỉ có thể giảm dần chứ khó tăng được nữa(quy luật Hiệu Suất Giảm Dần trong Vĩ Mô).
nguyennghia, [19/1/2025 11:10 AM]
-Ứng dụng thực tế trong Vĩ Mô Toàn Cầu Hóa:
Giá dầu lửa tăng cao tác động xấu đến khu vực Châu Âu, Nhật Bản và Mỹ(quốc gia tự cấp dầu 1 phần). Tuy nhiên giá cao đó lại tác động tích cực đến kinh tế Indonesia, Venezuela và các nước sản xuất dầu lửa Trung Đông. Tương tự như vậy, giá khoáng sản và nguyên liệu thô tăng lên mang lại hiệu quả tích cực cho các quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng ảnh hưởng tiêu cực đến các quốc gia có nền sản xuất công nghiệp phát triển.
Các nghiên cứu thực tế vào cuối thế kỉ 20, đầu thế kỉ 21 cũng cho thấy 50 là con số cổ phiếu gần hoàn hảo cho các Quỹ đầu tư toàn cầu. Trong trường hợp này, cổ phiếu không chỉ được tuyển chọn từ thị trường chứng khoán Việt Nam mà còn có thể thu thập từ quốc tế. Các thống kê dài hạn chỉ ra rằng, danh mục đầu tư đa dạng hóa quốc tế luôn có xu hướng chịu ít rủi ro hơn so với danh mục có quy mô tương tự nhưng chỉ đầu tư nội địa. Tiền lãi thu được trong 35 năm từ 1970 đến 2006, cổ phiếu nước ngoài(được xác định bằng chỉ số Morgan Stanley EAFE của các nước phát triển) có tỷ lệ lợi nhuận trung bình năm cao hơn so với lợi nhuận trung bình các cổ phiếu nội địa như Mỹ, lợi nhuận được tính bằng chỉ số S&P500. Tuy nhiên, các cổ phiếu nội địa an toàn hơn ở chổ lợi nhuận hàng năm ít biến động hơn. Sự tương quan giữa hai chỉ số này hàng năm chỉ rơi vào mức ±0,5 điểm phần trăm.
Bạn cũng có thể thấy, khi chuyển 100% vốn nội địa sang vốn toàn cầu thì lợi nhuận cũng tăng dần lên, bởi vì giai đoạn này nhóm cổ phiếu EAFE cho lợi nhuận cao hơn các nhóm cổ nội địa trong mẫu thống kê. Điểm cần lưu ý ở đây là trên thực tế bổ sung thêm một lượng các cổ phiếu có rủi ro cao hơn hóa ra lại giúp rủi ro tổng thể giảm bớt đi(ít ra là trong một chu kì kinh doanh). Cuối cùng, nếu như lượng cổ phiếu rủi ro tăng lên quá cao mất cân đối trong tổng 50 cổ phiếu, sẽ khiến rủi ro tăng cao so với tổng lợi nhuận(Quy luật Hiệu Suất Giảm Dần).
Mức lợi nhuận cao từ các nhà sản xuất xe hơi Nhật Bổn có thể bù đắp cho thị phần các công ty Mỹ mất đi khi cổ phiếu Nhật tăng lên. Trái lại, tỷ lệ lợi nhuận cao của các hãng sản xuất nội địa Mỹ sẽ bù đắp cho các nhà sản xuất Nhật khi tỷ giá có lợi cho Mỹ(Nhật Bổn và Châu Âu có xu hướng suy thoái trong một thời gian sau khi Mỹ phát triển phi mã). Chính những giao động bù trừ như vậy đã giúp xuất hiện một nghịch lý: rủi ro bị loại bớt trong khi lợi nhuận vẫn được tăng thêm.
Vậy một danh mục bao gồm cổ phiếu nội địa và quốc tế như thế nào là tối ưu?
Cũng theo các nghiên cứu từ 1970-2006, một danh mục 50 cổ phiếu sẽ tối ưu khi 76% là cổ phiếu nội địa và 24% là cổ phiếu quốc tế(ví dụ nhóm EAFE bao gồm Châu Âu, Australia và Viễn Đông).
Quá trình Toàn Cầu Hóa đã phát triển mối tương quan giữa các thị trường trên thế giới, tuy nhiên hệ số tương quan tổng thể vẫn còn nhiều “đồi núi”. Ví dụ Trung Quốc, Ấn Độ và thị trường Mỹ vẫn còn ít tương quan. Miễn hệ số này giữa các thị trường không phải là một số dương tuyệt đối thì giới đầu tư hoàn toàn có thể tận dụng hiệu suất của Đa dạng hóa danh mục quốc tế.
Phần lớn dân số các nước phát triển là người tiêu dùng toàn cầu, họ mua xe hơi Nhật và Đức; mua TV, điện thoại, may mặc từ Châu Á. Giống như người tiêu dùng được lợi từ thị trường toàn cầu thì nhà đầu tư cũng có thể được lợi từ đầu tư toàn cầu. Trong dài hạn, cũng như chi phí sản xuất và giá thành được trở nên rẻ hơn(như các mặt hàng công nghệ) thì các sản phẩm đầu tư tài sản vốn cũng hưởng lợi xu thế này thể hiện qua rủi ro chiết khấu thấp hơn. Ngoài ra, một trong các tài sản vốn có thể giúp đa dạng hóa tốt là các chứng chỉ tín thác bất động sản(nhờ vào tính năng nhạy cảm với lạm phát), nên nếu thêm nhóm bất động sản vào danh mục đầu tư trong thời gian lạm phát cũng sẽ khiến danh mục giảm rủi ro trong khi tăng lợi tức.
Mọi ý kiến đóng góp và trao đổi hãy còm bên dưới hoặc gửi đến mail cá nhân: [email protected] nha các bạn.
NguyenDucNghia
Nguồn tư liệu:
-Trước tác của Maurice Kendall về Lý Thuyết Thị Trường Hiệu Quả.
-Sách The Theory of Price - George J. Stigler.
-Porfolio Selection - Harry Markowitz
-Abbotson Associates®
và một số tài liệu khác