Johnny Lê Nữu Vượng
Già làng


Tự Đức bị bệnh đậu mùa không con nhưng lại có tới ba con nuôi
Vua Tự Đức không con, có 3 người con nuôi: Ưng Chân (sinh 11.2.1853), Ưng Đường (sinh 19.2.1864) và Ưng Đăng/Hổ (sinh 12.2.1869). Công tử Ưng Chân (Dục Đức) được vua Tự Đức nhận làm con nuôi năm 1868, lúc đã 17 tuổi (ta), sau khi công tử Ưng Đường (Đồng Khánh) được làm con nuôi từ năm 1865 lúc mới 2 tuổi (ta). Đến xuân năm 1870, vua nhận nuôi thêm người em ruột cùng mẹ của Ưng Đường, cũng vừa lên 2 tuổi, tên là Ưng Đăng/Hổ (Kiến Phúc).
Trước khi băng hà, vua Tự Đức đã gọi ba viên quan Phụ chính đại thần, gồm: Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết vào trao di chiếu. Trong di chiếu có đoạn viết:
- “... Trẫm đã nuôi sẵn 3 con. Ưng Chân lớn tuổi nhất, được học hành từ lâu, đã đến tuổi trưởng thành, tuy nhiên mắt hơi có tật dù xưa nay vẫn giấu kín, sợ sau này không còn thấy sáng, tánh lại hiếu dâm và tâm tính rất xấu, không chắc đương nổi việc lớn. Nhưng đất nước cần có vua lớn tuổi.Trong thời thế khó khăn này, không dùng Ưng Chân thì dùng ai? Cho nên trẫm chọn Ưng Chân (Thụy Quốc Công) nối nghiệp dòng chính và nối ngôi vua”. Ưng Chân có tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Ái hay còn gọi là Nguyễn Phúc Ưng Chân, là con thứ 2 của Thoại Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Y và bà Trần Thị Nga. Ưng Chân sinh ngày 23 tháng 2 năm 1852.
"Xuân năm 1883, vua phong Hoàng trưởng tử Dục Đức làm Thụy (Thoại) Quốc công để “mở cho ngươi còn đường tu tiến”, và cũng cho phong Hoàng tử thứ hai là Ưng Đường làm Kiên Giang Quận cộng. Nhưng trước đó 5, 6 tháng, vào thu năm 1882 vua có cho dưỡng tử thứ ba là Ưng Đăng, nuôi ở trong cung từ lúc 2 tuổi, lúc đó đã 14 tuổi, ra ở Dưỡng Thiện đường và bổ thầy dạy học riêng cho mau tấn tới hơn. Khác với hai ông Ưng Chân và Ưng Đường hay bị chê trách la rầy, Ưng Đăng, về sau là Hoàng tử Dưỡng Thiện và vua Kiến Phúc, được vua thương quý và khen ngợi, tin tưởng nhiều hơn".
Trước khi băng hà, vua Tự Đức đã gọi ba viên quan Phụ chính đại thần, gồm: Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết vào trao di chiếu, đoạn viết: "Duy con út là Ưng Đăng hầu hạ cẩn thận, biết sợ, dạy được chưa thấy có vết gì, nhưng tuổi còn ít, đường học chưa thông, đương lúc khó khăn này. Cho nên trẫm cắt bỏ lòng riêng, theo lẽ công, quyết thi hành mưu kế lớn là vì xã tắc (cho Dục Đức nối ngôi). Nghĩ ơn nuôi nấng đã hết lòng, không nên để cho phân biệt, nhưng chưa kịp làm, nay cho sung làm hoàng tử...”.
Các quan Phụ chính là Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết dâng sớ lên vua Tự Đức xin bỏ mấy đoạn có liên quan trong di chiếu viết không tốt cho Ưng Chân, nhưng vua Tự Đức từ chối.
Sau khi vua Tự Đức băng hà, Nguyễn Phúc Ưng Chân lên ngôi kế vị ngày 19/7/1883.
Vốn là người bị dị tật ở mắt, lại mắc phải một số trọng tội trước đó nên lúc làm lễ lên ngôi, vua Dục Đức đã sai Trần Tiễn Thành đọc lướt một số đoạn “không cần thiết” viết không tốt về mình.
Trần Tiễn Thành đã cố tình lướt qua, nhưng hai phụ chính Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đứng sát bên đã tiến lại, hạch hỏi Trần Tiễn Thành rồi sai Nguyễn Trọng Hợp đọc đúng nguyên văn của di chiếu.
Ngay sau khi di chiếu được đọc qua, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đã “hỏi tội” Trần Tiễn Thành về làm giả di chiếu. Đúng ba ngày sau, 2 phụ chính đại thần dâng biểu lên bà Từ Dũ, vạch ra 4 tội của nhà vua, trong đó có tội cố tình sửa di chiếu của vua Tự Đức.

Vua Dục Đức
Trước sức ép của 2 vị đại thần quyền lực khuynh đảo triều đình, bà Từ Dũ không thể làm gì ngoài việc buộc phải đồng ý phế ngôi của Dục Đức. Chỉ sau 3 ngày làm vua, chưa kịp đặt niên hiệu, Dục Đức đã trở thành kẻ trọng tội.
Nhưng:
"Thừa Thiên có bốn gian hùng
Tường gian, Viêm dối, Khiêm khùng, Thuyết ngu"
Nguyễn Văn Tường dâng sớ lên Hoàng Thái hậu đòi truất phế Dục Đức vì 4 tội: "Cắt đoạn trong di chiếu. Đưa một giáo sĩ vào làm việc cho mình. Đang có tang cha mà mặc áo màu. Gian dâm với cung nữ của tiên đế". Cấu kết gian dương đại đạo, buôn lậu vũ khí, đẩy bà già xuống biển, cưỡng dâm 1 con heo.
Vua Dục Đức bị quản thúc tại Dục Đức Đường, hôm sau bị tuyên án, giam ở Thái y viện. Tại đây, một phòng kín được cấp tốc xây lên, ông bị bỏ đói và không cho uống nước.
Thương tình vua cũ, những người lính canh thỉnh thoảng nhét cho ít cơm nắm cùng chiếc áo rách đã nhúng nước để nhà vua vắt ra lấy nước uống. Sống trong cảnh cùng cực đó, vua thoi thóp không đến một tháng thì qua đời.
Sau khi mất, thi hài của vua Dục Đức được gói trong một chiếc chiếu, do hai người lính và một viên quyền suất đội gánh đi chôn. Trên đường đi, chiếc “quan tài” bằng chiếu này bị đứt dây rơi xuống cạnh một khe nước cạn ở đầu làng An Cựu. Một người lính chạy vào chùa Tường Quang mời ni sư trụ trì ra xử lý vụ việc. Mọi người nhất trí chọn nơi chiếc quan tài rơi xuống làm nơi yên nghỉ của vua vì cho rằng đó là đất “thiên táng” và chôn cất qua loa cho xong chuyện. Ba ngày sau, vợ con của nhà vua mới được thông báo để làm lễ chịu tang. Nấm mộ đất cạnh khe nước cạn, lại không người chăm sóc nên nhanh chóng tàn lụi.
Năm 1889, con trai của vua Dục Ðức là Nguyễn Phúc Bửu Lân được đưa lên làm vua, lấy niên hiệu là Thành Thái. Theo chỉ dẫn của những người am tường sự việc, vua Thành Thái đã tìm được nơi chôn cất thi hài của vua cha và cho xây dựng lăng mộ ngay tại mảnh đất “thiên táng” này. Lăng xây xong vào đầu năm 1890, đặt tên là An Lăng, nhưng chưa có điện thờ. Mọi nghi lễ thờ cúng vua Dục Ðức đều được tổ chức ở chùa Tường Quang cách đó 200 m. Năm 1899, vua Thành Thái cho xây thêm điện Long Ân bên phải lăng mộ để làm nơi thờ cúng vua Dục Đức, cùng các công trình phụ trợ. Sau khi bà Từ Minh (chính phi của vua Dục Ðức) tạ thế, triều đình mai táng thi hài của bà bên phải mộ vua Dục Ðức.
Năm 1892, vua Thành Thái truy tôn Dục Đức là Cung Tông Huệ hoàng đế. Tuy nhiên, do vua Dục Đức bị phế truất, nên linh vị của ông không được đưa vào thờ trong Thế Tổ Miếu ở Đại Nội Huế như các vị vua Nguyễn khác.
Mẹ vua Dục Đức tên là Trần Thị Nga, bà là vợ thứ bảy của Thoại thái vương. Sau khi qua đời, bà được phong là Trang thuận. Đến thời cháu bà trị vì, tức vua Thành Thái (1889-1907), con trai thứ bảy của vua Dục Đức, bà được phong làm Đệ nhất phủ thiếp.
