• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Cửu Đỉnh Huế, nguồn gốc và tính duy nhất còn tồn tại thời phong kiến tới nay

Cửu đỉnh được vua Minh Mạng cho khởi công đúc từ tháng 10 năm Ất Mùi (1835) đến tháng Giêng năm Đinh Dậu (1837). Với chức năng là trọng khí được đặt trước sân Thế Miếu của nhà Nguyễn, tượng trưng cho sự nghiệp của bậc đế vương, tên gọi của mỗi đỉnh theo chủ ý của vua Minh Mạng là thụy hiệu của các vua triều Nguyễn. Cửu đỉnh được coi là vật báu chốn thâm nghiêm trước Thế Miếu, nơi thờ các vua nhà Nguyễn, là một tượng đài tượng trưng cho sự vĩnh trường của vương triều, thể hiện quyền uy và vững mạnh của một triều đại thống nhất.
Cửu đỉnh như một bộ bách khoa thư bằng hình ảnh được ghi bằng ngôn ngữ tạo hình với 162 họa tiết được chạm nổi tinh xảo. Các nghệ nhân thời vua Minh Mạng đã thể hiện một cách khái quát nhưng súc tích sự đa dạng của nhiều cảnh vật nổi tiếng của mỗi miền đất nước, tạo nên sự giàu đẹp của Tổ quốc, như: tinh tú, núi sông, cửa biển, lãnh hải, cửa ải, cây cối, hoa cỏ, động vật, binh khí, xe thuyền… Tất cả các hình ảnh được đúc nổi trên Cửu đỉnh có thể xem như đặc trưng vùng miền trải dài từ Bắc chí Nam. Ngoài tính cung đình, hình ảnh trên Cửu đỉnh còn mang đậm tính dân gian, gắn liền với đời sống của đại đa số người Việt.



Cửu đỉnh. Ảnh: MINH HIỀN

Cửu đỉnh Huế được hiểu như là bộ dư địa chí về đất nước Việt Nam thống nhất, có chủ quyền đầu thế kỷ XIX, được thể hiện dưới hình thức biểu trưng bằng hình ảnh. Những hình ảnh về biển đảo được khắc trên bộ Cửu đỉnh (Biển Đông ở Cao đỉnh, biển Nam ở Nhân Đỉnh và biển Tây ở Chương đỉnh) sẽ là nguồn tư liệu quý về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; đồng thời cho thấy, các vị vua triều Nguyễn đều một lòng ra sức bảo vệ và thực thi chủ quyền biển đảo của đất nước.

Trải qua thời gian dài chiến tranh, khí hậu khắc nghiệt, chín đỉnh vẫn là những bản gốc, duy nhất hiện vẫn đặt ở vị trí như ban đầu khi mới sinh ra. Với những giá trị đặc sắc, cửu đỉnh được công nhận bảo vật quốc gia năm 2012. Những hiện vật gốc, hoàn toàn chưa có sự thay đổi, điều chỉnh hay làm mới chính là tiêu chí xác thực của một di sản tư liệu, là điều kiện cần và đủ cho việc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xúc tiến lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là Di sản ký ức thế giới nhằm ghi nhận những giá trị này ở tầm quốc gia và quốc tế, qua đó góp phần bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị trong tương lai.

visithue_cuu-dinh-1.jpg

Để rõ lai lịch của Cửu đỉnh, chúng ta phải trở lại với Minh Mạng – ông vua có ước vọng củng cố và phát triển nghiệp đế của nhà Nguyễn, xây dựng một chính quyền trung ương tập quyền mạnh. Một trong những việc làm theo ý đồ này, thể chế hóa bộ mạt Hoàng thành, trong đó có việc đúc bộ Cửu đỉnh. Khi nghĩ ra việc đúc Cửu đỉnh, Minh Mạng đã nói với Nội các: “Đỉnh là để tỏ ra ngôi vị đã đúng, danh mệnh đã trụ lại, thực là đồ quý trọng ở nhà tôn miếu. Xưa các minh vương đời Tam đại (Hạ, Thương, Chu – Trung Quốc – T.G) lấy kim loại do các quan mục bá chín châu dâng cống đúc chín cái đỉnh để làm vật báu truyền lại đời sau. Quy chế điển lễ ấy thật to lớn lắm! Trẫm kính nối nghiệp trước, vâng theo đường lối rõ ràng, nay muốn phỏng theo đời xưa: đúc 9 cái đỉnh để ở nhà Thế Miếu. Đó là để tỏ ý mong rằng muôn năm bền vững, đời truyền đời sau. Chuẩn cho quan phân việc đúng kiểu mẫu mới định mà đúc” (Đại Nam thực lục, Chính biên 1966: 171-172)
Trên tinh thần đó, bộ Công đã gấp rút chuẩn bị mọi mặt liên quan đến việc đúc Cửu đỉnh. Tháng 10 năm Ất Mùi Minh Mạng XVI (tháng 12 – 1835) thì khởi công đúc. Công việc đúc và sau đó gia công thật hoàn chỉnh mất 15 tháng, đến tháng Giêng năm Đinh Mậu Minh Mạng XVIII (3-1837) thì hoàn thành. Trong buổi làm lễ cáo trời đất và tổ tiên để đỉnh ở sân Thế Miếu, Minh Mạng còn nói rõ thêm: “Trẫm xem xét đời xưa, đúc đỉnh theo hình cácvật, nhưng đồ cổ ít còn, nhà biên chép truyền nói không đúng, chép ra đều là vạc nấu ăn, còn như đỉnh to cao và nặng, không những gần đây không có, dẫu ba đời (Hạ, Thương, Chu) cũng ít nghe thấy. Nay bắt chước người xưa mà lấy ý thêm bớt, đúc thành chín đỉnh to, sừng sững đứng cao, to lớn nặng vững, không viết nẻ chút nào, đáng làm của báu, con con cháu cháu, giữa mãi đến không bao giờ hết. Vậy thông dụ cho 31 trực tỉnh và thành Trần tây đều biết” (Đại Nam thực lục, chính biên 1968: 30-31).

Ngay khi có ý đồ đúc, Cửu đỉnh đã được coi như đồ quý ở nhà Tôn Miếu và sẽ được đặt ở vị trí trang trọng trong sân Thế Miếu. Để đặt từng chiếc đỉnh vào đúng vị trí, trước hết phải xác định tên gọi cho nó. Với ý đồ đúc Cửu đỉnh là để khẳng định nghiệp đế vương muôn năm bền vững, “Cửu đỉnh” với con số 9 kết thúc một vòng lịch đại đầy đủ, tương ứng với “cửu tộc”: được khởi đầu từ CAO tức thế hệ mở đầy, coi như chóp đỉnh và kết thúc ở HUYỀN là thế hệ sau cùng tức chỉ nơi sâu thẳm, khép kín 1 chu kỳ để đi vào cõi vĩnh hằng. Từ CAO đến HUYỀN trong hệ thống thế thứ lịch đại, mỗi thế hệ tượng trưng cho một đức tính tốt; NHÂN là hiền lành, điều thiện; CHƯƠNG là giá trị chuẩn mẫu; ANH là vinh diệu nổi tiếng; NGHỊ là sự cứng rắn, cương quyết; THUẦN là sự hoàn thiện và thanh khiết; TUYÊN là sự truyền cảm tốt đẹp và DỤ là nguồn gốc sự thịnh vượng. Chính vì thế, con số 9 ở đây là số nhiều, đầy đủ nhất đến mức hoàn tất, để rồi sang con số 10 sẽ trở lại từ đầu theo một chu kỳ mới. Là một lịch đại đầy đủ. Minh Mạng muốn dành tên đỉnh làm tên thụy tức miếu hiệu được đặt ra sau khi chết của các vua nhà Nguyễn. Và như thế, CAO ĐỈNH phải tương ứng với Gia Long là Thế tổ Cao hoàng đế. Minh Mạng tự chọn tên thụy cho mình là Thánh tổ Nhân hoàng đế. Ông còn đặt sẵn tên thụy cho các thế hệ tiếp theo là Hiến tổ Chương hoàng đế, Dực tông Anh hoàng đế, Giảng tông Nghị hoàng đế, Cảnh tông Thuần hoàng đế v.v…Vì thế, mà từ vị trí đặt Cửu đỉnh ở sân chầu được lấy làm chuẩn quy chiếu cho các bàn thờ từng vị vua tương ứng đặt ở trong nhà Thế Miếu, nguyên tắc là lấy tổ ở giữa làm chuẩn, tỏa sang hai bên với thứ tự trái trước phải sau. Có thể thấy rõ điều đó qua sơ đồ sau:

Vị trí864213579
Tên đỉnhDụ
Đỉnh
Thuần ĐỉnhAnh ĐỉnhNhân ĐỉnhCao ĐỉnhChương ĐỉnhNghị ĐỉnhTuyên ĐỉnhHuyền Đỉnh
Vua tương ứngHàm NghiĐồng KhánhTự ĐứcMinh MạngGia LongThiệu TrịKiến PhúcKhải ĐịnhDuy Tân
Thật ra, trong Thế Miếu xưa chỉ có 7 nhang án thờ 7 vị vua được chính quyền bảo hộ Pháp cho phép, ứng với 7 đỉnh từ Cao đỉnh đến Tuyên đỉnh, còn 3 nhang án mới thời 3 vị vua có tư tưởng yêu nước chống Pháp mới được đưa vào năm 1959. Các ông vua này đều không có tên thụy, do đó Hàm Nghi ứng với Dụ đỉnh, Duy Tân ứng với Huyền đỉnh, còn Thành Thái tới con số 10 thì không còn đỉnh để tương ứng nữa. Đúng số đầy đủ thì, thế phả nhà Nguyễn có tất cả 13 vua. Ngoài 10 nhang án (cũ và mới) thờ 10 vua kể trên, còn có Dục Đức làm vua 3 ngày, Hiệp Hòa làm vua 4 tháng và Bảo Đại bị phế truất năm 1945 cũng không có tên thụy. Như thế rõ ràng con số “Cửu đỉnh” không tương ứng được hết các vua nhà Nguyễn, và tên các đỉnh trong cả bộ “Cửu đỉnh” cũng không hoàn toàn đúng thứ tự thực các vua nhà Nguyễn. Do vậy, càng không thể nghĩ rằng Minh Mạng đức “Cửu đỉnh” là muốn ghi công danh các vua thuộc dòng họ mình và từng ông vua có công trạng với lịch sử dân tộc Việt Nam, như quan điểm của một số học giả đánh giá.
Những đánh giá của Minh Mạng khi khánh thành bộ Cửu đỉnh: cả thảy đều “to lớn sừng sững, đứng cao, không vết nức nẻ chút nào”, đã chứng tỏ trình độ đúc đồng thời đó đã phát triển đến đỉnh cao hoàn mỹ.

Từ năm 1914, các học giả Pháp đã nghiên cứu khá kỹ về kỹ thuật đúc. Riêng ý kiến cho rằng 162 hình được đúc rời trước rồi hàn gắn vào bầu đỉnh còn cần được thảo luận. Chúng ta đã biết, đúc đồng là một nghề thủ công nặng nhọc với nhiều công đoạn kỹ thuật, mỗi khâu đều phải làm bằng đôi bàn tay và bí quyết của người thợ. Ví như kinh nghiệm pha chế chất phụ gia hay việc làm khuôn v.v… Nhưng nhìn chung, nghề đúc đồng cổ truyền vẫn được bảo lưu và thực hiện qua các công đoạn lỹ thuật như làm khuôn, nấu đồng và đúc.

Chúng ta biết, đúc đồng là một nghề thủ công nặng nhọc với nhiều công đoạn kỹ thuật, mỗi khâu đều phải làm bằng đôi tay và bí quyết của người thợ. Ví như kinh nghiệm pha chế chất phụ gia hay việc làm khuôn v.v… Nhưng nhìn chung, nghề đúc đồng cổ truyền vẫn được bảo lưu và thực hiện qua các công đoạn kỹ thuật như làm khuôn, nấu đồng và đúc.
.
Khamphahue_Cuu-dinh-hue-2.jpg
 

Có thể bạn quan tâm

Top