• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Đầu xuân nhớ ơn Đức vua Gia Long mở cõi, vị vua vĩ đại nhất lịch sử Việt Nam

Ông tên thật là Nguyễn Phúc Ánh (còn có tên khác là Nguyễn Phúc Chủng, Nguyễn Phúc Noãn), sinh ngày 15 tháng giêng năm Nhâm Ngọ (tức ngày 8/2/1762), cha là Nguyễn Phúc Luân, con thứ hai của chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, mẹ là Nguyễn Thị Hoàn.

Họ Nguyễn làm chúa, xưng vương ở Đàng Trong được khoảng 200 năm thì bị lật đổ bởi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn.

Tháng 9 năm Đinh Dậu (1777), quân Tây Sơn bắt sống Tân chính vương Nguyễn Phúc Dương và đến tháng 10 cùng năm thì bắt được Thái thượng vương Nguyễn Phúc Thuần đưa về Gia Định xử tử; chính quyền của họ Nguyễn đến đây coi như chấm dứt.

Tuy nhiên một nhân vật nổi bật là Nguyễn Phúc Ánh đã quyết tâm khôi phục quyền vị của dòng họ.

Để có chính danh, năm Canh Tý (1780) Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vương ở Gia Định, đúc ấn "Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo", xây dựng lực lượng, thậm chí cầu viện đến sự giúp đỡ của ngoại bang như Xiêm La (Thái Lan), Phú Lang Sa (Pháp)…

img

Một bức hình chân dung hoàng đế Gia Long. Ảnh: Vntinnhanh

Trải qua hàng chục năm gian nan, vất vả, kiên trì trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn, cuối cùng nhân khi nội bộ triều đình Tây Sơn suy yếu do mâu thuẫn bè phái đã cơ hội tốt cho Nguyễn Phúc Ánh dần chiếm ưu thế.

Sau khi chiếm được kinh đô Phú Xuân (Huế ngày nay) vào tháng 5 năm Tân Dậu (1801) rồi tấn công ra Bắc, đến ngày mồng 2/5 Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Gia Long, lập ra triều Nguyễn.

Ngày 21/6 cùng năm, thành Thăng Long thất thủ, quân Tây Sơn thua to, vua Cảnh Thịnh bỏ thành cùng các các bề tôi qua sông Nhĩ Hà (sông Hồng) chạy về hướng bắc nhưng đến Kinh Bắc thì bị bắt, triều Tây Sơn đến đây chấm dứt.

Chúng ta thường nghe nói đến "Chín chúa, mười ba vua triều Nguyễn", nhưng thực ra họ Nguyễn có 10 đời chúa và Nguyễn Phúc Ánh chính là vị chúa thứ 10 - đời chúa cuối cùng của chính quyền Đàng Trong; ông cũng là vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn.

Như vậy, xét trong lịch sử Việt Nam, Nguyễn Phúc Ánh là người duy nhất làm chúa rồi lại làm vua.

Vua Gia Long và những hiểu biết khiến người Tây nể phục

Chính sử nước ta hầu như không nhắc đến những hiểu biết rộng rãi của vua Gia Long về châu Âu nói chung và về khoa học, kỹ thuật tiên tiến đương thời nói riêng, thế nhưng qua một số nguồn tư liệu của những người phương Tây có may mắn gặp gỡ, tiếp xúc đều thể hiện sự ngưỡng mộ về trí tuệ và tài năng của ông.

Trong cuốn Souvenirs de Hue (Hồi ký Huế) của Michel Đức Chaigneau, con trai một phụ tá người Pháp của vua Gia Long là Jean Baptiste Chaigneau (tên Việt là Nguyễn Văn Thắng) đã cho biết vị vua đầu tiên của triều Nguyễn là một người hòa nhã, giản dị, tài năng, có những ý tưởng khoáng đạt và cả sự hào hiệp.

Cuốn sách cũng cho biết "trong sự tâm giao, vua Gia Long rất thích hỏi cha tôi về các trường học và những phong tục của nước Pháp" và "vua Gia Long được công nhận là một người có khả năng nhất của vương quốc vì đã có đầy đủ trong mình những đức tính cần thiết cho một người đứng đầu nhà nước.

Lòng quả cảm và đức tính kiên trì theo đuổi tất cả những mục tiêu đúng đắn làm cho giám mục Adran và những người Pháp làm việc ở Nam Kỳ cho rằng tuyệt nhiên không có một người đứng đầu quốc gia châu Âu nào có thể thay thế được".

img

Chân dung hoàng đế Gia Long (Hình minh họa- Nguồn: ABS Travel)

Những hiểu biết về châu Âu, với tri thức và khoa học tân tiến lúc bấy giờ mà vua Gia Long có được không chỉ qua trao đổi, học hỏi, thu thập từ những người phương Tây mà vua có dịp gặp gỡ; ông còn có được thông tin qua sách vở.

Một cố đạo người Pháp tên là Lelabrousse trong bức thư đề ngày 1/5/1800 gửi cho giám đốc trường Tu nghiệp của hội truyền giáo ngoại quốc ở Paris đã viết:

"Nhà vua có tính chăm chỉ hết sức. Ban đêm Ngài ít ngủ, đọc sách rất nhiều; việc gì cũng tò mò muốn biết và cần cù hiếu học đáo để. Trong điện Ngài ở, có nhiều bộ sách của người Pháp soạn, dạy về các khoa kiến trúc, xây thành đắp lũy.v.v…

Ngài để luôn bên mình, năng mở ra xem những hình vẽ kiểu mẫu rồi cố bắt chước làm theo. Mỗi ngày thấy Ngài tấn tới lên mãi. Tóm lại, ông vua này là một bậc nhân quân vĩ đại nhất xứ Đàng Trong nước Nam từ trước đến giờ".

Không chỉ người Pháp, những người châu Âu khác cũng rất nể phục vua Gia Long.

Một nhà du hành người Anh tên là John Barrow xuất bản tại London vào năm 1806 cuốn sách "A voyage to Cochinchina in the year 1792 – 1793" (Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà trong năm 1792 – 1793) đã ca ngợi vua là: "...con người phi thường, một trong số ít người sinh ra với tài năng bẩm sinh để thống trị thế giới".

Hay "...câu chuyện về ông hoàng này, mà tôi đã phác họa sơ lược nêu lên một tấm gương sáng và một bài học bổ ích cho những ai có thể rơi vào những hoàn cảnh rủi ro tương tự, nó chỉ ra rằng nếu biết kết hợp tài năng, nghị lực và lòng dũng cảm theo một hướng chỉ đạo đúng đắn, người ta có thể làm được nhiều việc lớn lao đến như thế nào".

Tự đóng chiến thuyền, một minh chứng cho tài năng của Gia Long


Câu chuyện này chính sử nước ta không ghi chép đến, nhưng các tài liệu của người châu Âu có nhắc đến, nó khiến không chỉ người phương Tây, nơi có nền khoa học kỹ thuật phát triển hơn rất nhiều phải cúi đầu thán phục mà khi đọc những dòng ghi chép trong sử sách hậu thế chúng ta cũng phải sửng sốt, bất ngờ.

Trong cuốn sách của mình, John Barrow đặc biệt đánh giá cao việc Gia Long xây dựng, tổ chức, cải tiến lực lượng hải quân:

"Ông nắm vững không ít kiến thức về kỹ thuật, khoa học châu Âu; trong đó ông đặc biệt lưu ý về những gì liên quan đến thuật hàng hải và kỹ nghệ đóng tàu. Theo nguồn tin đáng tin cậy, người ta kể lại rằng để nắm vững kiến thức về thực hành cũng như về lý thuyết của kỹ thuật đóng tàu châu Âu, ông đã mua một chiếc tàu Bồ Đào Nha.

Với mục đích chỉ để tháo rời ra thành từng bộ phận, từng tấm ván một, rồi tự tay lắp vào một tấm ván mới có hình dáng và kích thước tương tự như cái cũ mà ông đã tháo ra, cho tới khi mọi thanh sàn tàu, xà ngang tàu, thanh gỗ khớp nối được thay thế bằng những cái mới, và như vậy con tàu hoàn toàn được đổi mới.

Nghị lực tinh thần của ông không kém phần mạnh mẽ so với năng lực hoạt động thể chất của ông. Thực vậy, nhà vua đã được coi như xung lực chủ yếu của mọi cuộc vận động xảy ra trong vương quốc rộng lớn và thịnh vượng của mình.

Nhà vua là người quản đốc các cảng biển và các kho quân dụng, là thợ cả trong các xưởng đóng tàu, kỹ sư trưởng trong mọi công trình; không có việc gì dự định thực hiện lại không có lời khuyên bảo và chỉ dẫn của ông.

Trong việc đóng tàu, không có cái đinh nào được đóng mà không có sự tham vấn ban đầu của ông, không có một khẩu đại bác nào được đưa lên vị trí mà không có lệnh của ông.

Không những ông đi vào từng chi tiết nhỏ nhặt nhất khi thảo ra những chỉ dẫn mà chính bản thân ông thực tế còn trông nom khi chúng được thực hiện".

Cố đạo Lelabrousse cũng dành một phần trong bức thư của ông để nhắc đến câu chuyện đáng nể này như sau:

"Thiên tư nhà vua cũng tốt không kém gì tâm tính, trí khôn nhanh nhẹn, thấu suốt dù những việc rắc rối nhất hạng, Ngài chỉ trông thoáng qua là hiểu ngay.

Lại có khiếu nhớ lạ lùng, phàm những gì qua mắt có thể ghi mãi trong trí không quên, cũng như trông thấy điều gì mới lạ đều có thể bắt chước một cách dễ dàng, tự nhiên.

Các xưởng đóng chiến thuyền trong xứ và các quân cảng được Ngài xếp đặt chỉnh tề, đồ sộ; người ngoại quốc đến xem phải động lòng kính phục, nếu cả châu Âu được trông thấy thì cả châu Âu cũng phải khen ngợi.

Một bên bài trí la liệt những súng trường, súng thần công, đại bác đủ hạng, những dã pháo, những xe chở súng, những viên đạn lớn nhỏ đủ cỡ..v.v.. Phần nhiều so sánh với các kiểu súng đạn tốt nhất ở Tây phương, bất quá chỉ thua kém về vẻ đẹp mà thôi.

Một bên thì đỗ chi chít những chiến thuyền không biết cơ man nào mà đếm; to có nhỏ có, chiếc nào chế tạo trông cũng có vẻ hùng vĩ khá sợ. Tất cả các thuyền binh khí ấy toàn là công trình của ông vua hiếu động và đa tài, đa nghệ…

Ngài đã chế tạo được những chiến thuyền theo kiểu châu Âu mà chỉ dùng toàn những người thợ bản xứ.

Ban đầu, ngài mua một chiếc tàu Tây đã cũ đem về tháo tung ra từng mảnh để xem cách thức chế tạo, sau đó tự tay ráp lại y nguyên hình thức cũ, ráp khéo đến nỗi xem chiếc tàu lại có vẻ đẹp hơn lúc trước.

Sự thành công ấy làm cho nhà vua nức lòng phấn chí, nhất định ra tay đóng hẳn một chiếc hoàn toàn mới. Mà ngài làm được mới thật lạ kỳ, sau đó lại đóng thêm hai chiếc nữa. Cả bốn chiếc tàu này đi đến đâu cũng làm lên oai danh hiển hách cho nhà vua.

Công cuộc chế tạo lại mau chóng không ngờ, chiếc nào cũng đóng không quá 3 tháng đã hoàn thành, có chiếc lại còn làm nhanh chóng hơn…

Các ông ở bên Tây nghe nói một ông vua ở nước Nam có thể chỉ huy được một chiếc tàu chiến đóng theo kiểu châu Âu, tất lấy làm lạ vô cùng; nhưng các ông còn kinh ngạc nhiều hơn nữa nếu như các ông được chứng kiến mọi sự kiến thiết ở xứ sở này".

img

Một loại chiến thuyền thời Nguyễn (Hình minh họa – Nguồn: quansuvn)

Trên đây là một số nhận xét, đánh giá của người châu Âu về vua Gia Long ở bối cảnh ông vẫn chưa lên ngôi hoàng đế mà vẫn là một vị chúa đang trong cuộc tranh đấu với triều Tây Sơn để giành lại quyền cai trị cho dòng họ Nguyễn.

Tuy nhiên, những kiến thức mà ông học hỏi được từ phương Tây có hữu ích rất lớn, lực lượng thủy quân gồm thuyền chiến chèo tay, tàu chiến đóng theo kiểu châu Âu và các loại thuyền mành khác nhau chính là lực lượng nòng cốt giúp ông làm lên đế nghiệp.

Năm 1792, vua Quang Trung mất, nội bộ nhà Tây Sơn suy yếu, lợi dụng cơ hội đó Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn.
Trận thủy chiến lớn diễn ra đầu năm Tân Dậu (1801) ở đầm Thị Nại trong cuộc tấn công đánh chiếm thành Quy Nhơn đã khiến cho toàn bộ hạm đội chiến thuyền hùng mạnh của Tây Sơn bị tiêu diệt hoàn toàn.

Tạo ra bước ngoặt quan trọng đánh dấu đà thắng lợi của Nguyễn Phúc Ánh nhờ đó mà chỉ một thời gian ngắn sau ông đã kiểm soát toàn bộ lãnh thổ, chấm dứt triều đại Tây Sơn và thay thế bằng vương triều mới do ông đứng đầu. Năm 1802 ông chính thức lên ngôi vua, lấy niên hiệu Gia Long, mở ra một triều đại quân chủ mới - Triều Nguyễn.



Chân dung vua Gia Long. Nguồn: Sưu tầm
Ngày mồng 1 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802) ông cho lập đàn ở đồng An Ninh, hiệp tế trời đất, kính cáo việc đặt niên hiệu. Hôm sau kính cáo vong linh liệt thánh, lễ xong vua ngự ở điện, nhận lễ chầu mừng. Đặt niên hiệu là Gia Long, đại xá cho cả nước, ban chiếu cùng 6 điều thi ân.

Năm 1804, sau khi lên ngôi sắp đặt chính trị ổn định, vua Gia Long sai Lê Quang Định cùng các sứ thần sang nước Thanh cầu phong và đề nghị công nhận quốc hiệu Nam Việt với ý nghĩa “Các đời trước mở mang cõi viêm bang, mỗi ngày một rộng lớn, bao gồm cả các nước Việt Thường, Chân Lạp, dựng quốc hiệu là Nam Việt, truyền nối hơn 200 năm. Nay đã vỗ yên được toàn cõi Việt, nên cho khôi phục hiệu cũ để chính danh tốt”. Nhưng vua nước Thanh cho rằng chữ Nam Việt dễ bị nhầm lẫn bao gồm cả Đông Tây Việt nên không muốn cho. Vua Gia Long hai ba lần phục thư biện giải, lại nói nếu không cho thì không thụ phong. Vua nhà Thanh ngại mất lòng, mới cho dùng chữ Việt Nam để đặt tên nước.
 
Ngay sau khi được nhà Thanh công nhận quốc hiệu, ngày Đinh Sửu, tháng 2 năm Giáp Tý (1804) vua Gia Long cho làm lễ kính cáo Thái miếu. Xuống chiếu bố cáo khắp trong ngoài rằng “Đế vương dựng nước, trước phải trọng quốc hiệu để tỏ rõ nhất thống. Xét từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất Viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước. Hơn 200 năm, nối hòa thêm sáng, vững nền thần thánh dõi truyền, giữ được vận trong ngoài yên lặng. Chợt đến giữa chừng, vận nước khó khăn, ta đem tấm thân nhỏ bé lo dẹp giặc loạn, nên nay nhờ được phúc lớn, nối được nghiệp xưa, bờ cõi Giao Nam, đều vào bản tịch. Sau nghĩ tới mưu văn công võ tướng, ở ngôi chính, chịu mệnh mới, nên lấy ngày 17 tháng 2 năm nay, kính cáo Thái miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa”. Sau đó hạ chiếu thông cáo đến các nước Xiêm La, Lữ Tống và các thuộc quốc Chân Lạp, Vạn Tượng đều biết[4].

10-02-002-075821-100220-32.jpg


Đặt quốc hiệu Việt Nam năm Gia Long thứ 3 (1804). Nguồn: Đại Nam thực lục, Đệ nhất kỷ, quyển XXIII
Mặc dù đã chính thức xưng vương, đặt niên hiệu vào năm 1802, nhưng với tư tưởng của người có chí lớn, muốn thể hiện quyền uy thiên tử, theo đề nghị của quần thần, năm 1806 vua Gia Long lên ngôi Hoàng đế tại điện Thái Hòa. Trong bản Chiếu ban bố việc lên ngôi Hoàng đế có lời rằng: Trẫm nghĩ: Đức của người làm vua giống như mặt trời, vương giả lấy đó mà soi sáng; đạo thống như trời, thánh nhân nhờ đấy mà noi theo phép tắc. Lớn lao thay nhà nước ta, bao trùm cả cõi Nam! Các thánh đời trước, dựng nghiệp dốc lòng, gắng sức xây nền, hai trăm năm lẻ, thánh hiền tiếp nối, công đức rạng danh… Trẫm nhờ uy linh tông miếu xã tắc và sức mạnh của quần thần, phá được quân thù, khôi phục nghiệp cũ, mở mang bờ cõi, lập nên công lớn, thực là chức phận của Trẫm, đâu dám ở ngôi cao. Nhưng các thân công đại thần nhiều lần tâu rằng trách nhiệm yên dân trời đã giao cho Trẫm mà lịch số vô cùng cũng duy có Trẫm nối dõi, cố xin Trẫm lên ngôi Hoàng đế để tỏ rõ đại thống. Vì vậy, Trẫm định ngày mồng 7 tháng này kính cáo Trời Đất, ngày 9 kính cáo Tôn Miếu, ngày 12 tiếp nhận sách văn, tôn xưng Hoàng đế”.

Sau khi lập quốc, Gia Long cho lập danh sách truy tôn, tặng thưởng các công thần theo phò vua khai quốc. Vua ban Dụ rằng: Đấng vương giả dựng nghiệp truyền mối, trước phải tôn thờ người có đức, báo đáp người có công. Nhà nước ta trăm trận vất vả mới khôi phục được non sông, đành là mệnh trời yêu mến, nhưng cũng thực là nhờ sức của các tướng sĩ cùng ta chống kẻ thù chung. Phàm người có chiến công, còn sống thì đã được vinh gia tước trật, duy những người vì nước bỏ mình, trong lúc can qua bận rộn, chưa kịp truy phong, mà sổ ghi công trạng vẫn còn, thì đều cho các quan chưởng lãnh và chánh phó trưởng chi [của các viên đã mất] tới trước điện hầu nghe bàn công truy tặng, để cho yên ủi hồn thơm đã khuất. Lại ra lệnh thu dùng con cái, không có con thì dùng cháu, không có cháu thì dùng em, tùy theo công lao nặng nhẹ, hoặc trao cho quan chức, hoặc cho miễn binh dao trọn đời. Sau đó sai trấn Phiên An chọn đất xây đền, đặt tên là đền Hiển Trung, thờ những công thần, lại sắc cho Bộ Lễ bàn định điển lễ thờ tự, hằng năm xuân thu làm lễ tế. Đặt phu coi đền 25 người.

Ngoài ra ông còn cho sửa sang phả điệp tông thất, kê khai con cháu trong phả hệ. Bản Chiếu ngày 15 tháng 12 năm Gia Long thứ nhất (1802) chiếu cho những người thuộc dòng Nguyễn Phước tộc biết: Từ khi Đức Tiên Thái Vương dựng nước, Nam giao thánh thần truyền nối trải được tám, chín đời, các chi phái sinh sôi phồn thịnh. Khi nước nhà mới khởi nghiệp mở mang, tông tính nhiều phen bôn ba. Nay nhờ liệt thánh rủ lòng che chở, bình kẻ tiếm loạn, duy việc các thế hệ thân thích trong dòng họ đến nay vẫn chưa được rõ ràng. Vì vậy nay ban đặc chiếu căn cứ từ Đức Tiên Thái Vương cùng Liệt Tiên Thánh Vương cho đến nay chiếu theo phả điệp của hoàng tộc phụng truyền cho công tính các chi phái đều kê khai rõ ràng các đời, phả hệ phỏng từ Đức Tiên Thái Vương sinh hạ được công tử là hiền ngôi, ai là dòng đích, ai là dòng thứ, nối sinh con cháu các thế hệ được bao nhiêu, nhận ân điển của liệt triều cũng vậy. Hễ công tính các chi phái hiện còn bao nhiêu, ai đã được dự vào hàng quan chức, ai chưa được đều phải kê khai đầy đủ theo các thế hệ trước, nghiên cứu rõ ràng đích thực, sửa sang phả điệp trình lên để xem xét

Sắp xếp ổn định xong việc định đô, đặt niên hiệu, quốc hiệu, tôn xưng đế hiệu, báo đáp công thần, sửa sang tông phả; Hoàng đế Gia Long bắt tay vào công cuộc xây dựng thiết chế bộ máy chính quyền, chế định triều nghi, luật pháp, binh ngạch, khoa cử… Công cuộc khai quốc của ngài còn rất nhiều việc phải làm.



Làm vua được 18 năm, đến ngày 19 tháng Chạp năm Kỷ Mão (tức ngày 3/2/1820) Gia Long qua đời, hưởng thọ 59 tuổi.


Vi-hoang-de-sang-lap-ra-trieu-dai-phong-kien-cuoi-cung-trong-lich-su-Viet-Nam-keo-dai-143-nam_1.jpg


Triều đình đặt thụy hiệu cho vua là "Khai thiên Hoằng đạo Lập kỷ Thùy thống Thần văn Thánh vũ Tuấn đức Long công Chí nhân Đại hiếu Cao Hoàng đế"; sử sách thường gọi là Nguyễn Thế Tổ.
 
Bú cặc Thái và Tây, rồi qua Bú nốt cặc Tàu
Đúng là có biệt tài ai cũng gọi làm cha được=))
 
Tao nghĩ nếu Huệ ko ngủm sớm thì đại cục sẽ ntn?
Rồi nếu Ánh sống tới 80 tuổi như Khang Hy Càng Long thì vận mệnh Việt Nam có như Minh Trị bên Nhật ko?
Vì cả Ánh và Huệ chơi cấu rỉa máu quá, nên cả hai hẹo hơi sớm😬
 
Tao nghĩ nếu Huệ ko ngủm sớm thì đại cục sẽ ntn?
Rồi nếu Ánh sống tới 80 tuổi như Khang Hy Càng Long thì vận mệnh Việt Nam có như Minh Trị bên Nhật ko?
Vì cả Ánh và Huệ chơi cấu rỉa máu quá, nên cả hai hẹo hơi sớm😬

Huệ sống lâu thì kết quả vẫn thế thôi.
Tây Sơn tèo là vì lấy số đinh quá lớn, toàn dân căm hận.
Nêu con Huệ chỉ có mười mấy năm đã mất nước.
Lúc trốn còn bị chính dân chúng bắt trói đem dâng vua Nguyễn.

Ánh sống lâu thì số phận Việt Nam cũng không thay đổi gì.
Vì lúc Pháp muốn vào DNA, chỉ còn bán đảo đông dương thôi.
Chính sách thực dân của Pháp là xóa hết chính phủ bản địa, cho người Pháp vô điều hành đất nước.
Nó khác bọn Anh. Bọn Anh là giữ nguyên chính phủ bản địa, chỉ cho tổng đốc Anh điều phối bản địa,
để giành quyền buôn bán cho nước Anh.

Trong khu vực DNA thì THái nằm ở vùng đệm Anh-Pháp.
Ngoài ra vua THái còn sang hầu vua Anh từ sớm rồi.
Chấp nhận chiếu dưới luôn.
Chứ đéo phải như nhà Nguyễn đòi ngang hàng với nước Pháp.
Đù mẹ đúng là chửi lộn bằng chữ Nho thì Việt Nam thằng bọn Pháp thật.
Nhưng mà đánh nhau phải dùng súng đạn.
 
Huệ sống lâu thì kết quả vẫn thế thôi.
Tây Sơn tèo là vì lấy số đinh quá lớn, toàn dân căm hận.
Nêu con Huệ chỉ có mười mấy năm đã mất nước.
Lúc trốn còn bị chính dân chúng bắt trói đem dâng vua Nguyễn.

Ánh sống lâu thì số phận Việt Nam cũng không thay đổi gì.
Vì lúc Pháp muốn vào DNA, chỉ còn bán đảo đông dương thôi.
Chính sách thực dân của Pháp là xóa hết chính phủ bản địa, cho người Pháp vô điều hành đất nước.
Nó khác bọn Anh. Bọn Anh là giữ nguyên chính phủ bản địa, chỉ cho tổng đốc Anh điều phối bản địa,
để giành quyền buôn bán cho nước Anh.

Trong khu vực DNA thì THái nằm ở vùng đệm Anh-Pháp.
Ngoài ra vua THái còn sang hầu vua Anh từ sớm rồi.
Chấp nhận chiếu dưới luôn.
Chứ đéo phải như nhà Nguyễn đòi ngang hàng với nước Pháp.
Đù mẹ đúng là chửi lộn bằng chữ Nho thì Việt Nam thằng bọn Pháp thật.
Nhưng mà đánh nhau phải dùng súng đạn.
Huệ là loại quân vương dùng chiến tranh nuôi chiến tranh, giống Nã Phá Luân nên cái kết sụp đổ trong ngắn hạn là chắc chắn phải xảy ra
Ánh thì có thể ví với Tokugawa Ieyasu bên Nhựt
 
Top