• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Hùng Vương huyền sử và chính sử.

atlas05

Cái nồi có lắp
Triều đại Hùng Vương có rất nhiều câu chuyện mơ hồ liên quan đến huyền sử.
Vậy chính sử Trung Hoa và Việt Nam ghi chép thế nào về Hùng Vương?
Liệu triều đại này có kéo dài hơn 2000 năm chỉ với 18 đời vua?
 
Tài liệu đầu tiên ghi nhận về những nhóm người sống ở Giao Châu tức nước ta ngày nay thì họ không gọi là Hùng Vương mà họ gọi là Lạc Vương
Sách sớm nhất ghi chép về “Lạc” vương là sách Thủy kinh chú của Lịch Đạo Nguyên, thế kỷ VI, trong đó có dẫn lại từ sách Giao Châu ngoại vực ký khoảng thế kỷ IV một đoạn văn như sau: “交趾昔未有郡縣之時, 土地有雒田, 其田從潮水上下, 民墾食其, 名為雒民. 設雒王雒侯主諸郡縣. 縣多為雒將. 雒將銅印青綬” (Giao Chỉ xưa kia, lúc chưa có quận huyện, đất đai có ruộng Lạc, ruộng này theo nước triều lên xuống, dân trồng cấy ruộng ấy để ăn, nên gọi là dân Lạc. Các quận, huyện được cai trị bởi vua Lạc và các phụ tá vua là quan Lạc. Ở các huyện do các tướng Lạc cai quản, tướng Lạc có ấn đồng, dây thao xanh). Tiếp đến là sách Sử ký – Sách ẩn của Tư Mã Trinh đời Đường đã nhắc đến sách Quảng Châu ký của Bùi Uyên, đời Tấn,khoảng thế kỷ IV ghi chép cùng nội dung trên: “交趾有駱田,仰潮水上下,人食其田,名為駱人.有駱王, 駱侯.諸縣自名為駱將, 銅印青綬, 即今之令長也”(Giao Chỉ có ruộng Lạc, ruộng này theo nước triều lên xuống, người ta ăn ruộng ấy nên gọi là người Lạc. Có vua Lạc và các phụ tá vua là quan Lạc. Các huyện tự gọi người cai quản là tướng Lạc, đeo ấn đồng dải thao xanh, như quan lệnh trưởng ngày nay vậy).

Như vậy trước khi Triệu Đà theo lệnh của Tần Thủy Hoàng tiến xuống phương nam thì vùng này đã có người sinh sống.
Họ cày ruộng theo con nước khi lên khi xuống và gọi chung là người Lạc và thủ lĩnh của họ gọi là vua Lạc và các quan Lạc phụ tá.
Vậy khái niệm Hùng Vương bắt đầu khi nào?
Danh xưng “Hùng vương” 雄王 được ghi chép trong thư tịch Hán là sách Thái Bình quảng ký, thế kỷ thứ X,đã dẫn Nam Việt chí (Thẩm Hoài Viễn) khoảng thế kỷ V: “交趾之地,頗為膏腴,從民居之,始知播植.厥土惟黑壤.厥氣惟雄.故今稱其田為雄田,其民為雄民.有君長,亦曰雄王;有輔佐焉,亦曰雄侯.分其地以為雄將” (Vùng đất Giao Chỉ rất màu mỡ, di dân đến ở, thoạt đầu biết trồng cấy. Đất đen xốp. Khí đất “hùng”. Vì vậy ruộng ấy gọi là ruộng Hùng, dân ấy là dân Hùng. Có quân trưởng cũng gọi là vua Hùng; các phụ tá thì gọi là quan Hùng. Đất đó được chia ra cho các tướng Hùng cai quản).
Đến thế kỷ thứ X mới bắt đầu xuất hiện khái niệm Hùng Vương thay cho Lạc Vương
Hùng 雄 ở đây có nghĩa là hùng mạnh xuất phát từ chất đất tơi xốp màu mỡ và khí đất hùng mạnh nên gọi là ruộng Hùng, dân Hùng Hùng quan và thủ lãnh là Hùng vương.

Như vậy ban đầu người Trung Hoa gọi thủ lĩnh vùng đất chúng ta là Lạc vương sau đó họ không dùng chữ Lạc nửa mà đổi thành Hùng vương
 
Vua Sở họ Hùng liệu có liên quan gì đến Hùng Vương của chúng ta hay không?
Xin thưa là không
Họ Hùng của vua sở bắt đầu từ Sở Dục Hùng 楚鬻熊), còn đọc là Chúc Hùng, hay Huyệt Hùng (穴熊), lại có tên là Quý Liên.
Sau các vua Sở lấy tên Hùng của Sở Dục Hùng làm họ
Chữ Hùng 熊 trong họ vua Sở nghĩa là con gấu
không liên quan đến chữ Hùng 雄 trong Hùng vương có nghĩa là hùng mạnh.
Cả hai chữ hùng chỉ đồng âm nhưng khác nghĩa nhau và chả có liên quan gì
 
Những ghi chép về Hùng Vương và Văn Lang trong thư tịch Trung Hoa cũng không khác gì cách nhìn của nhà Nguyễn với các tiểu quốc Thủy Xá Hỏa Xá khu vực Tây Nguyên
Cũng nền văn hóa thô sơ theo hình thức thủ lĩnh bộ lạc nguyên thủy
Xin giới thiệu cách nhìn của nhà Nguyễn trong Mộc bản nhà Nguyễn về các tiểu quốc Tây Nguyên để tham khảo:

Về phong tục của Thủy Xá và Hỏa Xá, khi trai gái bằng lòng nhau, thì bên trai đưa đủ trâu rượu đến nhà gái, mời dân sở tại đến họp, thế là thành hôn. Đại ước ra ở riêng thì ít, đi gửi rể thì nhiều. Khi chết không quan quách, chỉ đặt lên trên giường. Họ hàng đến thăm, khóc viếng, mỗi người lấy một nắm cơm nhỏ nhét vào miệng người chết. Cơm nhét vào mồm đã đầy rồi, người sau đến lấy tay móc cơm cũ ra, cho cơm mới vào. Đủ ba ngày thì đưa thây và giường đi, đào huyệt chôn, đắp thành nấm làm lễ cúng rồi về. Con cháu áo mặc vẫn như thường, chỉ có trong 3 tháng phải xõa tóc, gặp ngày giỗ cũng đem phẩm vật ra cúng ở mộ.

Phong tục của hai nước nói là đêm không nói là ngày, cứ thóc chín là 1 năm, không nói đến năm. Quan gọi là Lung, sứ giả không dám xưng là Lung, nên gọi là Ma.

Về âm nhạc thì dùng 5 chiếc chiêng đồng lớn và nhỏ, 1 chiếc thanh la đồng, 1 chiếc trống, việc hiếu hỷ đều dùng cả.

Tương truyền Thủy Xá có 2 khối đá và 1 đoạn roi mây, Hỏa Xá có 1 chiếc dao ngắn, được xem là vật rất thiêng đời đời truyền lại cho nhau, không rõ linh nghiệm thế nào mà không cho người khác đến gần để xem. Dân có ốm đau thì đem lễ vật nhỏ mọn đến cầu khấn là khỏi, người người đều cho là thần. Mọi người khi đến đền cúi lạy không dám trông thẳng, vì cớ là tục dân trọng việc quỷ thần.

Hai Quốc trưởng của hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá chưa từng gặp nhau bao giờ, vì nếu gặp nhau thì có một người chết. Quốc trưởng tuổi già thì truyền cho cháu gọi bằng chú bác, chứ không truyền cho con.

Thủy Xá và Hỏa Xá dẫu có quốc trưởng, nhưng không có quân lính, thành quách, tự cày lấy mà ăn, tự dệt lấy mà mặc, không khác gì các sách trưởng. Chỉ có nêu tiếng thần thánh để nương nhờ, được mọi người tôn lên, dân Man phụng thờ như bậc thần linh mà thôi. Còn quyền sinh sát, việc tranh đấu đều do ở sách trưởng tự chuyên, Quốc trưởng không dự đến. Tương truyền khi mưa dầm mà cầu đảo thì mưa, nên gọi là Thủy vương. Chỗ ở của Quốc trưởng Hỏa Xá 3 mặt đều núi, một mặt cách đồng rộng, dân cư ước độ hơn trăm nóc nhà, gian giữa đặt cái giường tre, hai bên cắm dù lọng, chiêng trống treo ở giá, bên tả để 1 cái đồng hồ lớn, 1 cái bình đất, 2 cái bành voi bành bò, 1 cái hộp sơn khảm xà cừ, 2 cái mâm bồng sơn. Quốc trưởng Hỏa Xá người hơn 70 tuổi, đầu bịt khăn vải trắng, mình mặc áo vải trắng, dưới mặc quần vải hở cả đùi và đầu gối.
 
Vậy các tài liệu Việt Nam viết gì về thời Hùng Vương
Mở đầu là Việt Sử Lược một tác phẩm sử khuyết danh đời Trần bị lẫn vào thư tịch Trung Hoa và chỉ được phát hiện thời gian gần đây
Việt Sử Lược viết về Hùng Vương như sau:
Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682 trước Công nguyên-ND) ở bộ Gia Ninh dùng ảo thuật qui phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương đóng đô ở Văn Lang, đặt quốc hiệu là Văn Lang phong tục thuần lương chơn chất, chính sự dùng lối thắt gút.

Truyền được 18 đời đều xưng là Hùng Vương.

Như vậy theo Việt Sử Lược Hùng Vương mở đầu khoảng 682 TCN và kết thúc 218 TCN khi Triệu Đà bình định vùng đất này
Khoảng gần 400 năm cho 18 đời vua Hùng
Mốc tương đối hợp lý dù 18 đời vua Hùng chỉ là con số ước đoán và không có cơ sở bằng chứng gì.
 
Sửa lần cuối:
Top