Johnny Lê Nữu Vượng
Già làng


Choji Suzuki sinh ngày 10 tháng 6 năm 1919 tại Thành phố Tagajo Shi, Tỉnh Miyagiken miền bắc Nhật Bản. Ông là người con cả trong một gia đình có 4 anh em: Choji Suzuki, Minoru Suzuki, Masako Suzuki và Isao Suzuki. Suzuki là một dòng họ quyền quý danh gia ở Nhật Bản tại miền đất Matsushima. Từ năm 8 tuổi đến năm 18 tuổi, ông học Tiểu học và Trung học ở Kasagami. Trong thời gian này ông tập Nhu đạo ở trường Kasagami và năm 13 tuổi, ông được thân phụ gửi đến thọ giáo với một thiền sư dạy Karate trong vùng đó là Thầy Sigimoto Tadao, có nguồn gốc võ thuật từ Naha - Te.
Ẩn cư tu tập:
Thời gian này, ở Nhật Bản các phái võ đều bị cấm đoán. Một vị tu sĩ Phật giáo đã giúp ông ẩn cư trong một tu viện trên núi. Suốt cả ngày lẫn đêm ông phải ở trên núi để luyện tập Karatedo (Không Thủ Đạo), Kendo (Kiếm Đạo), Jujutsu (Nhu Thuật) trong những điều kiện hết sức khó khăn. Có lẽ vì thế, sau này ông chọn Thành phố Huế cổ kính và sâu lắng làm nơi ẩn cư và phát triển võ học. Kỷ niệm này ông vẫn thường hay kể lại cho những người thân và học trò của mình. Ba tháng đầu tiên tất cả những gì ông phải làm là hằng ngày ông ngồi dùng tay chụp bắt những con ruồi bâu vào chén có chứa đường hoặc nó bay trước mặt. Đó là một cách để rèn luyện lòng kiên nhẫn và sự phản xạ nhanh nhẹn của tay và mắt. Và cứ như thế, ông tập luyện cho đến khi nào cảm thấy đôi cánh tay mình như muốn rời ra. Đó cũng là một thử thách đầu tiên để xem ông có chấp nhận được hay không và ông đã vượt qua. Ba năm sau, ông được Đại sư Asano Zenkisti (sư phụ của Thầy Sigimoto Tadao) huấn luyện để trở thành một một tu sĩ. Asano cũng có mối quan hệ thân tình với thân phụ Choji Suzuki. Asano Zenkisti tiếp tục truyền dạy Karate Hệ phái Take No Uchi Ryu (Trúc Chi Nội Lưu) cho ông, đó là một trong những hệ phái Karate cổ nhất. Choji Suzuki đã luyện tập chăm chỉ trong tám năm. Mỗi buổi sáng sớm, ông đều phải chạy lên đỉnh núi để tập luyện. Mùa đông, chỉ với bộ võ phục mong manh, hằng ngày ông vẫn kiên trì ngồi trên tảng đá đầy tuyết và trầm tư tham thiền mặc cho cơ thể ông chống chọi lại với những cơn gió lạnh nhất. Đến năm 21 tuổi, ông rời tu viện sau đó được Thiền sư Kisa Buroo, trụ trì ngôi chùa Shiogama Shinza nổi tiếng tại Thành phố Shiogama, Tỉnh Miyagiken (cạnh Thành phố Tagajo Shi, Miyagiken nơi ông sinh sống) truyền thụ Karate và pháp môn Thiền tông Tào Động (Tsao-t'ung hay Soto) do Thiền sư Dogen Kigen (1200-1253) sáng lập. Ông là một trong ba cao đồ hiếm hoi của Đại sư Kisa Buroo. Thời gian này ông là sinh viên của Trường Đại học Y khoa Tokyo và vừa làm thêm ở một hãng xe ô tô ở Thủ đô Tokyo Nhật Bản. Choji Suzuki rất say mê môn võ Karate và nghiên cứu Phật học.
Phát triển võ học:
Năm ông 21 tuổi, Choji Suzuki đã đạt tới sự hiểu biết đúng đắn các kỹ thuật và triết lý của môn võ Karate thì cũng là lúc ông phải gia nhập quân đội Thiên hoàng vào năm 1940. Ông đã rời quân trường sang Mãn Châu năm 1942. Sau đó, ông sang Mã Lai năm 1943. Trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, một tàu chiến của Nhật Bản mà ông tham gia chiến đấu đã bị chìm trên biển Thái Bình Dương. Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển với tấm ván nhỏ, ông được một tàu đánh cá cứu sống rồi tới Việt Nam năm 1944. Đến năm 1945, Nhật đầu hàng, kết thúc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai ông ở lại Việt Nam tham gia Mặt trận Việt Minh và công tác ở Liên khu 4 (Thanh Hoá). Sau đó, ông chuyển vào Liên khu 5 (Quảng Ngãi) phụ trách xưởng sản xuất dụng cụ y tế tại vùng Chợ Chùa cung cấp cho Mặt trận và dạy những bài võ Karate đầu tiên cho du kích, tự vệ. Đến năm 1952, ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Minh Lệ (Cô Năm) - Người nữ cứu thương của Liên khu năm gốc Tam Quan - Bình Định và lấy họ tên Việt là Phan Văn Phúc. Họ có ba người con là: Phan Thị Ngọc Mỹ (Michiko Suzuki), Phan Văn Minh Đức (Tokuo Suzuki), và Phan Văn Minh Ý (Eiji Suzuki). Sau Hiệp định Geneve 1954, đến tháng 11 năm 1959 ông cùng gia đình chọn Thành phố Huế làm nơi sinh sống và phát triển võ học. Năm 1960, ông thành lập Đạo đường Suzucho Karate-Do Ryu Suzuki Dojo Noen tại số 8 - Võ Tánh (hiện nay là đường Nguyễn Chí Thanh, Thành phố Huế để dạy Karatedo và Judo, khai sinh Trường phái Suzucho Karatedo. Mặc dù vậy, đến năm 1963 Đạo đường (võ đường) mới chính thức hoạt động.

Đất Thần kinh nguyên là miền đất võ - nơi phát tích, ươm mầm hội tụ của rất nhiều võ phái cổ truyền những thế kỷ trước, đặc biệt từ triều Nguyễn nhưng Karatedo vẫn có sức thuyết phục thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên tại địa phương này. Tuy nhiên, Thầy Choji Suzuki chỉ chọn năm, bảy học trò để truyền dạy võ học của mình với môn quy rất nghiêm khắc để sau này không những rèn luyện tâm trí, đạo đức qua võ thuật mà họ còn tiếp nối phát triển Trường phái Suzucho Karatedo. Mặc dù trong quá trình học tập vẫn có học trò làm Thầy không vui nhưng họ luôn được cảm hoá bằng lòng vị tha và tình yêu thương. Thầy, Cô rất thương yêu học trò, luôn tạo điều kiện cho những học trò có hoàn cảnh khó khăn vươn lên trong cuộc sống. Trong tập luyện Thầy rất nghiêm khắc, đầu tiên người môn sinh Karatedo phải học Lễ tiết (những ứng xử tôn trọng lễ giáo, trong Karatedo bắt đầu bằng chữ Lễ và kết thúc cũng bằng chữ Lễ). Sau đó, họ phải biết lắng nghe lời khuyên, nghiêm huấn của thầy và của những bậc trưởng thượng thuộc các trường phái khác. Để tiến bộ, môn sinh phải nỗ lực đạt được tinh thần đích thực của Không Thủ Đạo. Đối với Thầy, Không Thủ Đạo là một con đường tinh luyện bản tính con người và thanh tịnh hóa tâm thức, sự cẩu thả không cho phép trong hoàn cảnh nào. Việc tập luyện được đặt ra phải liên tục và học mỗi lần một ít nhưng không được nghỉ ngang. Mỗi ngày môn sinh phải tự giác hoàn thiện bản thân ba mặt: Trí dục, Đức dục và Thể dục, không để mờ nhạt, thoái hóa. Khi đã thăng tiến thực sự, người tập Không Thủ Đạo không được khoe khoang, hãnh tiến. Theo Thầy, thành công là một con đường đi chứ không phải là một điểm đích. Tự ti, tự mãn là căn bệnh làm thất bại việc luyện tập bởi Karatedo cũng là một môn nghệ thuật tức không có điểm dừng. Một đòn thế căn bản của Karatedo tập hàng vạn lần nhưng không đơn điệu mà là nâng cao đó là tuyệt kỹ. Thầy Choji Suzuki là người nhân từ và luôn khiêm tốn nhưng chưa bao giờ từ chối một cuộc thách đấu của ai. Ngày mở khóa đặc biệt để đào tạo huấn luyện viên, Thầy đã từng chỉ bỏ tính kiêu căng và lòng tự mãn cho một võ sư người nước ngoài vào võ đường ông thách đấu. Kết quả, sau sáu tháng điều trị chấn thương vì gãy hai xương sườn người này đến xin ông thụ giáo. Giờ huấn luyện Thầy Choji Suzuki thường giảng về Võ đạo, Võ sử, Võ lý, sau đó mới ứng dụng thực hành kỹ thuật. Để minh họa đối kháng tự do ông giao đấu với các học trò lớn của mình rất ngoạn mục, thường thì một mình ông đấu với ba, bốn người và một tay ông không động thủ nhưng thân pháp thì cực kì nhanh nhẹn tưởng như tương phản với ngoại hình. Thầy luôn nhắc nhở học trò trong sinh hoạt hằng ngày không được nói dối, tham lam, vô cảm và hèn nhát. Trong văn hóa ứng xử giao tiếp của Không Thủ Đạo, người môn sinh luôn luôn biết xin lỗi, cảm ơn và cúi đầu chào người đối diện trước khi bắt tay xã giao. Người môn sinh Không Thủ Đạo phải biết tự hóa giải nóng giận và lo sợ, chi tiêu phải tiết kiệm, tránh ăn uống quá độ, thừa thải, say rượu. Cấm không được hút thuốc lá, chửi thề và phóng xe vượt ẩu vì những thói hư tật xấu này làm ngăn trở hiệu năng của việc luyện tập và ảnh hưởng đến văn hóa đạo đức Karatedo. Theo Thầy, việc luyện tập luôn lấy Kỷ và Luật làm đầu. Trong Không Thủ Đạo không có giới hạn, việc học là không ngừng nhưng phải dựa trên nguyên lý khoa học, thẩm mỹ học, cơ thể học để sáng tạo và phát triển. Người thầy chỉ là người mở đường để những người khác bước chân theo, làm cho con đường rộng ra và nhiều thêm. Trong đó, “Chuyên cần tập luyện rồi một ngày kia môn sinh sẽ trực ngộ” hoặc “Học võ để biết lợi hại của võ thuật mà phòng tránh và ứng dụng nó vào văn hóa ứng xử đúng đạo làm người chứ không sử dụng vào mục đích xấu”. Cuối cùng, nhưng có lẽ là quan trọng nhất: “Các con không nên chú tâm vào chiến tích thấy được e dễ rơi vào cuồng vọng, bớt chuộng hư vinh. Mục đích của Không Thủ Đạo là phải tự chiến thắng chính mình, đó mới là sự chiến thắng thượng thừa nhất của người võ sĩ Không Thủ Đạo”.
Trong sinh hoạt đời thường, Thầy Choji Suzuki có lối sống rất bình dị, không quan tâm chuyện lợi danh. Ông chủ trương phát triển võ thuật nhưng không thương mại hóa võ thuật. Ông ăn uống thích hợp, đơn giản và cho rằng nền tảng sức khỏe nằm trong thực phẩm chúng ta dùng hằng ngày. Về trang phục, Thầy luôn tươm tất sạch sẽ, không cầu kỳ. Sở thích của Thầy là đọc sách, dã ngoại, du lịch nhiều nơi để hiểu biết mà làm giàu tri thức; thích gần gũi thiên nhiên và nghiên cứu Võ học, Phật học. Thầy cho rằng Karatedo là một con đường tu dưỡng thân tâm đưa con người đến đỉnh cao bừng sáng trong tuệ giác và đạo đức, phẩm hạnh con người không chỉ là nền tảng của một cuộc sống có ý nghĩa mà còn là bản lề của sự thành công.
Thân không bệnh, tâm không loạn, thân và tâm đều không vướng mắc đó là chân hạnh phúc của đời người. Vào thời kỳ này (năm 1960), tuy Thầy đã thành lập Đạo đường nhưng việc mở lò dạy võ phương Đông chính quyền chưa ủng hộ. Muốn phát triển trên diện rộng nên ông dạy võ ở Ty cảnh sát thời ấy. Trước tình hình đó, mãi đến ngày 01 tháng 1 năm 1963 thầy Choji Susuki mới chính thức khai giảng võ đường, truyền thụ cho một số môn đồ tâm huyết làm nòng cốt. Khoá võ sinh đầu tiên ông đã chọn lọc rất kĩ chỉ nhận một ít học trò, trong đó có ông Nguyễn Nhuận* (đã mất) là học trò đầu tiên, học trò thứ hai là ông Trần Đình Tùng, học trò thứ ba là ông Ngô Đồng (ông Đồng đã mất), thứ tư là ông Khương Công Thêm, tiếp đến là Bảo Trai, Trương Bá Lộc, Nguyễn Xuân Dũng* (ông Dũng đã mất), Hạ Quốc Huy, Vĩnh Tung, v.v… Thầy luôn nhắc nhở học trò: “Người Võ sĩ đạo với tính tự tin và nhẫn nhục là hai trong những đức tính căn bản nhưng đôi khi tuổi trẻ thường chủ quan vì hơn kém mà dễ dẫn đến hành động sai lạc”. Theo Thầy: “Dụng ý bất dụng lực”, hoặc “Tinh lực thiện dụng, tự tha cộng vinh”, các con nên “Khuất phục kẻ xấu bằng con đường hòa bình chính là mục đích của Karatedo” và “Làm giàu tri thức là làm giàu ứng xử, giúp người là giúp mình”. Hoặc “Hãy xem nhẹ phần Võ thuật để đi vào tinh túy của Võ đạo bằng sự cởi mở của tâm hồn và tinh thần phóng khoáng”, có khi Thầy cho rằng: “Trong sâu thẳm của Karatedo có hai phần: Võ thuật và Võ đạo. Võ thuật tức là thuật đánh võ, chỉ đủ để giúp con người biết võ hoặc tinh thông để trở thành nghề võ, còn Võ đạo mới đưa con người đến tận cùng của cái biết võ mà hành võ. Đạo chính là đẳng cấp cao nhất, là sự giác ngộ mà người tập võ chân chính phải có hoài bão đạt đến”. Khi thiết kế phù hiệu trường phái, thầy Choji Suzuki giải thích: Biểu tượng đóa hoa sen sáu cánh ở giữa tượng trưng cho lục hòa và sự giác ngộ. Hai đóa hoa anh đào hai bên tượng trưng cho sự giản dị, tinh khiết. Nắm đấm bên trái mang ý nghĩa luôn nhắc nhở người tập phải có trái tim nhân ái và đối xử công bằng với mọi người. Ngoài ra, nắm đấm còn nhắc nhở môn sinh phải chăm chỉ rèn luyện kỹ thuật bên trái cũng thuận như bên phải. Màu đen, trắng của nắm đấm tượng trưng cho Âm - Dương. Màu đỏ của hoa sen biểu trưng cho sức sống, quyền lực, bác ái và hướng đến tương lai. Màu xanh của chữ tượng trưng cho sự chân thật, tự do, hòa hợp, hòa bình. Từ khi võ đường Suzucho Karatedo Ryu Suzuki Dojo Noen được thành lập, nó thu hút rất nhiều võ sinh, đa phần là sinh viên, học sinh bằng phương pháp truyền thống rất phong phú, khoa học và thực dụng như phương pháp Te Waza, Te Ashi Waza, Uke Waza, Ozodosa, v.v... Ngoài ra, Thầy còn truyền thụ cho những học trò tâm đắc phương pháp sử dụng binh khí Hệ thống Kobudo và kỹ thuật Trấn môn (Kumanote). Hệ thống đào tạo của Thầy cho một môn đồ lên đến Huyền đai ngoài các nội dung chương trình như về kỹ thuật căn bản (Kihon Waza), đối kháng (Kumite), quyền pháp (Kata) còn phát triển chuyên sâu sở đắc về phương pháp sơ cứu chấn thương (Kuatsu), v.v... Hệ thống quyền pháp của Suzucho Karatedo Ryu rất phong phú gồm có các bài quyền phổ thông như: TJ Kata, HJ Kata, Yoko Kata, Sankanku Kata, Ashi Waza Kata (80 thế), ngoài ra còn có các bài quyền đặc dị như Maki, Yen Kata, v.v… nổi bật là các bài Maki Sandan Kata (84 thế) và Yen Rokudan Kata (120 thế).
