• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Live Kinh thánh của người Việt

Trai Tân Cần Bị Phá Trinh

Con Chym bản Đôn
Hãy từ bỏ tôn giáo ngoại lai

BÍ MẬT TỪ LÒNG ĐẤT (tập 10): HUYỀN THOẠI SÁNG THẾ - THƯỢNG ĐẾ CỦA NGƯỜI VIỆT CỔ
****************************

Có một người tín hữu Ki-tô đã xem câu chuyện và hỏi rằng: “Có ngớ ngẩn không nếu được hỏi, trong thần thoại Việt cổ và các linh hồn cổ đại kia liệu có nhắc đến vai trò của Chúa Cha và đức Jesus Ki-tô?”

Đối với tôi, đó không phải là một câu hỏi ngớ ngẩn, mà thực sự là nỗi trăn trở của những người con tin vào đức Chúa. Trước khi ta nói đến đức Chúa được lý giải là Ba Ngôi Một Thể, từ nguyên ủy Thiên Chúa được xem là Chân Thần (God), tức là Chân lý Tuyệt đối và Duy nhất. Tư tưởng Nhất thần Độc chân của người Do-thái là một đặc trưng mà hiếm có dân tộc nào trên thế giới sánh bằng, song đó là nỗ lực của họ để đi tìm một chân lý tuyệt đối trọn vẹn. Niềm trăn trở khao khát đi tìm Chân lý và hiệp thông với Chân lý là nguyện vọng và băn khoăn đáng có ở con người, vì điều đó khiến họ không lạc vào sự hư không vô định nữa, từ đây họ đã có một định hướng để tiến đến mục tiêu: Trở về với Chân lý và Hòa mình vào Bản thể Vũ trụ. Tuy nhiên, cái Tuyệt đối vốn được xem là vượt ngoài tầm với và hiểu biết của con người, do đó, Thiên Chúa, hoặc Thần, hoặc Chân lý Cứu cánh, vẫn muôn đời là bài toán hóc búa của nhân loại. Các dân tộc đã đi tìm lời giải cho Thiên Chúa thông qua những sưu tập thần thoại của mình: thần thoại Hy-lạp, thần thoại Bắc Âu, thần thoại Ceotic, thần thoại Ai-cập, thần thoại Ấn-độ, thần thoại Trung Hoa v.v... Mặc dù ngày nay, giở ra hàng nghìn trang giấy của Thần thoại Hy-lạp sẽ chẳng ai tìm thấy một dòng một đoạn một câu nào nhắc tới đức Chúa Cha hay đức Jesus Ki-tô, vì đó chỉ là một thể hiện rất riêng của Ki-tô giáo sau này, đó là về mặt hiện tượng. Còn khi suy nghiệm về bản chất, ta thể thấy sự Tuyệt đối vượt ra ngoài các danh hiệu và hình tướng, cho dù nó mang danh là Chúa Cha hay Chúa Con. Còn những câu chuyện huyền thoại hay tôn giáo, nó chỉ là sự Tương đối, hạn chế trong nhận thức của con người cổ đại, do đó cái Tương đối không thể diễn đạt tận thiện cái Tuyệt đối, song le, người trí thức và khôn ngoan sẽ biết đọc hết tất cả những sự khác biệt của Tương đối ấy để suy niệm về Tuyệt đối. Đó là khao khát của người trần tục khi hướng về cái Thiêng, là ước mơ từ bỏ cái Vọng để đi tìm cái Chân, từ bỏ cái Ác để đi tìm cái Thiện, từ bỏ cái Xấu để đi tìm cái Đẹp. Mỗi mỗi dân tộc đều như vậy, cho nên Thần thoại về các vị Thần chính là sự thể hiện điều đó, khao khát của nhân loại được ánh hiện một cách rất riêng với từng loại văn hóa của từng dân tộc, ta có thể nói cùng một nỗi trăn trở về Chân lý mà đã diễn xuất rất nhiều các thần thoại khác nhau trên thế giới.

Ngày hôm nay, chúng ta quay trở về với một nguồn cội dĩ vãng đã bị quên bỏ suốt hàng nghìn năm – Thần thoại Việt cổ. Khi khai quật nó lên, chúng tôi hoàn toàn bất ngờ và bị cuốn theo nhịp quyến rũ của nó. Những câu chuyện mà nó kể hoàn toàn không phải như Thánh Kinh của người Do-thái nữa, ta có thể gọi nó là... “Thánh Kinh của người Việt cổ” chăng? Nhưng ở điểm nào, nó lại khác với Thánh Kinh Do-thái? Người Do-thái xưa đã tin rằng từ thuở thái sơ, Thiên Chúa là đức Jehovah (Yahweh) đã khai sáng vũ trụ vạn vật trong 7 ngày. Mặc dù không nói rõ đức Jehovah là đàn ông hay đàn bà, nhưng rõ ràng các ám chỉ đều thể hiện Jehovah là nam tính. Nhưng ngược lại, thần thoại Việt cổ lại thể hiện Thượng Đế của mình bằng nữ tính.

- Vậy ra thời thượng cổ, người Việt tin vào thuyết Bà Trời ư? – Tôi ngạc nhiên khi mới nghe câu chuyện đó.

Đúng vậy. Khởi đầu, người Việt cũng tin rằng trước khi vũ trụ sinh thành, nó là một trạng thái mơ hồ được gọi bằng thuật ngữ TAAM-TIHT (đọc là Tăm Tít, nghĩa đen là sự Mù mịt), có tương đương với khái niệm CHAOS của thần thoại Hy-lạp, hay thuyết HỖN ĐỘN HỒNG HOANG của thần thoại Trung Hoa. Taam-Tiht cứ tiếp diễn như thế suốt một thời gian dài, nhưng từ trong hư vô tịch mịch đó, bắt đầu xuất hiện những tinh thể chuyển động, chúng dần dần kết tụ thành một gợn mây được gọi là MEY-KO-CHAAN (đọc là Mei Cô Chằn), nó có nghĩa là gợn mây có chứa chất chua mặn. Ban đầu tôi tưởng nó là muối, nhưng theo một anh nghiên cứu sinh người Hải Phòng cho biết nó có thể không phải muối, mà thiên về chất acid nhiều hơn. Nên nhớ, đây vẫn chỉ là thần thoại, quý bạn đọc đừng lầm tưởng nó đang mô tả về khoa học vũ trụ. Mei-ko-Chaan bay lơ lửng giữa chân không rồi nó đổ xuống một trận mưa to, những dòng nước đó cũng lơ lửng rồi phần lớn chúng kết đọng lại thành thể rắn, tức là những khối vật chất xù xì không rõ hình dạng. Những khối rắn này cũng bay lơ lửng khắp chân không rồi va đập vào nhau, những vụ va đập này đã xảy ra liên tục để rồi gây tiếng nổ vang dội, ngọn lửa tóe lên từ chúng. Điều kỳ lạ là ngọn lửa này không hề bị dập tắt, nó phình ra càng lớn hơn và hút tất cả nước, chất rắn vào nó, lực hút của nó tạo ra gió thổi vù vù trong chân không. Cảm tưởng như toàn bộ những gì có thể hút được đều có thể hút vào đó, cuối cùng nó gây một cơn chấn động lớn làm cho chân không có vẻ như cũng phải... rung chuyển. Tiếng động vang xa khắp không gian mù mịt, vũ trụ không còn trạng thái Taam-Tiht nữa, từ trong tiếng động đó đã sinh ra một cái cây.

Thật ngạc nhiên. Cây ư? Người Việt cổ nói rằng cái cây đó giống như cây gừa. Cây gừa tức là cây sanh hay cây si. Tuy nhiên, lúc vừa hình thành, cái cây này chỉ trơ trọi rễ và thân cành, ngoài ra không có hoa lá. Trải qua hàng vạn vạn năm, từ trên đỉnh của cây mới kết tụ một nhụy bông. Ngày thứ 1, nhụy bông nhú lên từ đỉnh cây. Ngày thứ 2, nhụy bông nhô hơn và có màu xanh non. Ngày thứ 3, nhụy bông ngả sang màu đỏ hồng. Ngày thứ 4, nhụy bông phát ra hào quang. Ngày thứ 5, nhụy bông nở bung ra thành hoa xum xuê và tỏa ra rất nhiều phấn, phấn hoa đều hóa thành những thiên thạch. Ngày thứ 6, nhụy bông tỏa phấn càng nhiều hơn. Ngày thứ 7, nhụy bông không tỏa phấn nữa mà từ từ khép lại. Ngày thứ 8, từ trong lòng nhụy bông càng trương lên trông như một quả cầu. Ngày thứ 9, từ trong quả cầu bông phát sáng và bung vỡ, một vị Nữ thần được sinh ra từ đó. Nữ thần này chính là Thượng Đế trong thần thoại Việt cổ, danh hiệu là ĐỒ THIÊN.

ĐỒ THIÊN là một cách độc âm từ THOOT THIEN hay DHUH THEN. “ĐỒ” (Thoot, Dhuh) là một trợ từ đặt ở vế đầu, nó không có nghĩa cụ thể, mà có thể hiểu là một kính ngữ, ý chỉ ĐỨC NGÀI (Lord), tuy nhiên theo tôi thấy, ngoại trừ Đồ Thiên và Đồ Tháp ra, không có bất kỳ vị thần nào khác được lót đầu bằng từ này, cho nên tôi suy đoán đây là kính ngữ chỉ dành riêng cho Thần Tối cao của thần thoại Việt cổ thôi. “THIÊN” (Thien, Then) không phải là Trời, trong tiếng Việt thời tối cổ thì nó mang nghĩa là SỰ KHỞI ĐẦU (Beginning). Cho nên, ĐỒ THIÊN có nghĩa là “Đức Chúa Ngài làm nên sự Mở đầu.”

THƯỢNG ĐẾ ĐỒ THIÊN là vị thần xuất hiện đầu tiên trong tất cả các vị thần, là Mẹ của chư thần, là đấng sau này kết hợp cùng ĐỒ THÁP sáng tạo vạn vật vũ trụ, và cũng là đấng kết tinh từ những gì tinh anh nhất của Cây Vũ Trụ.

Trước khi kể thêm về Đồ Thiên, chúng ta nói về Cây Vũ Trụ trước. Cây vũ trụ được sinh thành từ Taam-Tiht, và nó kết tinh thành Đồ Thiên Lão Mẫu, trong tiếng Việt cổ gọi Cây Vũ Trụ là Cây KRUNG. “Krung” là một thuật ngữ rất quan trọng trong thần thoại Việt cổ, nó có rất nhiều ý nghĩa được chiết tự như sau:

(1) “Krung” = Kho + troong = Trung tâm, giải theo nghĩa này, cây Krung được xem là nằm chính giữa của vũ trụ, là trung tâm của vũ trụ, vì từ nó mà sự sáng thế ra đời, cho nên có thể gọi nó theo cách hoa mỹ là “Trung Ương Thụ Vương” (the Chief/Grand Tree of Central; 中央樹王);

(2) “Krung” = Ku + Sung = Sự sống, giải theo nghĩa này, cây Krung được gọi là “Cây Sự Sống” (Tree of Life; 生命之樹/Sinh mệnh chi thụ), nó là nguồn gốc để sự sống bắt đầu có mặt;

(3) “Krung” = Kro + Long = Nguyên liệu, giải theo nghĩa này, cây Krung được gọi là “Tổ tiên của Mọi thứ” (the Ancestor of All Things; 萬物之祖/Vạn vật chi tổ), bởi vì Đồ Thiên–Đồ Tháp cùng với chư thần tạo ra mọi thứ trong thế giới vũ trụ đều lấy nguyên liệu từ Cây Krung, kể cả các vì tinh tú, mặt trăng, mặt trời, trái đất, các thiên thể...;

Và cũng ít ai biết rằng, “Krung” cũng là điển tích để sau này một nhân vật xuất hiện vào thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên đã dùng nó để tự xưng cho mình, tức là Hùng Vương. Đúng vậy, chữ “Hùng” (雄) trong danh hiệu Hùng Vương mà ta biết, là cách đọc trại và lệch âm theo tiếng Hán của “Krung”. Trước đây, trong cuốn “Đi tìm Bản sắc Văn hóa Việt Nam” của giáo sư Trần Ngọc Thêm từng đưa ra giả thiết rằng “Hùng” trong Hùng Vương là bắt nguồn từ chữ “Cun” (Khun, Khoon) – một danh từ được sử dụng phổ biến ở các dân tộc Đông Nam Á, có nghĩa là “thủ lĩnh.” Tuy nhiên, giả thiết của giáo sư Trần Ngọc Thêm là không chính xác. Tôi có thể thông cảm với giáo sư, vì ông không biết đến câu chuyện huyền thoại này, Hùng Vương vốn là xuất phát từ chữ “Krung,” mà “Krung” là lấy cảm hứng từ huyền thoại Cây Vũ Trụ của người Việt cổ. Chữ “Cun” (Khun) không thể nào là phiên âm của Hùng Vương được, vì “Cun” là một từ đã xuất hiện từ rất lâu trước khi chế độ Hùng Vương ra đời, chữ “Cun” được lan truyền rất phổ biến không chỉ trong khu vực Đông Nam Á mà còn ở khu vực phía Nam sông Trường Giang của Trung Quốc nữa, những cư dân của cộng đồng Bách Việt thời xưa từng sử dụng từ “Cun” để gọi tất cả các tù trưởng thủ lĩnh bộ lạc, kể cả Thần Nông, Kinh Dương Vương hay Cun Thuồng Luồng (Lạc Long Quân). Người Hoa Hạ thời cổ đại cũng tiếp thu lại từ “Cun” của người Bách Việt và phiên âm đọc nó là “Jun” (君; Quân). “Quân” tức là quân chủ, thủ lĩnh, là vua, đây rõ ràng là người Tàu đã vay mượn ngôn ngữ của người Bách Việt.

Chính vì Hùng Vương nghĩa là “Krung” được lấy nguồn từ Cây Vũ Trụ (Cây Sự Sống) nên nó cũng mang đầy đủ 3 hàm nghĩa của “Krung” đã nêu trên:

(1) Krung (Hùng Vương) nghĩa là Trung tâm, tức là vị Vua ở Trung tâm (the Central King) hay Trung ương chi chủ/vương, hay có thể diễn giải là “Khun kỏn Khrun” (Cun của các Cun, Thủ lĩnh của các Thủ lĩnh);

(2) Krung (Hùng Vương) nghĩa là Hơi thở [mang lại Sự sống], người xưa tin rằng các đấng Krung (vua Hùng) là đại diện của Thần ở nhân gian, là biểu tượng sống của Cây Vũ Trụ, cho nên Hùng Vương nghiễm nhiên có quyền năng ban phép chữa lành hoặc cứu sống cây cỏ và muôn loài, hàng năm vua Hùng sẽ đi khắp các bộ lạc các bản mường để làm lễ gặt lúa, thổi hà hơi vào những cây lúa và cây ăn trái, người ta tin rằng làm như vậy mùa màng năm đó sẽ bội thu, người dân Lạc Việt còn tin rằng động vật hay những đứa bé con người nếu được Hùng Vương xoa đầu và thổi vào miệng của chúng thì chúng nó sẽ sinh trưởng tốt lành mà không bị mắc bệnh hay chết yểu;

(3) Krung (Hùng Vương) còn có nghĩa là Nguyên tổ, hay Tổ phụ của Muôn dân, tất cả các bộ lạc của người Lạc Việt (thường là 15 bộ lạc) dù ở đâu cũng là con cháu của Hùng Vương, là thần dân của Hùng Vương, phải có nghĩa vụ và trách nhiệm tôn kính Hùng Vương, vì Hùng Vương là hiện thân của Thần, tức là Nguyên tổ của muôn dân, hay “Vạn chúng chi tổ”.

Tạm gác lại chi tiết này, ta sẽ nói đến trong phần sau. Lại nói, kể từ khi Đồ Thiên xuất hiện, lúc đó thế giới hư không chỉ có một mình Bà mà thôi, Bà hay đậu trên đỉnh của Cây Vũ Trụ, lúc cần bay đi đâu đó Bà sẽ dang hai tay ra, chúng sẽ biến thành đôi cánh và đưa bà dạo chơi khắp chân không vũ trụ tối đen. Giữa không gian mù mịt đó, chỉ có Đồ Thiên là phát ra hào quang soi sáng cả một vùng. Xung quanh Cây Vũ Trụ cũng tỏa ra ánh sáng rất hòa dịu. Những lần Bà bay lượn khắp nơi như vậy và trở về đỉnh Cây, Đồ Thiên cảm thấy đói. Tức thì Cây Vũ Trụ mọc ra rất nhiều lá cây. Đồ Thiên cảm thấy rất vui, Bà hái lá ăn cho đỡ đói. Mỗi lần ăn nhiều lá cây, Bà sẽ cảm thấy đau bụng và bài tiết ra chất thải. Chất thải của Đồ Thiên sẽ phóng thẳng xuống dưới vực sâu của vũ trụ nơi bộ rễ của Cây Vũ Trụ mọc tua tủa ở dưới.

Theo thần thoại, trải qua thời gian gọi là một nghìn “cạp ki” (một từ Việt cổ, ngày nay thất truyền nên chúng tôi chưa biết “cạp ki” là đại lượng thời gian khoảng bao lâu), Đồ Thiên toàn ăn lá cây, cho đến một ngày rốn của Bà trương lên, từ lỗ rốn mọc ra một chùm rễ. Ngày thứ 1, chùm rễ nhú lên khỏi rốn. Ngày thứ 2, chùm rễ phát triển lớn hơn. Ngày thứ 3, chùm rễ kết lại thành một thân. Ngày thứ 4, thân đó chuyển sang màu xanh lá. Ngày thứ 5, thân cây mọc ra lá dâu tằm. Ngày thứ 6, thân cây kết hoa dâu tằm. Ngày thứ 7, từ hoa trên thân nhô ra một con sâu tằm. Ngày thứ 8, con sâu tằm ăn hết hoa và lá dâu. Ngày thứ 9, con sâu tằm kết kén. Sau đó, lại trải qua 21 ngày, con sâu tằm kết kén thật bự, cuối cùng, từ trong kén tằm xé ra một vị Nam thần, tức là ông ĐỒ THÁP. Tháp/Thạp (Thap) trong tiếng Việt cổ có nghĩa là “Thần” (God), cho nên ĐỒ THÁP nghĩa “Đức Vua/Chúa của các thần.” Tuy nhiên, theo chuyện kể của linh hồn là “Thánh nữ Cá Thay” thì lại nói khác, bà kể rằng từ rốn của Đồ Thiên mọc ra một nhành hoa sen, hoa sen đó lớn nhanh trong 9 ngày và sinh ra ĐỒ THÁP.

Thật kỳ lạ, một huyền thoại có tới hai phiên bản. Lúc đầu tôi băn khoăn không biết phiên bản nào mới là đúng. Tôi hỏi ý của những học giả nghiên cứu có đi chung lên bản núi, theo ý kiến của anh thạc sĩ người Hà Nội, có khả năng phiên bản sinh con tằm có kén là phiên bản đúng nhất và có trước nhất, còn phiên bản nở bông sen là có sau. Tôi hỏi anh ta tại sao có lập luận như vậy, anh ta trả lời rằng:

- Dễ hiểu thôi, người Việt cổ là những người đầu tiên tìm ra con tằm và sáng tạo nghề dệt may, người Tàu học lại cách nuôi tằm may vá của người Bách Việt, cho nên thần thoại Việt cổ nhắc đến con tằm nhả kén không có gì là lạ. Còn phiên bản hiện ra bông sen thì tôi nghĩ đó là yếu tố ngoại lai, vì phiên bản này rất giống với chuyện thần Visnu nở ra bông sen ở bụng sinh ra thần Brama trong thần thoại Ấn-độ. Tôi đoán chắc phiên bản bông sen là người Việt tiếp thu thần thoại của Ấn-độ khi đã có quan hệ giao thông với các xứ sở văn hóa Ấn-độ, nếu tôi đoán không lầm, phiên bản này không thể xuất hiện sớm hơn thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên được. Do đó, phiên bản con tằm có thể là xuất hiện từ cách đây hơn 3-4000 năm trước, còn phiên bản bông sen có thể chỉ mới xuất hiện cách đây 2500 năm thôi, cho nên nó phải muộn màng hơn.



[Vô đường dẫn độc tiếp chứ Xàm cho 15,000 từ thôi]

 
Hãy từ bỏ tôn giáo ngoại lai

BÍ MẬT TỪ LÒNG ĐẤT (tập 10): HUYỀN THOẠI SÁNG THẾ - THƯỢNG ĐẾ CỦA NGƯỜI VIỆT CỔ
****************************

Có một người tín hữu Ki-tô đã xem câu chuyện và hỏi rằng: “Có ngớ ngẩn không nếu được hỏi, trong thần thoại Việt cổ và các linh hồn cổ đại kia liệu có nhắc đến vai trò của Chúa Cha và đức Jesus Ki-tô?”

Đối với tôi, đó không phải là một câu hỏi ngớ ngẩn, mà thực sự là nỗi trăn trở của những người con tin vào đức Chúa. Trước khi ta nói đến đức Chúa được lý giải là Ba Ngôi Một Thể, từ nguyên ủy Thiên Chúa được xem là Chân Thần (God), tức là Chân lý Tuyệt đối và Duy nhất. Tư tưởng Nhất thần Độc chân của người Do-thái là một đặc trưng mà hiếm có dân tộc nào trên thế giới sánh bằng, song đó là nỗ lực của họ để đi tìm một chân lý tuyệt đối trọn vẹn. Niềm trăn trở khao khát đi tìm Chân lý và hiệp thông với Chân lý là nguyện vọng và băn khoăn đáng có ở con người, vì điều đó khiến họ không lạc vào sự hư không vô định nữa, từ đây họ đã có một định hướng để tiến đến mục tiêu: Trở về với Chân lý và Hòa mình vào Bản thể Vũ trụ. Tuy nhiên, cái Tuyệt đối vốn được xem là vượt ngoài tầm với và hiểu biết của con người, do đó, Thiên Chúa, hoặc Thần, hoặc Chân lý Cứu cánh, vẫn muôn đời là bài toán hóc búa của nhân loại. Các dân tộc đã đi tìm lời giải cho Thiên Chúa thông qua những sưu tập thần thoại của mình: thần thoại Hy-lạp, thần thoại Bắc Âu, thần thoại Ceotic, thần thoại Ai-cập, thần thoại Ấn-độ, thần thoại Trung Hoa v.v... Mặc dù ngày nay, giở ra hàng nghìn trang giấy của Thần thoại Hy-lạp sẽ chẳng ai tìm thấy một dòng một đoạn một câu nào nhắc tới đức Chúa Cha hay đức Jesus Ki-tô, vì đó chỉ là một thể hiện rất riêng của Ki-tô giáo sau này, đó là về mặt hiện tượng. Còn khi suy nghiệm về bản chất, ta thể thấy sự Tuyệt đối vượt ra ngoài các danh hiệu và hình tướng, cho dù nó mang danh là Chúa Cha hay Chúa Con. Còn những câu chuyện huyền thoại hay tôn giáo, nó chỉ là sự Tương đối, hạn chế trong nhận thức của con người cổ đại, do đó cái Tương đối không thể diễn đạt tận thiện cái Tuyệt đối, song le, người trí thức và khôn ngoan sẽ biết đọc hết tất cả những sự khác biệt của Tương đối ấy để suy niệm về Tuyệt đối. Đó là khao khát của người trần tục khi hướng về cái Thiêng, là ước mơ từ bỏ cái Vọng để đi tìm cái Chân, từ bỏ cái Ác để đi tìm cái Thiện, từ bỏ cái Xấu để đi tìm cái Đẹp. Mỗi mỗi dân tộc đều như vậy, cho nên Thần thoại về các vị Thần chính là sự thể hiện điều đó, khao khát của nhân loại được ánh hiện một cách rất riêng với từng loại văn hóa của từng dân tộc, ta có thể nói cùng một nỗi trăn trở về Chân lý mà đã diễn xuất rất nhiều các thần thoại khác nhau trên thế giới.

Ngày hôm nay, chúng ta quay trở về với một nguồn cội dĩ vãng đã bị quên bỏ suốt hàng nghìn năm – Thần thoại Việt cổ. Khi khai quật nó lên, chúng tôi hoàn toàn bất ngờ và bị cuốn theo nhịp quyến rũ của nó. Những câu chuyện mà nó kể hoàn toàn không phải như Thánh Kinh của người Do-thái nữa, ta có thể gọi nó là... “Thánh Kinh của người Việt cổ” chăng? Nhưng ở điểm nào, nó lại khác với Thánh Kinh Do-thái? Người Do-thái xưa đã tin rằng từ thuở thái sơ, Thiên Chúa là đức Jehovah (Yahweh) đã khai sáng vũ trụ vạn vật trong 7 ngày. Mặc dù không nói rõ đức Jehovah là đàn ông hay đàn bà, nhưng rõ ràng các ám chỉ đều thể hiện Jehovah là nam tính. Nhưng ngược lại, thần thoại Việt cổ lại thể hiện Thượng Đế của mình bằng nữ tính.

- Vậy ra thời thượng cổ, người Việt tin vào thuyết Bà Trời ư? – Tôi ngạc nhiên khi mới nghe câu chuyện đó.

Đúng vậy. Khởi đầu, người Việt cũng tin rằng trước khi vũ trụ sinh thành, nó là một trạng thái mơ hồ được gọi bằng thuật ngữ TAAM-TIHT (đọc là Tăm Tít, nghĩa đen là sự Mù mịt), có tương đương với khái niệm CHAOS của thần thoại Hy-lạp, hay thuyết HỖN ĐỘN HỒNG HOANG của thần thoại Trung Hoa. Taam-Tiht cứ tiếp diễn như thế suốt một thời gian dài, nhưng từ trong hư vô tịch mịch đó, bắt đầu xuất hiện những tinh thể chuyển động, chúng dần dần kết tụ thành một gợn mây được gọi là MEY-KO-CHAAN (đọc là Mei Cô Chằn), nó có nghĩa là gợn mây có chứa chất chua mặn. Ban đầu tôi tưởng nó là muối, nhưng theo một anh nghiên cứu sinh người Hải Phòng cho biết nó có thể không phải muối, mà thiên về chất acid nhiều hơn. Nên nhớ, đây vẫn chỉ là thần thoại, quý bạn đọc đừng lầm tưởng nó đang mô tả về khoa học vũ trụ. Mei-ko-Chaan bay lơ lửng giữa chân không rồi nó đổ xuống một trận mưa to, những dòng nước đó cũng lơ lửng rồi phần lớn chúng kết đọng lại thành thể rắn, tức là những khối vật chất xù xì không rõ hình dạng. Những khối rắn này cũng bay lơ lửng khắp chân không rồi va đập vào nhau, những vụ va đập này đã xảy ra liên tục để rồi gây tiếng nổ vang dội, ngọn lửa tóe lên từ chúng. Điều kỳ lạ là ngọn lửa này không hề bị dập tắt, nó phình ra càng lớn hơn và hút tất cả nước, chất rắn vào nó, lực hút của nó tạo ra gió thổi vù vù trong chân không. Cảm tưởng như toàn bộ những gì có thể hút được đều có thể hút vào đó, cuối cùng nó gây một cơn chấn động lớn làm cho chân không có vẻ như cũng phải... rung chuyển. Tiếng động vang xa khắp không gian mù mịt, vũ trụ không còn trạng thái Taam-Tiht nữa, từ trong tiếng động đó đã sinh ra một cái cây.

Thật ngạc nhiên. Cây ư? Người Việt cổ nói rằng cái cây đó giống như cây gừa. Cây gừa tức là cây sanh hay cây si. Tuy nhiên, lúc vừa hình thành, cái cây này chỉ trơ trọi rễ và thân cành, ngoài ra không có hoa lá. Trải qua hàng vạn vạn năm, từ trên đỉnh của cây mới kết tụ một nhụy bông. Ngày thứ 1, nhụy bông nhú lên từ đỉnh cây. Ngày thứ 2, nhụy bông nhô hơn và có màu xanh non. Ngày thứ 3, nhụy bông ngả sang màu đỏ hồng. Ngày thứ 4, nhụy bông phát ra hào quang. Ngày thứ 5, nhụy bông nở bung ra thành hoa xum xuê và tỏa ra rất nhiều phấn, phấn hoa đều hóa thành những thiên thạch. Ngày thứ 6, nhụy bông tỏa phấn càng nhiều hơn. Ngày thứ 7, nhụy bông không tỏa phấn nữa mà từ từ khép lại. Ngày thứ 8, từ trong lòng nhụy bông càng trương lên trông như một quả cầu. Ngày thứ 9, từ trong quả cầu bông phát sáng và bung vỡ, một vị Nữ thần được sinh ra từ đó. Nữ thần này chính là Thượng Đế trong thần thoại Việt cổ, danh hiệu là ĐỒ THIÊN.

ĐỒ THIÊN là một cách độc âm từ THOOT THIEN hay DHUH THEN. “ĐỒ” (Thoot, Dhuh) là một trợ từ đặt ở vế đầu, nó không có nghĩa cụ thể, mà có thể hiểu là một kính ngữ, ý chỉ ĐỨC NGÀI (Lord), tuy nhiên theo tôi thấy, ngoại trừ Đồ Thiên và Đồ Tháp ra, không có bất kỳ vị thần nào khác được lót đầu bằng từ này, cho nên tôi suy đoán đây là kính ngữ chỉ dành riêng cho Thần Tối cao của thần thoại Việt cổ thôi. “THIÊN” (Thien, Then) không phải là Trời, trong tiếng Việt thời tối cổ thì nó mang nghĩa là SỰ KHỞI ĐẦU (Beginning). Cho nên, ĐỒ THIÊN có nghĩa là “Đức Chúa Ngài làm nên sự Mở đầu.”

THƯỢNG ĐẾ ĐỒ THIÊN là vị thần xuất hiện đầu tiên trong tất cả các vị thần, là Mẹ của chư thần, là đấng sau này kết hợp cùng ĐỒ THÁP sáng tạo vạn vật vũ trụ, và cũng là đấng kết tinh từ những gì tinh anh nhất của Cây Vũ Trụ.

Trước khi kể thêm về Đồ Thiên, chúng ta nói về Cây Vũ Trụ trước. Cây vũ trụ được sinh thành từ Taam-Tiht, và nó kết tinh thành Đồ Thiên Lão Mẫu, trong tiếng Việt cổ gọi Cây Vũ Trụ là Cây KRUNG. “Krung” là một thuật ngữ rất quan trọng trong thần thoại Việt cổ, nó có rất nhiều ý nghĩa được chiết tự như sau:

(1) “Krung” = Kho + troong = Trung tâm, giải theo nghĩa này, cây Krung được xem là nằm chính giữa của vũ trụ, là trung tâm của vũ trụ, vì từ nó mà sự sáng thế ra đời, cho nên có thể gọi nó theo cách hoa mỹ là “Trung Ương Thụ Vương” (the Chief/Grand Tree of Central; 中央樹王);

(2) “Krung” = Ku + Sung = Sự sống, giải theo nghĩa này, cây Krung được gọi là “Cây Sự Sống” (Tree of Life; 生命之樹/Sinh mệnh chi thụ), nó là nguồn gốc để sự sống bắt đầu có mặt;

(3) “Krung” = Kro + Long = Nguyên liệu, giải theo nghĩa này, cây Krung được gọi là “Tổ tiên của Mọi thứ” (the Ancestor of All Things; 萬物之祖/Vạn vật chi tổ), bởi vì Đồ Thiên–Đồ Tháp cùng với chư thần tạo ra mọi thứ trong thế giới vũ trụ đều lấy nguyên liệu từ Cây Krung, kể cả các vì tinh tú, mặt trăng, mặt trời, trái đất, các thiên thể...;

Và cũng ít ai biết rằng, “Krung” cũng là điển tích để sau này một nhân vật xuất hiện vào thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên đã dùng nó để tự xưng cho mình, tức là Hùng Vương. Đúng vậy, chữ “Hùng” (雄) trong danh hiệu Hùng Vương mà ta biết, là cách đọc trại và lệch âm theo tiếng Hán của “Krung”. Trước đây, trong cuốn “Đi tìm Bản sắc Văn hóa Việt Nam” của giáo sư Trần Ngọc Thêm từng đưa ra giả thiết rằng “Hùng” trong Hùng Vương là bắt nguồn từ chữ “Cun” (Khun, Khoon) – một danh từ được sử dụng phổ biến ở các dân tộc Đông Nam Á, có nghĩa là “thủ lĩnh.” Tuy nhiên, giả thiết của giáo sư Trần Ngọc Thêm là không chính xác. Tôi có thể thông cảm với giáo sư, vì ông không biết đến câu chuyện huyền thoại này, Hùng Vương vốn là xuất phát từ chữ “Krung,” mà “Krung” là lấy cảm hứng từ huyền thoại Cây Vũ Trụ của người Việt cổ. Chữ “Cun” (Khun) không thể nào là phiên âm của Hùng Vương được, vì “Cun” là một từ đã xuất hiện từ rất lâu trước khi chế độ Hùng Vương ra đời, chữ “Cun” được lan truyền rất phổ biến không chỉ trong khu vực Đông Nam Á mà còn ở khu vực phía Nam sông Trường Giang của Trung Quốc nữa, những cư dân của cộng đồng Bách Việt thời xưa từng sử dụng từ “Cun” để gọi tất cả các tù trưởng thủ lĩnh bộ lạc, kể cả Thần Nông, Kinh Dương Vương hay Cun Thuồng Luồng (Lạc Long Quân). Người Hoa Hạ thời cổ đại cũng tiếp thu lại từ “Cun” của người Bách Việt và phiên âm đọc nó là “Jun” (君; Quân). “Quân” tức là quân chủ, thủ lĩnh, là vua, đây rõ ràng là người Tàu đã vay mượn ngôn ngữ của người Bách Việt.

Chính vì Hùng Vương nghĩa là “Krung” được lấy nguồn từ Cây Vũ Trụ (Cây Sự Sống) nên nó cũng mang đầy đủ 3 hàm nghĩa của “Krung” đã nêu trên:

(1) Krung (Hùng Vương) nghĩa là Trung tâm, tức là vị Vua ở Trung tâm (the Central King) hay Trung ương chi chủ/vương, hay có thể diễn giải là “Khun kỏn Khrun” (Cun của các Cun, Thủ lĩnh của các Thủ lĩnh);

(2) Krung (Hùng Vương) nghĩa là Hơi thở [mang lại Sự sống], người xưa tin rằng các đấng Krung (vua Hùng) là đại diện của Thần ở nhân gian, là biểu tượng sống của Cây Vũ Trụ, cho nên Hùng Vương nghiễm nhiên có quyền năng ban phép chữa lành hoặc cứu sống cây cỏ và muôn loài, hàng năm vua Hùng sẽ đi khắp các bộ lạc các bản mường để làm lễ gặt lúa, thổi hà hơi vào những cây lúa và cây ăn trái, người ta tin rằng làm như vậy mùa màng năm đó sẽ bội thu, người dân Lạc Việt còn tin rằng động vật hay những đứa bé con người nếu được Hùng Vương xoa đầu và thổi vào miệng của chúng thì chúng nó sẽ sinh trưởng tốt lành mà không bị mắc bệnh hay chết yểu;

(3) Krung (Hùng Vương) còn có nghĩa là Nguyên tổ, hay Tổ phụ của Muôn dân, tất cả các bộ lạc của người Lạc Việt (thường là 15 bộ lạc) dù ở đâu cũng là con cháu của Hùng Vương, là thần dân của Hùng Vương, phải có nghĩa vụ và trách nhiệm tôn kính Hùng Vương, vì Hùng Vương là hiện thân của Thần, tức là Nguyên tổ của muôn dân, hay “Vạn chúng chi tổ”.

Tạm gác lại chi tiết này, ta sẽ nói đến trong phần sau. Lại nói, kể từ khi Đồ Thiên xuất hiện, lúc đó thế giới hư không chỉ có một mình Bà mà thôi, Bà hay đậu trên đỉnh của Cây Vũ Trụ, lúc cần bay đi đâu đó Bà sẽ dang hai tay ra, chúng sẽ biến thành đôi cánh và đưa bà dạo chơi khắp chân không vũ trụ tối đen. Giữa không gian mù mịt đó, chỉ có Đồ Thiên là phát ra hào quang soi sáng cả một vùng. Xung quanh Cây Vũ Trụ cũng tỏa ra ánh sáng rất hòa dịu. Những lần Bà bay lượn khắp nơi như vậy và trở về đỉnh Cây, Đồ Thiên cảm thấy đói. Tức thì Cây Vũ Trụ mọc ra rất nhiều lá cây. Đồ Thiên cảm thấy rất vui, Bà hái lá ăn cho đỡ đói. Mỗi lần ăn nhiều lá cây, Bà sẽ cảm thấy đau bụng và bài tiết ra chất thải. Chất thải của Đồ Thiên sẽ phóng thẳng xuống dưới vực sâu của vũ trụ nơi bộ rễ của Cây Vũ Trụ mọc tua tủa ở dưới.

Theo thần thoại, trải qua thời gian gọi là một nghìn “cạp ki” (một từ Việt cổ, ngày nay thất truyền nên chúng tôi chưa biết “cạp ki” là đại lượng thời gian khoảng bao lâu), Đồ Thiên toàn ăn lá cây, cho đến một ngày rốn của Bà trương lên, từ lỗ rốn mọc ra một chùm rễ. Ngày thứ 1, chùm rễ nhú lên khỏi rốn. Ngày thứ 2, chùm rễ phát triển lớn hơn. Ngày thứ 3, chùm rễ kết lại thành một thân. Ngày thứ 4, thân đó chuyển sang màu xanh lá. Ngày thứ 5, thân cây mọc ra lá dâu tằm. Ngày thứ 6, thân cây kết hoa dâu tằm. Ngày thứ 7, từ hoa trên thân nhô ra một con sâu tằm. Ngày thứ 8, con sâu tằm ăn hết hoa và lá dâu. Ngày thứ 9, con sâu tằm kết kén. Sau đó, lại trải qua 21 ngày, con sâu tằm kết kén thật bự, cuối cùng, từ trong kén tằm xé ra một vị Nam thần, tức là ông ĐỒ THÁP. Tháp/Thạp (Thap) trong tiếng Việt cổ có nghĩa là “Thần” (God), cho nên ĐỒ THÁP nghĩa “Đức Vua/Chúa của các thần.” Tuy nhiên, theo chuyện kể của linh hồn là “Thánh nữ Cá Thay” thì lại nói khác, bà kể rằng từ rốn của Đồ Thiên mọc ra một nhành hoa sen, hoa sen đó lớn nhanh trong 9 ngày và sinh ra ĐỒ THÁP.

Thật kỳ lạ, một huyền thoại có tới hai phiên bản. Lúc đầu tôi băn khoăn không biết phiên bản nào mới là đúng. Tôi hỏi ý của những học giả nghiên cứu có đi chung lên bản núi, theo ý kiến của anh thạc sĩ người Hà Nội, có khả năng phiên bản sinh con tằm có kén là phiên bản đúng nhất và có trước nhất, còn phiên bản nở bông sen là có sau. Tôi hỏi anh ta tại sao có lập luận như vậy, anh ta trả lời rằng:

- Dễ hiểu thôi, người Việt cổ là những người đầu tiên tìm ra con tằm và sáng tạo nghề dệt may, người Tàu học lại cách nuôi tằm may vá của người Bách Việt, cho nên thần thoại Việt cổ nhắc đến con tằm nhả kén không có gì là lạ. Còn phiên bản hiện ra bông sen thì tôi nghĩ đó là yếu tố ngoại lai, vì phiên bản này rất giống với chuyện thần Visnu nở ra bông sen ở bụng sinh ra thần Brama trong thần thoại Ấn-độ. Tôi đoán chắc phiên bản bông sen là người Việt tiếp thu thần thoại của Ấn-độ khi đã có quan hệ giao thông với các xứ sở văn hóa Ấn-độ, nếu tôi đoán không lầm, phiên bản này không thể xuất hiện sớm hơn thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên được. Do đó, phiên bản con tằm có thể là xuất hiện từ cách đây hơn 3-4000 năm trước, còn phiên bản bông sen có thể chỉ mới xuất hiện cách đây 2500 năm thôi, cho nên nó phải muộn màng hơn.



[Vô đường dẫn độc tiếp chứ Xàm cho 15,000 từ thôi]

Không thấy có xamer nào giải được hết ý nghĩa bài thơ sấm truyền năm 2020 nhỉ
 
Mai mốt tới kỷ nguyên xoá bỏ tôn giáo, loài người đứng lên để chống người ngoài hành tinh thì đến lúc đó khắc sẽ có 1 người tối cao để cả nhân loại thờ phượng như Hoàng đế trong Warhammer 40k thôi
 
Lạc quan quá, 1000 năm, sau khi nhập thất 100 năm là coi như m không tồn tại rồi.
Mấy ông được lưu danh trong sử sách thì còn tồn tại được cái tên + mộ.
Mọi thứ trên đời phù phiếm vcl
 
8AjBn.jpeg
 
Top