Bambinno
Địt xong chạy
[LỀU BÚP BÊ]
Chap 1
Nói đến Trung Quốc người ta nghĩ đến bùa chú. Nói đến Thái Lan, người ta nghĩ đến ngải phép. Việt Nam từ xưa nay vẫn là nước có địa thế thuận lợi cho việc giao thương cũng như giao lưu văn hóa từ nhiều quốc gia. Xưa, nhắc đến nước Việt, các thầy pháp phương Bắc luôn có thái độ vừa kính dè vừa luôn tìm mọi cách để kìm hãm. Nước Nam có khí thiêng hội tụ. Trong những thầy phù thủy tu luyện tà thuật phương Bắc luôn đồn đại một câu chuyện quái gở. Lấy nguồn khí âm nhất nơi đất thiêng mà luyện bùa. Những thầy pháp Thái luyện ngải đen cũng đồn nhau lời đồn tương tự. Vì thế, một giai đoạn, người ta thấy miền tây nhộn nhịp người Trung người Thái qua lại.
Trung Quốc rất chuộng xem Kinh Kịch. Kinh Kịch lại có nhiều loại hình biến điệu đi, nhưng, nhìn chung, người phương Bắc xưa thích nhất loại hình Kinh Kịch kết hợp hát múa dân gian. Những người hát loại hình nghệ thuật này hay dùng cách trang điểm đậm mặt mày phỏng theo tính cách nhân vật mà họ diễn. Chẳng ai biết khuôn mặt thật của họ. Chẳng biết họ đang khóc hay đang cười, đang vui hay đang buồn, chỉ biết rằng trên sân khấu, họ sống như những nhân vật, khóc khóc cười cười. Sau này, những người giỏi nhất, hát hay nhất nghĩ ra một cách để họ có thể cùng một vở diễn nhiều nhân vật. Người ta làm những chiếc mặt nạ nhân vật thật mỏng, thật mịn. Cũng từ đấy, cơn ác mọng của những người hát kinh kịch bắt đầu. Một loạt vụ thiếu nữ mất tích. Những người mất tích đều là những thiếu nữa xinh đẹp. Họ luôn mất tích theo cách thức giống nhau. Ba ngày sau khi mất tích, họ sẽ trở về, đợi trước cửa nhà, đợi người thân ra đón. Nhưng, đó không còn là những cô gái xinh đẹp nữa mà chỉ còn những cái xác với phần da mặt đã bị lột ra, trơ lại phần thịt đỏ máu lúc nhúc côn trùng. Quan phủ tra mãi không ra thủ phạm. Bỗng một ngày, một vài người bỗng nhận thấy mặt nạ của mấy người hát Kinh Kịch ngày càng đẹp đẽ một cách lạ lùng. Và, người ta kháo nhau chính những người hát ấy giết người. Họ lấy da mặt những cô gái để làm chiếc mặt nạ đẹp nhất cho nhân vật của mình. Nhiều người còn đồn nhau rằng muốn hát hay thì những người hát đó phải uống máu tươi của đủ bảy cô gái. Một đồn mười, mười đồn trăm. Quan phủ thì mãi không tìm ra kẻ giết người, âu cũng thuận nước đẩy thuyền. Nhà nước muốn trấn an dân vội tóm lấy câu chuyện bằng chứng mơ hồ ấy mà truy quét, bắt bớ giết chóc những người hát Kinh Kịch. Con đường sống duy nhất bất giờ là chạy xuống phía Nam. Mang hết của cải tích được chạy xuống vùng ấy chắc cũng đủ sống dư dả. Những người trốn chạy thành công sợ sự truy sát của lính chỉ có thể sống ẩn dật, đợi thời gian trôi qua, mọi thứ lắng xuống thì may ra có thể lại hát.
Cô Thứ là con gái một người làm nghề chài lưới. Cha cô, ông Ba, sau cả nửa đời làm lụm tích cóp cuối cùng cũng cất được một căn nhà nhỏ ven sông, đưa cả nhà lên bờ mà sống. Chuyện về cô Thứ lan khắp cả vùng sông nước miền Tây này. Thành thực mà nói thì cô Thứ có gương mặt rất dễ mến, tính tình lại dễ thương, thiện lương vô cùng nên ai cũng quý mến cô. Nhưng chuyện tình duyên của cô thì trắc trở bi thảm đến tận cùng. Cô xinh đẹp là thế, bao nhiêu người theo là thế, thế mà chẳng mối nào thành. Cô lại thành quá lứa lỡ thì. Năm cô 23 tuổi đành gật đầu làm vợ kế người ta. Tuy có chút thiệt thòi nhưng vẫn còn may mắn. Cha mẹ cô theo lời bà mối đồng ý gả cô cho một anh học hành đàng hoàng trong làng, cũng được gọi oai hai chữ nhân sĩ. Nhưng, trước đám cưới 3 ngày, anh này biến mất trong đêm. Cả làng đổ xô đi tìm nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng dáng người đâu. Đến cái ngày vốn dĩ là ngày cưới, sáng sớm tờ mờ, người ta kinh hồn phát hiện ra xác cậu nằm ngay trong sân nhà. Cảnh tượng đúng là làm người ta kinh hồn bạt vía. Ba ngày trước là người thanh niên đạo mạo khôi ngô giờ nằm đấy chỉ còn cái xác đang thối rữa. Hai con mắt đã bị khoét mất chỉ còn lại hốc mắt sâu hoáy máu đã đen lại. Một đường rạch dài trên bụng mở toang khoang bụng, có thể nhìn thấy cả những thứ bùng nhùng bên trong. Ruồi bọ lúc nhúc. Mùi hôi thối tanh nồng trong không khí.
Người ta thất kinh. Có người còn cho rằng anh này gây thù chuốc oán với ai nên mới bị giết một cách tàn độc đến thế. Ai cũng bi thương cho cô Thứ. Tưởng đâu cô được yên ấm, ai dè... Thời gian bạc bẽo. Năm cô Thứ 26 tuổi mới gặp được lời đưa làm vợ người ta. Cũng là lấy người quá lứa mà nương nhờ vào nhau. Ở cái thời ấy, 26 tuổi chưa chồng là điều kinh khủng không tài nào tả nổi. Nhục nhã vô cùng. Nhưng, ngày cưới lại là một bi kịch thứ hai. Đến giờ rước dâu, người ta chẳng tìm thấy chú rể đâu. Cảnh tượng năm xưa lại lặp lại y hết. Mọi người nháo nhác đi tìm, ai cũng linh cảm chẳng lành. Lại 3 ngày sau, như lần trước, người ta thấy xác anh chồng dập dềnh nơi mép sông ngay gần nhà. Cái xác trương nhớt bủng beo. Người ta hùa nhau đưa xác lên bờ. Người mẹ nghe tin chạy đến trông thấy xác con lao vào mà lay, mà gọi trong vô vọng. Bà mẹ lạy hai hồi thì đột nhiên người ta nghe tiếng BỤP. Cái bụng trương dềnh vỡ toác ra. Thứ nước đen sì tanh tưởi ộc ộc phun ra ngoài. Lẫn trong thứ nước kinh tởm đó là những con vật kì dị, giống như trùng độc, thân mềm oặt đỏ như máu luẩy nguẩy chui ra. Vài người trong đám đông hét lên rồi ngất ngay tức khắc. Từ đôi mắt đã trương húp lên của anh ta, thứ trùng kì dị đó cũng đang trườn ra ngoài. Hai con béo múp, to như hai con mắt người. Chúng vừa rơi ra ngoài thì từ hai hốc mắt anh ta, dòng nước đen sì lại ộc ộc tuôn ra. Đến cả những người già nhất cũng không thể không cảm thấy kinh tởm. Chưa bao giờ họ chứng kiến, thậm chí có thể nghĩ đến một cái chết kinh tởm đến vậy. Bà mẹ già trông thấy hai con trùng béo múp bò luẩy nguẩy thì ngã vật ra, toàn thân co cứng, giật giật hai cái rồi cũng tắt thở. Đấy là một ngày mà dân làng không bao giờ quên. Một bầu không khí đen tối, u ám, kinh sợ bao trùm miền sông nước vốn yên bình này. Cũng từ ngày hôm đấy, cô Thứ đối với người ta như một nỗi đe doạ. Họ xa lánh cô. Họ sợ cô. Một nỗi sợ mơ hồ. Cô sống như bóng ma câm lặng, quanh quẩn quanh nhà qua ngày đoạn tháng.
Một ngày, trên phiên chợ ven sông, người dân hiếu kì vây kín một khu. Ở giữa đám đông là một người trang điểm kì lạ. Lông mày tô dài, hai má đánh hồng, môi đỏ như máu. Tất cả được xếp đặt một cách tài tình trên một gương mặt trát phấn trắng đục. Người ta tò mò đàng sau lớp phấn trang đó là khuôn mặt trông ra sao. Hắn ta ăn bận một bộ y phục cắt dài, màu sắc lòe loẹt vẽ mấy cái hình. Và, hắn ta hát. Những bước chân di chuyển nhẹ nhàng nhịp theo những nốt ngân của hắn. Từ đấy, người ta yêu thích hắn. Mỗi lần hắn hát, người ta chen chúc nhau tranh một chỗ đứng, đáp cho hắn bộn tiền, những tràng pháo tay không dứt. Người hát kịch ấy tên Duân.
(còn nữa...)
Chap 1
Nói đến Trung Quốc người ta nghĩ đến bùa chú. Nói đến Thái Lan, người ta nghĩ đến ngải phép. Việt Nam từ xưa nay vẫn là nước có địa thế thuận lợi cho việc giao thương cũng như giao lưu văn hóa từ nhiều quốc gia. Xưa, nhắc đến nước Việt, các thầy pháp phương Bắc luôn có thái độ vừa kính dè vừa luôn tìm mọi cách để kìm hãm. Nước Nam có khí thiêng hội tụ. Trong những thầy phù thủy tu luyện tà thuật phương Bắc luôn đồn đại một câu chuyện quái gở. Lấy nguồn khí âm nhất nơi đất thiêng mà luyện bùa. Những thầy pháp Thái luyện ngải đen cũng đồn nhau lời đồn tương tự. Vì thế, một giai đoạn, người ta thấy miền tây nhộn nhịp người Trung người Thái qua lại.
Trung Quốc rất chuộng xem Kinh Kịch. Kinh Kịch lại có nhiều loại hình biến điệu đi, nhưng, nhìn chung, người phương Bắc xưa thích nhất loại hình Kinh Kịch kết hợp hát múa dân gian. Những người hát loại hình nghệ thuật này hay dùng cách trang điểm đậm mặt mày phỏng theo tính cách nhân vật mà họ diễn. Chẳng ai biết khuôn mặt thật của họ. Chẳng biết họ đang khóc hay đang cười, đang vui hay đang buồn, chỉ biết rằng trên sân khấu, họ sống như những nhân vật, khóc khóc cười cười. Sau này, những người giỏi nhất, hát hay nhất nghĩ ra một cách để họ có thể cùng một vở diễn nhiều nhân vật. Người ta làm những chiếc mặt nạ nhân vật thật mỏng, thật mịn. Cũng từ đấy, cơn ác mọng của những người hát kinh kịch bắt đầu. Một loạt vụ thiếu nữ mất tích. Những người mất tích đều là những thiếu nữa xinh đẹp. Họ luôn mất tích theo cách thức giống nhau. Ba ngày sau khi mất tích, họ sẽ trở về, đợi trước cửa nhà, đợi người thân ra đón. Nhưng, đó không còn là những cô gái xinh đẹp nữa mà chỉ còn những cái xác với phần da mặt đã bị lột ra, trơ lại phần thịt đỏ máu lúc nhúc côn trùng. Quan phủ tra mãi không ra thủ phạm. Bỗng một ngày, một vài người bỗng nhận thấy mặt nạ của mấy người hát Kinh Kịch ngày càng đẹp đẽ một cách lạ lùng. Và, người ta kháo nhau chính những người hát ấy giết người. Họ lấy da mặt những cô gái để làm chiếc mặt nạ đẹp nhất cho nhân vật của mình. Nhiều người còn đồn nhau rằng muốn hát hay thì những người hát đó phải uống máu tươi của đủ bảy cô gái. Một đồn mười, mười đồn trăm. Quan phủ thì mãi không tìm ra kẻ giết người, âu cũng thuận nước đẩy thuyền. Nhà nước muốn trấn an dân vội tóm lấy câu chuyện bằng chứng mơ hồ ấy mà truy quét, bắt bớ giết chóc những người hát Kinh Kịch. Con đường sống duy nhất bất giờ là chạy xuống phía Nam. Mang hết của cải tích được chạy xuống vùng ấy chắc cũng đủ sống dư dả. Những người trốn chạy thành công sợ sự truy sát của lính chỉ có thể sống ẩn dật, đợi thời gian trôi qua, mọi thứ lắng xuống thì may ra có thể lại hát.
Cô Thứ là con gái một người làm nghề chài lưới. Cha cô, ông Ba, sau cả nửa đời làm lụm tích cóp cuối cùng cũng cất được một căn nhà nhỏ ven sông, đưa cả nhà lên bờ mà sống. Chuyện về cô Thứ lan khắp cả vùng sông nước miền Tây này. Thành thực mà nói thì cô Thứ có gương mặt rất dễ mến, tính tình lại dễ thương, thiện lương vô cùng nên ai cũng quý mến cô. Nhưng chuyện tình duyên của cô thì trắc trở bi thảm đến tận cùng. Cô xinh đẹp là thế, bao nhiêu người theo là thế, thế mà chẳng mối nào thành. Cô lại thành quá lứa lỡ thì. Năm cô 23 tuổi đành gật đầu làm vợ kế người ta. Tuy có chút thiệt thòi nhưng vẫn còn may mắn. Cha mẹ cô theo lời bà mối đồng ý gả cô cho một anh học hành đàng hoàng trong làng, cũng được gọi oai hai chữ nhân sĩ. Nhưng, trước đám cưới 3 ngày, anh này biến mất trong đêm. Cả làng đổ xô đi tìm nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng dáng người đâu. Đến cái ngày vốn dĩ là ngày cưới, sáng sớm tờ mờ, người ta kinh hồn phát hiện ra xác cậu nằm ngay trong sân nhà. Cảnh tượng đúng là làm người ta kinh hồn bạt vía. Ba ngày trước là người thanh niên đạo mạo khôi ngô giờ nằm đấy chỉ còn cái xác đang thối rữa. Hai con mắt đã bị khoét mất chỉ còn lại hốc mắt sâu hoáy máu đã đen lại. Một đường rạch dài trên bụng mở toang khoang bụng, có thể nhìn thấy cả những thứ bùng nhùng bên trong. Ruồi bọ lúc nhúc. Mùi hôi thối tanh nồng trong không khí.
Người ta thất kinh. Có người còn cho rằng anh này gây thù chuốc oán với ai nên mới bị giết một cách tàn độc đến thế. Ai cũng bi thương cho cô Thứ. Tưởng đâu cô được yên ấm, ai dè... Thời gian bạc bẽo. Năm cô Thứ 26 tuổi mới gặp được lời đưa làm vợ người ta. Cũng là lấy người quá lứa mà nương nhờ vào nhau. Ở cái thời ấy, 26 tuổi chưa chồng là điều kinh khủng không tài nào tả nổi. Nhục nhã vô cùng. Nhưng, ngày cưới lại là một bi kịch thứ hai. Đến giờ rước dâu, người ta chẳng tìm thấy chú rể đâu. Cảnh tượng năm xưa lại lặp lại y hết. Mọi người nháo nhác đi tìm, ai cũng linh cảm chẳng lành. Lại 3 ngày sau, như lần trước, người ta thấy xác anh chồng dập dềnh nơi mép sông ngay gần nhà. Cái xác trương nhớt bủng beo. Người ta hùa nhau đưa xác lên bờ. Người mẹ nghe tin chạy đến trông thấy xác con lao vào mà lay, mà gọi trong vô vọng. Bà mẹ lạy hai hồi thì đột nhiên người ta nghe tiếng BỤP. Cái bụng trương dềnh vỡ toác ra. Thứ nước đen sì tanh tưởi ộc ộc phun ra ngoài. Lẫn trong thứ nước kinh tởm đó là những con vật kì dị, giống như trùng độc, thân mềm oặt đỏ như máu luẩy nguẩy chui ra. Vài người trong đám đông hét lên rồi ngất ngay tức khắc. Từ đôi mắt đã trương húp lên của anh ta, thứ trùng kì dị đó cũng đang trườn ra ngoài. Hai con béo múp, to như hai con mắt người. Chúng vừa rơi ra ngoài thì từ hai hốc mắt anh ta, dòng nước đen sì lại ộc ộc tuôn ra. Đến cả những người già nhất cũng không thể không cảm thấy kinh tởm. Chưa bao giờ họ chứng kiến, thậm chí có thể nghĩ đến một cái chết kinh tởm đến vậy. Bà mẹ già trông thấy hai con trùng béo múp bò luẩy nguẩy thì ngã vật ra, toàn thân co cứng, giật giật hai cái rồi cũng tắt thở. Đấy là một ngày mà dân làng không bao giờ quên. Một bầu không khí đen tối, u ám, kinh sợ bao trùm miền sông nước vốn yên bình này. Cũng từ ngày hôm đấy, cô Thứ đối với người ta như một nỗi đe doạ. Họ xa lánh cô. Họ sợ cô. Một nỗi sợ mơ hồ. Cô sống như bóng ma câm lặng, quanh quẩn quanh nhà qua ngày đoạn tháng.
Một ngày, trên phiên chợ ven sông, người dân hiếu kì vây kín một khu. Ở giữa đám đông là một người trang điểm kì lạ. Lông mày tô dài, hai má đánh hồng, môi đỏ như máu. Tất cả được xếp đặt một cách tài tình trên một gương mặt trát phấn trắng đục. Người ta tò mò đàng sau lớp phấn trang đó là khuôn mặt trông ra sao. Hắn ta ăn bận một bộ y phục cắt dài, màu sắc lòe loẹt vẽ mấy cái hình. Và, hắn ta hát. Những bước chân di chuyển nhẹ nhàng nhịp theo những nốt ngân của hắn. Từ đấy, người ta yêu thích hắn. Mỗi lần hắn hát, người ta chen chúc nhau tranh một chỗ đứng, đáp cho hắn bộn tiền, những tràng pháo tay không dứt. Người hát kịch ấy tên Duân.
(còn nữa...)