aidokhongphailatoi
Sinh lý yếu
Tau trong lúc chạy grab có nghe youtube về trịnh nguyễn phân tranh ,thì có nhận định sau :
Miền Bắc chúa trịnh -> gian thần ,nịnh quan thao túng vua Lê
Miền Nam do Nguyễn Kim ko chịu quy phục chúa trịnh ,quyết dẹp bọn gian thần khôi phục vị trí của vua Lê nên bị bọn chúa Trịnh trừ khử nhưng may còn con cháu họ hàng nên vào nam khai khẩn
=> miền Nam mới là bên chính đạo phù Lê diệt Trịnh
Còn Miền Bắc thì theo Trịnh ko phải là chánh đạo
Sau này thì phát triển lên Nguyễn Ánh thống nhất đất nước ,rồi sau này phát triển lên vua Bảo Đại ,vua Thành Thái ,nhưng bọn Bắc Việt lật đổ lại 1 lần nữa dòng chính đạo lại bị miền Bắc lật đổ vậy tại sao bọn Bắc Kỳ lại tỏ ra thanh cao hơn miền Nam .
Tau muốn xem xét lại dòng dõi hoàng tộc
Bàn luận về kiến thức lịch sử đúng chứ ko phân biệt vùng miền
Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, ngoài chủ trương di dân nhằm phân bố lại lực lượng dân cư, đưa dân từ những vùng đông đúc hoặc dân không có ruộng đất lưu tán khắp nơi đến khai hoang lập thành làng xã mới, qua đó mở rộng diện tích canh tác, tăng thêm đơn vị hành chính, ổn định tình hình kinh tế xã hội trong phạm vi đồng bằng Bắc bộ, còn có những trường hợp di dân để mở rộng lãnh thổ, củng cố an ninh quốc phòng làm bàn đạp cho công cuộc mở cõi về phương Nam.
Cuộc di dân lớn đầu tiên vào phương Nam diễn ra dưới thời vua Lý Thánh Tông vào năm 1069. Những lưu dân Việt từ phía Bắc bắt đầu vào tái định cư tại vùng đất mới từ tỉnh Quảng Bình đến bắc tỉnh Quảng Trị hiện nay. Họ sống sống theo từng nhóm cùng huyết thống, lập nên các làng Phan Xá, Ngô Xá v.v.. Cuộc di dân lớn thứ hai diễn ra dưới thời Trần - Hồ vào đầu thế kỷ XIV và đầu thế kỷ XV. Người Việt vào khẩn hoang lập ấp trên vùng đất từ phía nam tỉnh Thừa Thiên Huế đến phía bắc tỉnh Quảng Ngãi hiện nay. Cuộc di dân đại quy mô nhất diễn ra giữa thế kỷ XV, dưới thời vua Lê Thánh Tông. Một số gia phả ở vùng bắc Quảng Nam gọi đây là đợt di dân “tòng chinh lập nghiệp”, hay “Bắc địa tùng vương”. Sang thế kỷ XVII lại có tiếp những cuộc di dân ồ ạt vào vùng đất miền Trung hiện nay. Đến giữa thế kỷ XVIII bắt đầu có sự chuyển cư dần của người dân Ngũ Quảng (bao gồm từ Quảng Bình đến Bình Định hiện nay) vào khai thác vùng đất mới từ phía nam đèo Cả, rồi tiến xa dần vào vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Ngoài di dân của người Việt từ miền Bắc, phải kể đến di dân của người Hoa, chủ yếu là của di thần nhà Minh đem quân đội, gia đình chạy sang nước ta, tiêu biểu là đợt di cư của Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch được chúa Nguyễn cho khai khẩn đất Biên Hoà và Mỹ Tho vào năm 1679 và nhóm Mạc Cửu đến khai khẩn định cư tại vùng Hà Tiên vào năm 1711.
Nghiên cứu các cuộc di dân tái định cư trên, có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
Nghiên cứu các cuộc di dân tái định cư trên, có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
1. Về lực lượng tổ chức di dân và tái định cư, với phương nam vốn là một vùng đất mới sáp nhập vào bản đồ Đại Việt, là nơi “Ô châu ác địa” nên môi trường xã hội rất phức tạp, bởi thành phần những lưu dân bao gồm nhiều hạng người, từ nhiều địa phương phía Bắc đến: phần lớn là nông dân, tiếp đến là binh lính ở lại vừa làm quân điền, vừa trấn giữ, sau nữa là những tội đồ nghịch tử bị triều đình đày viễn châu, cả những người chống lại sự chính thống của chính quyền đương thời tìm cách lánh trớ vào vùng đất mới này để tính kế lâu dài. Lại có người Chăm ở lại – họ bị mất nước, mất đất, cả khác biệt về văn hóa nên không dễ gì nhanh chóng quy thuận, người Hoa mà phần lớn là binh lính phản Thanh phục Minh từng một thuở là quân Thiên Triều (đối với Đại Việt), cũng từng một thuở kiêu hùng bên chính quốc đến dung thân. Đây là vùng đất biên viễn nên Triều đình Chăm và Chân Lạp luôn tìm cách tái chiếm lại vùng đất cũ. Trong cái nhìn chiến lược của các triều đại phong kiến Việt Nam thì đây là vùng đất phên dậu của quốc gia, là bàn đạp để thực hiện ý đồ tiếp tục mở cõi về phương Nam. Do đó, đòi hỏi phải có những vị quan giỏi về tổ chức ổn định cuộc sống lúc ban đầu của lưu dân mới đến, biết vỗ yên dân chúng nơi vùng đất mới, vừa biết dụng nhân (những người tài giỏi) lại vừa biết trị nhân (đối với tất cả những phần tử chống đối Triều đình và những phần tử bất hảo ở đất Bắc bị đày vào), biết tổ chức quân đội, không chỉ giữ vững biên giới mà còn có kế sách đệ trình lên Triều đình về mở cõi. Triều đình yêu cầu ở họ phải có tính quyết đoán trong phạm vi chức trách nơi biên viễn. Nói tóm lại, họ phải là những con người có tài gánh vác và trấn giữ. Chính vì yêu cầu đặt ra như vậy nên các triều đại phong kiến Việt Nam đã cử những vị quan vào hàng giỏi nhất, trung thành nhất với triều đình vào trấn giữ, lại có chỉ dụ riêng đối với các viên quan trấn trị biên cương này về kế hoạch “rèn luyện binh nông”, về sự mẫn cán công việc "phải thân hành đi xét hỏi, nắm tình hình tường tận". Triều Trần cử Hành khiển Đoàn Nhữ Hài là một danh thần vào phủ dụ dân chúng và tổ chức công cuộc tái định cư tại hai hai châu Thuận, Hoá. Triều Hồ chọn Nguyễn Cảnh Chân, bởi ông vốn là An phủ sứ của Thuận Hoá nên có nhiều kinh nghiệm trong việc cai trị vùng đất biên viễn để điều vào giữ chức an phủ sứ lộ Thăng Hoa, Phạm Nhữ Dực là một tướng giỏi trong việc bình Chiêm làm Chánh đô ân vũ sứ. Về sau chúa Nguyễn Phúc Tần sắc phong ông Phủ Quốc công Nam dinh an vũ trấn[1]. Với trấn Tân Ninh (miền núi Quảng Nam hiện nay), Hồ Quý Ly chọn Phong quốc giám quản cán Nguyễn Ngạn Quang làm tuyên phủ sứ kiêm chức chế trí sứ. Khi Nguyễn Ngạn Quang đi nhậm sở, Hồ Quý Ly có thơ ban tặng, qua đó chỉ dụ ông phải: "Trấn trị biên cương nuôi chí mạnh/ Hùng phiên tiết chế sẵn mưu hay”. Thời Hậu Lê, Lê Lợi giao cho Phạm Nhữ Nhự là một tướng có công phò giúp trong việc đánh đuổi quân Minh ở lại trấn thủ vùng đất Thăng Hoa. Đến thời Lê Thánh Tông, Phạm Nhữ Tăng nguyên là Trung quân đô thống lãnh ấn tiên phong, nắm 10 đạo tinh binh tiết chế thuỷ, lục quân đánh bại quân Chiêm Thành năm 1471, được giao ở lại trấn thủ, thiết lập nền hành chánh và tổ chức di dân tái định cư tại thừa tuyên Quảng Nam. Khi ông chết, Lê Thánh Tông ngự bút khen tặng: “Nghĩa sĩ đủ mưu cơ, chí cả một lòng bình Chiêm quốc/ Miếu đài khai tráng lệ, hồn thiêng muôn thuở rạng trời Nam”. Nhà Lê còn cử nhiều người trong hoàng tộc vào trấn giữ vùng đất mới này. Giữa thế kỷ XV, Nguyễn Kim cử Bắc quân đô thống Bùi Tá Hán, một vị tướng nổi tiếng “trí dõng song toàn”, lại có tiếng “phụ tử chi binh” đem quân đi vỗ yên biên trấn Quảng Nam và ở lại tổ chức việc đón nhận dân nghèo từ các trấn phía Bắc kéo vào tái định cư, đề phòng sự phản kháng của Chiêm thành và tích trữ lương thực, rèn luyện quân đội làm hậu cứ để chống nhà Mạc. Tiếp theo Bùi Tá Hán là Thống binh Thái phó Mạc Cảnh Huống, người được đánh giá là “có lòng dũng cảm, có chí lớn, dùng cái gươm, mang cái thao lược của các vị võ thần Vệ, Anh, cưu mang cái tài của Quản Trọng, Gia Cát… từng gánh vác việc cung tên, sẵn sàng đem thân để điều binh”[2] ở lại làm quân sư cho các thế tử trấn thủ dinh Quảng Nam. Cho đến thời các vua đầu triều Nguyễn, những người đi trấn nhậm vùng đất mới đều là những vị tướng giỏi như Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh hay Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại. Triều đình cũng thường xuyên có chỉ dụ cho các quan phải chăm lo cuộc sống cho dân vùng đất mới được yên nghiệp làm ăn, định cư lâu dài.
www.sugia.vn
Tài liệu của pgs tiến sĩ
Mời các xammer bàn luận
Miền Bắc chúa trịnh -> gian thần ,nịnh quan thao túng vua Lê
Miền Nam do Nguyễn Kim ko chịu quy phục chúa trịnh ,quyết dẹp bọn gian thần khôi phục vị trí của vua Lê nên bị bọn chúa Trịnh trừ khử nhưng may còn con cháu họ hàng nên vào nam khai khẩn
=> miền Nam mới là bên chính đạo phù Lê diệt Trịnh
Còn Miền Bắc thì theo Trịnh ko phải là chánh đạo
Sau này thì phát triển lên Nguyễn Ánh thống nhất đất nước ,rồi sau này phát triển lên vua Bảo Đại ,vua Thành Thái ,nhưng bọn Bắc Việt lật đổ lại 1 lần nữa dòng chính đạo lại bị miền Bắc lật đổ vậy tại sao bọn Bắc Kỳ lại tỏ ra thanh cao hơn miền Nam .
Tau muốn xem xét lại dòng dõi hoàng tộc
Bàn luận về kiến thức lịch sử đúng chứ ko phân biệt vùng miền
Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, ngoài chủ trương di dân nhằm phân bố lại lực lượng dân cư, đưa dân từ những vùng đông đúc hoặc dân không có ruộng đất lưu tán khắp nơi đến khai hoang lập thành làng xã mới, qua đó mở rộng diện tích canh tác, tăng thêm đơn vị hành chính, ổn định tình hình kinh tế xã hội trong phạm vi đồng bằng Bắc bộ, còn có những trường hợp di dân để mở rộng lãnh thổ, củng cố an ninh quốc phòng làm bàn đạp cho công cuộc mở cõi về phương Nam.
Cuộc di dân lớn đầu tiên vào phương Nam diễn ra dưới thời vua Lý Thánh Tông vào năm 1069. Những lưu dân Việt từ phía Bắc bắt đầu vào tái định cư tại vùng đất mới từ tỉnh Quảng Bình đến bắc tỉnh Quảng Trị hiện nay. Họ sống sống theo từng nhóm cùng huyết thống, lập nên các làng Phan Xá, Ngô Xá v.v.. Cuộc di dân lớn thứ hai diễn ra dưới thời Trần - Hồ vào đầu thế kỷ XIV và đầu thế kỷ XV. Người Việt vào khẩn hoang lập ấp trên vùng đất từ phía nam tỉnh Thừa Thiên Huế đến phía bắc tỉnh Quảng Ngãi hiện nay. Cuộc di dân đại quy mô nhất diễn ra giữa thế kỷ XV, dưới thời vua Lê Thánh Tông. Một số gia phả ở vùng bắc Quảng Nam gọi đây là đợt di dân “tòng chinh lập nghiệp”, hay “Bắc địa tùng vương”. Sang thế kỷ XVII lại có tiếp những cuộc di dân ồ ạt vào vùng đất miền Trung hiện nay. Đến giữa thế kỷ XVIII bắt đầu có sự chuyển cư dần của người dân Ngũ Quảng (bao gồm từ Quảng Bình đến Bình Định hiện nay) vào khai thác vùng đất mới từ phía nam đèo Cả, rồi tiến xa dần vào vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Ngoài di dân của người Việt từ miền Bắc, phải kể đến di dân của người Hoa, chủ yếu là của di thần nhà Minh đem quân đội, gia đình chạy sang nước ta, tiêu biểu là đợt di cư của Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch được chúa Nguyễn cho khai khẩn đất Biên Hoà và Mỹ Tho vào năm 1679 và nhóm Mạc Cửu đến khai khẩn định cư tại vùng Hà Tiên vào năm 1711.
Nghiên cứu các cuộc di dân tái định cư trên, có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
Nghiên cứu các cuộc di dân tái định cư trên, có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
1. Về lực lượng tổ chức di dân và tái định cư, với phương nam vốn là một vùng đất mới sáp nhập vào bản đồ Đại Việt, là nơi “Ô châu ác địa” nên môi trường xã hội rất phức tạp, bởi thành phần những lưu dân bao gồm nhiều hạng người, từ nhiều địa phương phía Bắc đến: phần lớn là nông dân, tiếp đến là binh lính ở lại vừa làm quân điền, vừa trấn giữ, sau nữa là những tội đồ nghịch tử bị triều đình đày viễn châu, cả những người chống lại sự chính thống của chính quyền đương thời tìm cách lánh trớ vào vùng đất mới này để tính kế lâu dài. Lại có người Chăm ở lại – họ bị mất nước, mất đất, cả khác biệt về văn hóa nên không dễ gì nhanh chóng quy thuận, người Hoa mà phần lớn là binh lính phản Thanh phục Minh từng một thuở là quân Thiên Triều (đối với Đại Việt), cũng từng một thuở kiêu hùng bên chính quốc đến dung thân. Đây là vùng đất biên viễn nên Triều đình Chăm và Chân Lạp luôn tìm cách tái chiếm lại vùng đất cũ. Trong cái nhìn chiến lược của các triều đại phong kiến Việt Nam thì đây là vùng đất phên dậu của quốc gia, là bàn đạp để thực hiện ý đồ tiếp tục mở cõi về phương Nam. Do đó, đòi hỏi phải có những vị quan giỏi về tổ chức ổn định cuộc sống lúc ban đầu của lưu dân mới đến, biết vỗ yên dân chúng nơi vùng đất mới, vừa biết dụng nhân (những người tài giỏi) lại vừa biết trị nhân (đối với tất cả những phần tử chống đối Triều đình và những phần tử bất hảo ở đất Bắc bị đày vào), biết tổ chức quân đội, không chỉ giữ vững biên giới mà còn có kế sách đệ trình lên Triều đình về mở cõi. Triều đình yêu cầu ở họ phải có tính quyết đoán trong phạm vi chức trách nơi biên viễn. Nói tóm lại, họ phải là những con người có tài gánh vác và trấn giữ. Chính vì yêu cầu đặt ra như vậy nên các triều đại phong kiến Việt Nam đã cử những vị quan vào hàng giỏi nhất, trung thành nhất với triều đình vào trấn giữ, lại có chỉ dụ riêng đối với các viên quan trấn trị biên cương này về kế hoạch “rèn luyện binh nông”, về sự mẫn cán công việc "phải thân hành đi xét hỏi, nắm tình hình tường tận". Triều Trần cử Hành khiển Đoàn Nhữ Hài là một danh thần vào phủ dụ dân chúng và tổ chức công cuộc tái định cư tại hai hai châu Thuận, Hoá. Triều Hồ chọn Nguyễn Cảnh Chân, bởi ông vốn là An phủ sứ của Thuận Hoá nên có nhiều kinh nghiệm trong việc cai trị vùng đất biên viễn để điều vào giữ chức an phủ sứ lộ Thăng Hoa, Phạm Nhữ Dực là một tướng giỏi trong việc bình Chiêm làm Chánh đô ân vũ sứ. Về sau chúa Nguyễn Phúc Tần sắc phong ông Phủ Quốc công Nam dinh an vũ trấn[1]. Với trấn Tân Ninh (miền núi Quảng Nam hiện nay), Hồ Quý Ly chọn Phong quốc giám quản cán Nguyễn Ngạn Quang làm tuyên phủ sứ kiêm chức chế trí sứ. Khi Nguyễn Ngạn Quang đi nhậm sở, Hồ Quý Ly có thơ ban tặng, qua đó chỉ dụ ông phải: "Trấn trị biên cương nuôi chí mạnh/ Hùng phiên tiết chế sẵn mưu hay”. Thời Hậu Lê, Lê Lợi giao cho Phạm Nhữ Nhự là một tướng có công phò giúp trong việc đánh đuổi quân Minh ở lại trấn thủ vùng đất Thăng Hoa. Đến thời Lê Thánh Tông, Phạm Nhữ Tăng nguyên là Trung quân đô thống lãnh ấn tiên phong, nắm 10 đạo tinh binh tiết chế thuỷ, lục quân đánh bại quân Chiêm Thành năm 1471, được giao ở lại trấn thủ, thiết lập nền hành chánh và tổ chức di dân tái định cư tại thừa tuyên Quảng Nam. Khi ông chết, Lê Thánh Tông ngự bút khen tặng: “Nghĩa sĩ đủ mưu cơ, chí cả một lòng bình Chiêm quốc/ Miếu đài khai tráng lệ, hồn thiêng muôn thuở rạng trời Nam”. Nhà Lê còn cử nhiều người trong hoàng tộc vào trấn giữ vùng đất mới này. Giữa thế kỷ XV, Nguyễn Kim cử Bắc quân đô thống Bùi Tá Hán, một vị tướng nổi tiếng “trí dõng song toàn”, lại có tiếng “phụ tử chi binh” đem quân đi vỗ yên biên trấn Quảng Nam và ở lại tổ chức việc đón nhận dân nghèo từ các trấn phía Bắc kéo vào tái định cư, đề phòng sự phản kháng của Chiêm thành và tích trữ lương thực, rèn luyện quân đội làm hậu cứ để chống nhà Mạc. Tiếp theo Bùi Tá Hán là Thống binh Thái phó Mạc Cảnh Huống, người được đánh giá là “có lòng dũng cảm, có chí lớn, dùng cái gươm, mang cái thao lược của các vị võ thần Vệ, Anh, cưu mang cái tài của Quản Trọng, Gia Cát… từng gánh vác việc cung tên, sẵn sàng đem thân để điều binh”[2] ở lại làm quân sư cho các thế tử trấn thủ dinh Quảng Nam. Cho đến thời các vua đầu triều Nguyễn, những người đi trấn nhậm vùng đất mới đều là những vị tướng giỏi như Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh hay Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại. Triều đình cũng thường xuyên có chỉ dụ cho các quan phải chăm lo cuộc sống cho dân vùng đất mới được yên nghiệp làm ăn, định cư lâu dài.
Tái định cư trong lịch sử nam tiến dưới chế độ phong kiến Việt Nam
Tái định cư trong lịch sử nam tiến dưới chế độ phong kiến Việt Nam , hoi khoa hoc lich su binh duong, lich su binh duong
Mời các xammer bàn luận