• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Lịch sử VN qua các thời kỳ: Chúng mày hay bàn luận lịch sử TQ vậy sao không bàn luận lịch sử của người Việt đi

thichvuto123

Bò lái xe
Tao rất thích tìm hiểu lịch sử của VN thời xa xưa nên tao đã biên soạn ra tóm lược này. chúng mày xem đóng góp thêm cho tao phát chỗ nào đúng/sai, cần chỉnh sửa, thêm bớt, chi tiết cho từng sự kiện. để tao hoàn thiện tài liệu riêng để sau này còn truyền đời cho con cháu phát nào

LỊCH SỬ VIỆT NAM QUA TỪNG THỜI KỲ

Tổng hợp: Thichvuto


Chú ý: Đây không phải tài liệu tham khảo mà chỉ tài liệu tổng hợp bởi một cá nhân

TK8 TCN: các tộc ng việt gọi là bách việt

TK7 TCN: nhà nước Văn Lang do vua hùng cai quản Kinh Đô ở Phong Châu (Việt Trì – Phú Thọ ngày nay) và truyền qua 18 đời

theo truyền thuyết thì Hùng Vương 1 (Vua Hùng thứ nhất) là con của Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lại là con của Kinh Dương Vương xưa kia cai quản các bộ tộc Bách Việt ở phía Nam (lúc này gọi là nước Xích Quỷ)

TK3 TCN: Thục Phán của nhà Thục (Trung Quốc) đánh bại vua hùng thứ 18 lập ra nhà nước Âu Lạc – Niên hiệu là An Dương Vương. Đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh – Hà Nội ngày nay). Thời kỳ này nhà Âu Lạc kháng chiến chống nhà Tần và chiến thắng

Đến năm 218 TCN thì bị Triệu Đà – tướng cũ nhà tần TQ thôn tính

218-111 TCN: Triệu Đà thôn tính Âu Lạc lập ra nước Nam Việt (quảng đông, quảng tây và MB VN). Chia Âu Lạc ra thành 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân

Sau khi nhà Hán thống nhất TQ và mãi về sau Nam Việt bị diệt vong và bị đô hộ của nhà Hán

Năm 40-43: Hai Bà Trưng khởi nghĩa lập quốc riêng đóng đô tại Mê Linh. Bà Trưng Trắc xưng là Trưng Nữ Vương

Nhưng sau 3 năm bị Mã Viện của nhà Hán dẹp

Năm 43-544: vẫn bị đô hộ cái trị của TQ và ng việt vẫn khởi nghĩa nhưng k thành công tiêu biểu có cuộc khởi nghĩa Triệu Quốc Đạt và Triệu Thị Trinh (Bà Triệu) năm 248 chống quân Ngô

Năm 544-602: Tiền Lý (Lí Bí) – Nước Vạn Xuân. 544 Lí Bí khởi nghĩa đánh quân nhà Lương TQ lập ra nước Vạn Xuân xưng hiệu là Lý Nam Đế, sau khi Lí Bí mất trong chiến sự và giao lại cho Triệu Việt Vương (chính là Triệu Quang Phục) cai quản bảo vệ Vạn Xuân. Sau Triệu Việt Vương là cháu của Lý Nam Đế (là Lý Phận Tử đánh bại Triệu Việt Vương) cai quản

Năm 602-930: bị nhà Đường TQ đánh bại Vạn Xuân và đô hộ 300 năm. Người Việt khởi nghĩa chống lại như:

  • Khởi Nghĩa Hoan Châu do Mai Hắc Đế (tên thật là Mai Thúc Loan) 713-722: chống nhà Đường
  • Khởi Nghĩa Phùng Hưng 766-791: Chống nhà Đường
  • Đến năm 905 nhà Đường suy yếu thì Khúc Thừa Dụ nổi dậy đánh chiếm thành Đại La và tự xưng Tiết Độ Sứ và bắt đầu thời kỳ tự chủ của người Việt, Khúc Hạo con của Khúc Thừa Dụ đã tiến hành nhiều cải cánh từng bước xây dựng nền móng tự chủ hoàn toán với Phương Bắc. sau đó bị quân Nam Hán (nhà Đường sụp đổ thì nhà Hậu Lương lên thay và TQ bị chia cắt – thời Ngũ Đại Thập Quốc, Nam Hán là 1 trong những triều đại đó) tiêu diệt dưới thời của Khúc Thừa Mỹ (con trai của Khúc Hạo, cháu nội Khúc Thừa Dụ) và bị quân Nam Hán đô hộ đến năm 930
Năm 931-938: Dương Đình Nghệ (tướng cũ của Khúc Thừa Dụ và Khúc Hạo) đánh quân Nam Hán và cũng xưng là Tiết Độ Sứ. Có 3 tướng: Ngô Quyền, Đinh Công Trứ (cha của Đinh Bộ Lĩnh) và Kiều Công Tiễn. đến năm 937 thì Kiều Công Tiễn phản chủ giết Dương Đình Nghệ. Ngô Quyền con rể của Dương Đình Nghệ trả thù mang quân ra đánh Đại La tiêu diệt Kiều Công Tiễn vào năm 938. Quân Nam Hán kéo xuống đánh Ngô Quyền

Năm 939: Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng xưng là Ngô Vương, độc lập hoàn toàn cắt đứt với phương bắc

Năm 968-980: Nhà Đinh - Nước Đại Cồ Việt: Sau khi Ngô Quyền mất năm 944 thì loạn 12 sứ quân. Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Tiên Hoàng) dẹp loạn dc 12 sứ quân lập ra nước Đại Cồ Việt năm 968 và kết thúc năm 980 khi con của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Phế Đế - Đinh Toàn (mới 6 tuổi) nhường ngôi cho Lê Hoàn

12 sứ quân gồm: Ngô Xương Xí - Dòng tộc Ngô Quyền, Ngô Nhật Khánh - Dòng tộc Ngô Quyền, Đỗ Cảnh Thạc, Phạm Bạch Hổ, Kiều Công Hãn, Kiều Thuận, Nguyễn Khoan, Nguyễn Siêu, Nguyễn Thủ Tiệp, Lý Khuê, Trần Lãm, Lã Đường

Nội chính nhà Đinh: Đinh Tiên Hoàng có 3 người con: Đinh Liễn (con cả), Đinh Hạng Lang (con 2) và Đinh Toàn. Đinh Liễn tài giỏi từng theo vua cha dẹp loạn 12 sứ quân, đối ngoại với nhà tống xứng đáng kế vị. Nhưng Đinh Bộ Lĩnh lại yêu con 2 lập con 2 truyền ngôi gây ra sự giận dữ của Đinh Liễn và lập mưu giết hại em trai mình. Sau đó tuy được vua cha tha tội nhưng ông hối hận và xám hối về cố đô tìm đến phật pháp. Đến năm 979 thì Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn bị Đỗ Thích sát hại sau đó Đinh Toàn lên ngôi lúc 6 tuổi nhưng quyền lực nằm trong tay Thập Đạo Tướng Quân - Lê Hoàn

Năm 980 quân tống đem quân sang đánh Thái Hậu Dương Vân Nga và các đại thần truyền ngôi cho Lê Hoàn

Năm 980-1009: Nhà Tiền Lê – Quốc Hiệu vẫn là Đại Cồ Việt. Sau khi Đinh Bộ Lĩnh cùng con trai cả bị ám sát lúc này con trai khác của Đinh Bộ Lĩnh là Đinh Toàn (Đinh Phế Đế) còn bé lên ngôi, Lê Hoàn làm phó chính. Lúc này nhà Tống của TQ đem quân xuống đánh, lúc này các tướng lĩnh và thái hậu Dương Vân Nga phò tá Lê Hoàn (chính là Lê Đại Hành) lên làm vua lập ra nhà Tiền Lê

Nhà tiền lê trải qua 3 đời vua:

  • Lê Hoàn (Lê Đại Hành) sinh ra 4 ng con: Long Du, Ngân Trích, Long Việt và Long Đĩnh
  • Lê Đại Hành chết thì để con thứ 3 là Lê Long Việt lên ngôi nhưng được 3 ngày thì Lê Long Đĩnh giết chiếm ngôi
  • Lê Long Đĩnh còn gọi là Lê Ngoại Triều do bản tính ăn chơi dâm đãng và bị trĩ nên khi thiết triều k thể ngồi mà chỉ có thể nằm nên gọi là “Ngọa Triều”. Nhưng những điều xấu này vẫn là 1 hoài nghi vì có nhiều điểm bất hợp lý khi sử sách ghi chép. Cũng có thể là do thời Lý lên và ghi lại sử sách theo hướng đổ oan cho Lê Long Đĩnh để có tính hợp lòng dân khi triều đại mới thay thế cho triều đại cũ (có thể là kế sách của Sư Vạn Hạnh và Đào Cam nhằm phò tá cho Lý Công Uẩn)
Năm 1009-1225: Nhà Lý – Đại Việt: năm 1009 Lê Long Đĩnh (con trai của Lê Hoàn) qua đời. Lý Công Uẩn là viên tướng cấp cao dưới thời nhà tiền lê tập hợp lực lượng cướp ngôi lập ra nhà Lý. Dời đô từ Hoa Lư về Thành Đại La và đổi tên thành Thành Thăng Long. Đến năm 1054 Lý Thánh Tông đổi quốc hiệu từ Đại Cồ Việt thành Đại Việt mở ra thời kỳ rực rỡ nhất trong lịch sử VN từ trước tới thời đó.

Trải qua các đời

  • Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn)
  • Lý Thái Tông
  • Lý Thánh Tông: Đành chiêm thành mở rộng bờ cõi đến Quảng Trị ngày nay)
  • Lý Nhân Tông: Chiến tranh bảo vệ tổ quốc đánh quân tống do Lý Thường Kiệt và Tôn Đản (Phòng tuyến trên sông Như Nguyệt) và có bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà”
  • Lý Thần Tông
  • Lý Anh Tông
  • Lý Cao Tông
  • Lý Huệ Tông
  • Lý Chiêu Hoàng: Nữ hoàng đầu tiên của VN lên ngôi khi 9 tuổi và sau đó chuyển giao quyền lực cho chồng là Trần Cảnh kết thúc triều đại nhà Lý
Danh tướng: Lý Thường Kiệt (k phải họ lý mà có thể là họ Ngô dòng dõi cháu chắt của Ngô Quyền)

Năm 1226-1400: Nhà Trần – Đại Việt: 1226 vị vua cuối cùng nhà lý là Lý Chiêu Hoàng (9 tuổi) là con gái nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh lập ra nhà Trần. Trần Cảnh còn bé (10 tuổi) nên do 1 tay người chú là Trần Thủ Độ quản lý triều chính (chính Trần Thủ Độ là ng đã ép Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho cháu mình)

Thời nhà Trần phát triển tiếp tục từ thời nhà Lý 1 cách mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực. 3 lần đánh bại quân nguyên mông các danh tướng thời Trần

Trải qua 12 đời

  • Trần Thái Tông – Trần Cảnh: Đích thân nhà vua dẫn quân đánh thắng quân Nguyên Mông lần 1
  • Trần Thánh Tông – Trần Hoảng: xây dựng quân đội chuẩn bị cho trận chiến quân Nguyên Mông lần 2
  • Trần Nhân Tông – Trần Khâm: Đánh thắng quân Nguyên Mông lần 2 và lần 3. Nhà vua cùng Thái Thượng Hoàng tổ chức các hội nghị Bình Than, Hội Nghị Diên Hồng
  • Trần Hưng Đạo thống lĩnh quân đội đánh thắng 2 lần quân Nguyên Mông xâm lược năm 1285 và 1288
  • Thời kỳ này Trần Hưng Đạo thu nạp các nhân tài như: Yết Kiêu, Phạm Ngũ Lão, Dã Tượng…
  • Có bài hịch tướng sĩ trước trần đánh quân nguyên mông lần 2
  • Trần Anh Tông – Trần Thuyên. Đến đời này thì TQ mới chính thức công nhận là nước An Nam. Còn trước đó thì chúng nó chỉ gọi là An Nam Đô Hộ Phủ (tức là 1 phủ của TQ) chưa khi nào công nhận nền độc lập của nước ta
  • Trần Minh Tông – Trần Mạnh
  • Trần Hiến Tông – Trần Vượng (con thứ của Trần Minh Tông)
  • Trần Dụ Tông – Trần Hạo (con thứ 10 của Trần Minh Tông). Nhà Trần bắt đầu suy yếu từ đời này. Vua ham chơi thích nịnh thần. Chu Văn An dâng “Thất Trảm Sớ” nhưng không được duyệt nên cáo mũ về quê
  • Trần Nghệ Tông – Trần Phủ (con thứ 3 của Trần Minh Tông) thời kỳ này Nghệ Tông tin dung Hồ Quý Ly
  • Trần Duệ Tông – Trần Kính (con thứ 11 của Trần Minh Tông)
  • Trần Phế Đế - Trần Hiện (con trưởng của Trần Duệ Tông). Sau khi Trần Duệ Tông chết ở mặt trận Chiêm Thành thì Thái Hoàng Nghệ Tông lập Trần Hiện lên làm vua nhưng quyền lực lúc này đã nằm trong tay Hồ Quý Ly
  • Trần Thuận Tông – Trần Ngung (con út của Trần Nghệ Tông). Thời kỳ này sau khi Trần Nghệ Tông chết Hồ Quý Ly cho dời đô về Thanh Hóa
  • Trần Thiếu Đế - Trần Án (con trưởng của Trần Thuận Tông). Bị Hộ Quý Ly ép nhường ngôi kết thúc triều đại nhà trần mở ra triều đại nhà Hồ
Chiêu Minh Đại Vương – Trần Quang Khải

Chiêu Văn Đại Vương – Trần Nhật Duật

Hưng Đạo Đại Vương – Trần Hưng Đạo (Trần Quốc Tuấn)

Nhân Huệ Vương – Trần Khánh Dư

Ngoài ra thời Trần Nhân Tông chống quân Nguyên Mông còn có các tướng như: Trần Quốc Toản, Nguyễn Khoái

...........continue.............
 
Tiếp..........
Năm 1400-1407: Nhà Hồ - Đại Ngu. Hồ Quý Ly 1 quý tộc và đại thần nhà Trần được Trần Nghệ Tông tin tưởng giao hết binh quyền. sau khi Trần Nghê Tông mất thì Hồ Quy Ly nắm hết binh quyền và cho dời đô vào thanh hóa ép Trần Thiếu Đế nhường ngôi (vốn là cháu ngoại của Hồ Quý Ly) lập ra nhà Hồ lấy quốc hiệu là Đại Ngu

Năm 1407 – 1427: Bị nhà Minh TQ đô hộ. năm 1407 Nhà Minh đem quân sang đánh Đại Ngu và nhà Hồ bị xóa sổ, dòng dõi con cháu nhà Trần nổi lên khởi nghĩa nhưng bị đàn áp. Tướng giao chỉ là Lê Lợi với khởi nghĩa Lam Sơn bước đầu tạo nên nhà Hậu Lê

Năm 1428–1527: Nhà Hậu Lê. Năm 1427 Lê Lợi khởi nghĩa đánh bại quân Minh lập ra nhà Hậu Lê

Khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi có các tướng: Lê Lai, Nguyễn Xí, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi (quan văn)

Sau khi thành công thì Lê Lợi lại nghe lời nịnh thần diệt Trần Nguyên Hãn

Nhà Hậu Lê có 2 thời kỳ.

Nhà Lê Sơ (1428-1528): kéo dài 99 năm từ thời khai quốc Lê Thái Tổ - Lê Lợi lập ra cho đến khi Mạc Dăng Dung phế bỏ vua Lê Cung Hoàn lập ra nhà Mạc

Lê Thái Tổ - Lê Lợi (1428-1433): Lê Lợi khởi nghĩa đánh thắng giặc Minh lập ra nhà Hậu Lê

Lê Thái Tông – Lê Nguyên Long (1433-1442): con thứ 2 của Lê Thái Tổ.

Thời kỳ này nổi tiếng vụ án Lê Chi Viên liên quan đến Nguyễn Trãi và cái chết của Lê Thái Tông.

7/1442 Vua Lê Thái Tông đi tuần và dừng ở chùa Côn Sơn nơi ở của Nguyễn Trãi. Sau đó thì về đến Lệ Chi Viên tại đây nhà vua ở cùng bà vợ lẽ của Nguyễn Trãi. Sau 1 đêm thì nhà vùa chết sau đó thì bí mật đem vua về thành rồi mới công bố thiên hạ. Nguyễn Thị Lộ và 3 đời Nguyễn Trãi bị chu di tam tộc. Duy chỉ có 1 người con duy nhất là Nguyễn Nguyên Vũ trốn thoát. Sau này được mình oan và làm quan dưới thời Lê Thánh Tông

Lê Nhân Tông – Lê Bàng Cơ (1442-1459): con thứ của Lê Thái Tông. Lên làm vua khi 2 tuổi do Thái Hậu Nguyên Từ nắm quyền. 10 năm sau Thái Hậu trả lại quyền hành và bị Lê Nghi Dân (con cả của Lê Thái Tông) ám sát lúc 19 tuổi và lên làm vua được 8 tháng. Sau đó bị tướng Nguyễn Xí, Đinh Liệt dẹp và đưa hoàng tử Lê Tư Thành nối ngôi

Dã sử có nghi ngờ về xuất thân của Lê Bàng Cơ có thể không phải con của Lê Thái Tông vì từ lúc mẹ của Lê Bàng Cơ vào cung đến lúc sinh Bàng Cơ có 6 tháng

Lê Bàng Cơ được cho là 1 vị vua anh minh có công bắt đầu giải oan cho Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn

Lê Thánh Tông – Lê Tư Thành (1460-1497): con út của Lê Thái Tông. Xuống chiếu giải oan cho con cháu Nguyễn Trãi trong vụ án Lệ Chi Viên

Lê Hiến Tông – Lê Sanh (1498-1504): con trưởng của Lê Thánh Tông

Lê Túc Tông – Lê Thuần (6/1504-12/1504): Con thứ 3 của Lê Hiến Tông lên ngôi dc 6 tháng thì chết

Lê Uy Mục – Lê Tuấn (1505-1509): Con thứ 2 của Lê Hiến Tông. Ham chơi hoang dâm vô độ

Lê Tương Dực – Lê Oanh (1509-1516): cháu nội của Lê Thánh Tông. Cũng ăn chơi trụy lạc

Lê Chiêu Tông – Lê Y (1516-1522): cháu 4 đời của Lê Thánh Tông. Thời nay Mạc Đăng Dung tập trung quyền lực và có ý đồ soán ngôi. Lê Chiêu Tông biết vậy liền bỏ trốn vào Thanh Hóa. Mạc Đăng Dung bèn lập Lê Cung Hoàn lên làm vua

Lê Cung Hoàn – Lê Xuân (1522-1527): do Mạc Đăng Dung dựng lên, sau khi Mạc Đăng Dung bắt được Lê Chiêu Tông từ Thanh Hóa đem về giam cầm và giết chết thì Mạc Đăng Dung đem quân vào thành cướp ngôi ép Lê Cung Hoàn tự tử. Lập ra nhà Mạc và khởi đầu cho giai đoạn Lê Trung Hưng

Giai đoạn Lê Trung Hưng (1533-1789): khởi đầu khi tướng Nguyễn Kim tôn phò Lê Duy Ninh, Con của Lê Chiêu Tông để khởi binh chống lại nhà Mạc đến khi Lê Chiêu Thống bỏ nước sang cầu viện Nhà Thanh đánh Tây Sơn. Nguyễn Huệ, một lãnh đạo của phong trào Tây Sơn, sau đó lên ngôi vua, chấm dứt giai đoạn Lê Trung Hưng và sự tồn tại của Nhà Hậu Lê. Thời Lê Trung hưng tuy kéo dài, nhưng các Hoàng đế nhà Lê mất thực quyền, chỉ tồn tại trên danh nghĩa.

Năm 1527-1778: thời kỳ Nam – Bắc Triều (chính là thời Lê Trung Hưng): năm 1527 Mạc Đăng Dung dành ngôi từ nhà Lê lập ra Nhà Mạc. Nhà Hậu Lê dc tái lập vài năm sau đó dưới sự giúp đỡ của Nguyễn Kim kiểm soát từ Thanh Hóa vào Bình Định. Còn nhà Mạc thì từ Thanh Hóa trở ra.

Thời kỳ này là chiến sự giữa 2 nhà Mạc-Lê. Kết thúc bằng chiến thắng của nhà Lê vào năm 1592, lúc này nhà Mạc bị đánh bại phải chạy lên Cao Bằng. Chiến công này thuộc về công thần là họ Trịnh và quyền lực nằm trong tay họ Trịnh. Công thần họ Nguyễn ở trong không phục và ly khai ở miền nam và bước vào gian đoạn Vua Lê – Chúa Trịnh. Thời kỳ này hình thành tiếp 2 khu vực lấy song gianh làm ranh giới.

Đằng Ngoài: từ song gianh ra bắc do Vua Lê – Chúa Trịnh kiểm soát. 1545-1778

Đằng Trong: từ song gianh vào bình định do chúa Nguyễn kiểm soát (lúc này là Nguyễn Hoàng con của Nguyễn Kim). 1558-1777

Lê Trang Tông – Lê Duy Ninh (1533-1548): Là con của Lê Chiêu Tông. Lúc này Mạc Đăng Dung chiếm ngôi lập ra nhà Mạc. Tướng Nguyễn Kim tìm dòng dõi nhà Lê để khởi nghĩa đánh lại nhà Mạc. (Cũng có dã sử cho rằng Lê Duy Ninh thực chất là con của Nguyễn Kim dựng lên)

Lê Trung Tông – Lê Huyên (1548-1556): con của Lê Trang Tông và xuất hiện Trịnh Kiểm

Lê Anh Tông – Lê Duy Bang (1556-1573): thuộc dòng dõi họ Lê. Nhánh Lê Trừ anh trai của Lê Lợi. Khi Lê Trung Tông chết k có con nối ngôi nên Trịnh Kiểm tìm ra dc Lê Anh Tông dựng lên làm vua. Quyền lực nằm trong tay Trịnh Kiểm. 1570 Trịnh kiểm chết quyền lực vào tay con trai là Trịnh Tùng.

Lê Thế Tông – Lê Duy Đàm (1573-1599): con thứ 5 của Lê Anh Tông được Trịnh Tùng dựng lên làm vua và năm 1592 đánh thắng nhà Mạc khởi đầu thời kỳ Vua Lê – Chúa Trịnh

Trong thời kỳ Vua Lê – Chúa Trịnh thì chủ yếu là chiến tranh giữa họ Trịnh ở đằng ngoài và Họ Nguyễn ở đằng trong.

Lý do hình thành là ban đầu Nguyễn Kim dựng họ Lê Trung lên để dẹp nhà Mạc nhưng khi Nguyễn Kim chết thì Trịnh Kiểm con rể giết con cả của Nguyễn Kim để nắm quyền. Sau này khi dẹp dc nhà Mạc năm 1592 thì con thứ 2 của Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng xin vào Nam cát cứ và xây dựng lực lượng đối đầu với họ Trịnh. Trải qua 7 lần giao chiến (6 lần Trịnh đánh vào, 1 lần Nguyễn đánh ra) các đời nhà Lê gần như buông bỏ hưởng an nhàn để quyền lực trong tay họ Trịnh. Mãi đến sau này quân Tây Sơn khởi nghĩa kết thúc bởi đời vua Lê Chiêu Thống đi lưu vong

..... continue...............
 
Tiếp.........
Năm 1778-1802 Nhà Tây Sơn: tiếp sau đời chúa Nguyễn thì khởi nghĩa Tây sơn do 3 anh em. Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ khởi nghĩa từ ấp Tây Sơn (Bình Định) đánh dẹp và chấm dứt thời ký Đàng Trong và Đàng Ngoài thống nhất đất nước. Năm 1778 Nguyễn Nhạc lên làm vua đến năm 1788 thì nhường ngôi cho Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ lên làm hoàng đế của Đại Việt niên hiệu là Quang Trung đống đô ở Nghệ An “Phượng Hoàng Trung Đô”

Thời kỳ nhà Tây sơn có thành tựu là mở mang bờ cõi về phía nam. Mở rộng lãnh thổ đất nước như ngày nay

Đến năm 1792 thì Nguyễn Huệ qua đời và Nguyễn Ánh tiến hành cuộc lật đổ nhà tây sơn lập ra nhà Nguyễn vào năm 1802 niên hiệu là Gia Long

Chi tiết cuộc khởi nghĩa Tây Sơn:

Tây Sơn khởi nghĩa:

năm 1771 Nguyễn Nhạc phất cờ khởi nghĩa mang danh nghĩa ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương (dòng tộc chúa Nguyễn) do lúc này quyền lực của Chúa Nguyễn rơi vào tay Trương Phúc Loan

năm 1773 Nguyễn Nhạc đánh thành Quy Nhơn, sau khi chiếm thành Quy Nhơn thì quân Tây Sơn tiến xuống phía nam đánh chiếm vùng đất từ Quãng Ngãi đến Bình Thuận

Quân Trịnh tham chiến

10/1774 sau 100 năm chúa Trịnh hòa bình với chúa Nguyễn thì sai quân vào đánh Phú Xuân (huế) cũng với danh nghĩa trừng phạt Trương Phúc Loan. Chúa Nguyễn thất thủ chạy về Quảng Nam thì bị quân Tây Sơn đánh ra ở thế kìm kẹp và phải vượt biển trốn vào Gia Định (Sài Gòn)

5/1775 thì Tống Phước Hiệp tiến quân từ Nam ra đánh Tây Sơn. Nguyễn Nhạc mất Phú Yên chỉ giữ lại dc Quy Nhơn và Quãng Ngãi. Quân Trịnh sau khi chiếm được Phú Xuân thì vượt Hải Vân tiến vào Nam. Quân Tây Sơn lúc này lại bị kẹp ở giữa và Nguyễn Nhạc đành phải xin giảng hòa với quân Trịnh trên danh nghĩa đầu hàng nhà Lê xin làm tướng tiên phong tiến vào Nam đi đánh chúa Nguyễn

7/1775 Nguyễn Nhạc phái Nguyễn Huệ đi đánh Phú Yên và chiếm được Phú Yên từ đây quân Tây Sơn được cũng cố

Tiến đánh Gia Định

1776-1783: lúc này quân Tây Sơn tạm yên với phía Bắc là quân Trịnh nên tập trung lực lượng tiến về Nam. Có 10 lần tiến đánh Gia Định

Trong năm 1778 sau khi cơ bản đã đánh thắng được quân Chúa Nguyễn (Nguyễn Ánh) thì Nguyễn Nhạc tự xưng làm vua

1782: tấn công cộng đồng người Hoa ở Gia Định vì từng trợ giúp quân Chúa Nguyễn tấn công Tây Sơn

Đánh bại quân Xiêm (Thái Lan) – Nguyễn

2/1784: Nguyễn Ánh sau khi thất bại thì qua cầu viện vua Xiêm. Vua Xiêm mang quân sang tấn công phía Nam và tấn công Gia Định

Gia Định bị tấn công Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ vào ứng cứu

1/1785 mở màn trận đánh Rạch Gầm – Xoài Mút: Nguyễn Huệ giàn quân ở Rạch Gầm giả vờ thua dụ quân Xiêm đuổi theo để rơi vào mai phục ở Xoài Mút. Kết quả quân Xiêm – Nguyễn thua tan tác. Nguyễn Huệ về lại Quy Nhơn để tướng ở lại cánh Gia Định

Lật đổ chúa Trịnh

Đánh chiếm Phú Xuân: 1786 Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ đánh úp Phú Xuân

Tiến ra Thăng Long: dưới sự thuyết phục của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ tiến quân ra Thăng Long để diệt họ Trịnh mặc dù chưa được sự đồng ý của Nguyễn Nhạc. Với danh nghĩa phù Lê Diệt Trịnh, Nguyễn Huệ nhanh chống đánh bại quân Trịnh vào thành Thăng Long yết kiến vua Lê Hiển Tông và có sự kiện vua Lê Hiển Tông gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ

Sau khi dẹp Trịnh thì Nguyễn Huệ đem Ngọc Hân về Nam để lại Nguyễn Hữu Chỉnh ở Thăng Long dẹp tàn dư họ Trịnh. Và lúc này Nguyễn Hữu Chỉnh lại lộng quyền

Mâu thuẫn anh em Tây Sơn:

Nguyễn Huệ vốn có tính toán tự lực phát triển vượt tầm kiểm soát của vua anh điển hình là đem quân đánh Trịnh mà chưa được phép của vua anh. 1787 Nguyễn Huệ mang quân đánh thành Quy Nhơn của Nguyễn Nhạc, sau đó Nguyễn Nhạc thua và năm 1788 Nguyễn Nhạc tự hủy ngôi vua

Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc lần 2: Lại nói về Nguyễn Hữu Chỉnh sau khi ở lại thành Thăng Long thì lại trở mặt với Nguyễn Huệ, Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm (con rể của Nguyễn Nhạc) ra đánh Chỉnh. Sau khi Vũ Văn Nhậm diệt Chỉnh thì lại chuyên quyền chống đối Nguyễn Huệ.

4/1788 Vua Lê Chiêu Thông bỏ kinh đô đi lưu vong ở nhà Thanh kết thúc nhà Hậu Lê và thời kỳ Lê Hưu Trung. Nguyễn Huệ phải đích thân đem quân ra Bắc lần 2 diệt Nhậm và bình định Thăng Long và giao cho Ngô Thị Nhậm, Phan Huy Ích cai quản. Nguyễn Huệ đem quân về Phú Xuân

Vì mâu thuẫn này mà 8/1787 Nguyễn Ánh về nước tập hợp lực lượng tiến đánh Nam Bộ và Gia Định. Lúc này Nguyễn Nhạc lo đề phòng Quang Trung không tiếp viện miền Nam do Nguyễn Lữ phụ trách cuối cùng quân Tây Sơn lại mất Nam Bộ vào tay Nguyễn Ánh

Đánh phá quân Mãn Thanh

12/1788 Quân Thanh mang quan tiến đánh. Nguyễn Huê lại xuất quân ra bắc và lên ngôi Hoàng Đế của nước Đại Việt lấy niên hiệu là Quang Trung

Cuối 1/1789 vua Quang Trung đại phá quân Thanh chỉ trong vòng 6 ngày. Tiêu biểu có trận đánh Ngọc Hồi – Đống Đa

Đánh nước Vạn Tượng (Lào) và tàn dư họ Lê

Tàn dư họ Lê có Lê Duy Chi là em của Lê Duy Kỳ (Lê Chiêu Thống) kết hợp với các tù trưởng nước Vạn Tượng để nổi dậy. Lúc này Nguyễn Anh cũng kết nối với Lê Duy Chi để lập kế hoạch. Theo kế hoạch thì Lê Duy Chi sẽ đánh từ Cao Bằng, Vạn Tượng đánh từ Nghệ An, Nguyễn Ánh đánh từ Gia Định

1791 Quang Trung quyết định ra quân đánh dẹp quân Lê Duy Chi và tấn công vào nước Vạn Tượng tiến vào Viêng Chăn vua Vạn Tượng bỏ chạy. Nguyễn Ánh thấy thế k dám tiến quân cuối cùng quân Tây Sơn rút quân về Đại Việt vào đầu năm 1792

Kế hoạch đánh Gia Định thống nhất đất nước: theo kế hoạch thì Quang Trung sẽ đem 20-30 vạn quân tiến vào nam theo đường thủy và đường bộ. đường thủy đánh từ Hà Tiên lên, đường bộ thì đi theo đường núi qua Lào tấn công chiếm mặt sau Gia Định. Lúc này Nguyễn Ánh đang được tu sĩ Bá Đa Lộc người pháp và các Sĩ Quan người Pháp trợ giúp nhưng thấy có vẻ không chống cự nổi đanh tính bỏ trốn

Kế hoạch đang chuẩn bị thì 16/09/1792. Vua Quang Trung đột ngột qua đời

Sự sụp đổ nhà Tây Sơn: sau khi Nguyễn Huệ mất thì con trai là Nguyễn Quang Toản (vua Cảnh Thịnh) lên ngôi nhưng tuổi còn nhỏ, nhà Tây Sơn không có người tài lãnh đạo rơi vào suy thoái và nội bộ lục đục đấu đá đã giúp cho Nguyễn Ánh chớp thời cơ dần dần tiêu diệt nhà Tây Sơn

Giữa năm 1802 Nguyễn Ánh đem quân ra chiếm được thành Thăng Long bắt được Quang Toản và cho ngũ mã phanh thây, hài cốt của vua Quang Trung bị đào lên nghiền bột cho vào thuốc súng bắn đi. Tướng Trần Quang Diệu và Vợ Bùi Thị Xuân bị bắt. Bùi Thị Xuân và con Gái bị voi giày xéo, Trần Quang Diệu vì thờ mẹ 80 tuổi nên chỉ bị chém đầu

Năm 1802-1858. Nhà Nguyễn: 1802 Nguyễn Ánh lập ra nhà Nguyễn niên hiệu là Gia Long (Gia là Gia Định, Long là Thăng Long. Gia Long mang ý nghĩa thống nhất đất nước) và năm 1804 ông cho đổi tên nước từ Đại Việt thành VIỆT NAM. Kinh Đô chuyển về Huế kết thúc bằng vua Bảo Đại và năm 1858 Pháp nổ súng tấn công Việt Nam

Năm 1858-1945. thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp

Năm 1945-1975: cuộc chiến thống nhất đất nước
 
Tiếp.........
Năm 1778-1802 Nhà Tây Sơn: tiếp sau đời chúa Nguyễn thì khởi nghĩa Tây sơn do 3 anh em. Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ khởi nghĩa từ ấp Tây Sơn (Bình Định) đánh dẹp và chấm dứt thời ký Đàng Trong và Đàng Ngoài thống nhất đất nước. Năm 1778 Nguyễn Nhạc lên làm vua đến năm 1788 thì nhường ngôi cho Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ lên làm hoàng đế của Đại Việt niên hiệu là Quang Trung đống đô ở Nghệ An “Phượng Hoàng Trung Đô”

Thời kỳ nhà Tây sơn có thành tựu là mở mang bờ cõi về phía nam. Mở rộng lãnh thổ đất nước như ngày nay

Đến năm 1792 thì Nguyễn Huệ qua đời và Nguyễn Ánh tiến hành cuộc lật đổ nhà tây sơn lập ra nhà Nguyễn vào năm 1802 niên hiệu là Gia Long

Chi tiết cuộc khởi nghĩa Tây Sơn:

Tây Sơn khởi nghĩa:

năm 1771 Nguyễn Nhạc phất cờ khởi nghĩa mang danh nghĩa ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương (dòng tộc chúa Nguyễn) do lúc này quyền lực của Chúa Nguyễn rơi vào tay Trương Phúc Loan

năm 1773 Nguyễn Nhạc đánh thành Quy Nhơn, sau khi chiếm thành Quy Nhơn thì quân Tây Sơn tiến xuống phía nam đánh chiếm vùng đất từ Quãng Ngãi đến Bình Thuận

Quân Trịnh tham chiến

10/1774 sau 100 năm chúa Trịnh hòa bình với chúa Nguyễn thì sai quân vào đánh Phú Xuân (huế) cũng với danh nghĩa trừng phạt Trương Phúc Loan. Chúa Nguyễn thất thủ chạy về Quảng Nam thì bị quân Tây Sơn đánh ra ở thế kìm kẹp và phải vượt biển trốn vào Gia Định (Sài Gòn)

5/1775 thì Tống Phước Hiệp tiến quân từ Nam ra đánh Tây Sơn. Nguyễn Nhạc mất Phú Yên chỉ giữ lại dc Quy Nhơn và Quãng Ngãi. Quân Trịnh sau khi chiếm được Phú Xuân thì vượt Hải Vân tiến vào Nam. Quân Tây Sơn lúc này lại bị kẹp ở giữa và Nguyễn Nhạc đành phải xin giảng hòa với quân Trịnh trên danh nghĩa đầu hàng nhà Lê xin làm tướng tiên phong tiến vào Nam đi đánh chúa Nguyễn

7/1775 Nguyễn Nhạc phái Nguyễn Huệ đi đánh Phú Yên và chiếm được Phú Yên từ đây quân Tây Sơn được cũng cố

Tiến đánh Gia Định

1776-1783: lúc này quân Tây Sơn tạm yên với phía Bắc là quân Trịnh nên tập trung lực lượng tiến về Nam. Có 10 lần tiến đánh Gia Định

Trong năm 1778 sau khi cơ bản đã đánh thắng được quân Chúa Nguyễn (Nguyễn Ánh) thì Nguyễn Nhạc tự xưng làm vua

1782: tấn công cộng đồng người Hoa ở Gia Định vì từng trợ giúp quân Chúa Nguyễn tấn công Tây Sơn

Đánh bại quân Xiêm (Thái Lan) – Nguyễn

2/1784: Nguyễn Ánh sau khi thất bại thì qua cầu viện vua Xiêm. Vua Xiêm mang quân sang tấn công phía Nam và tấn công Gia Định

Gia Định bị tấn công Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ vào ứng cứu

1/1785 mở màn trận đánh Rạch Gầm – Xoài Mút: Nguyễn Huệ giàn quân ở Rạch Gầm giả vờ thua dụ quân Xiêm đuổi theo để rơi vào mai phục ở Xoài Mút. Kết quả quân Xiêm – Nguyễn thua tan tác. Nguyễn Huệ về lại Quy Nhơn để tướng ở lại cánh Gia Định

Lật đổ chúa Trịnh

Đánh chiếm Phú Xuân: 1786 Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ đánh úp Phú Xuân

Tiến ra Thăng Long: dưới sự thuyết phục của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ tiến quân ra Thăng Long để diệt họ Trịnh mặc dù chưa được sự đồng ý của Nguyễn Nhạc. Với danh nghĩa phù Lê Diệt Trịnh, Nguyễn Huệ nhanh chống đánh bại quân Trịnh vào thành Thăng Long yết kiến vua Lê Hiển Tông và có sự kiện vua Lê Hiển Tông gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ

Sau khi dẹp Trịnh thì Nguyễn Huệ đem Ngọc Hân về Nam để lại Nguyễn Hữu Chỉnh ở Thăng Long dẹp tàn dư họ Trịnh. Và lúc này Nguyễn Hữu Chỉnh lại lộng quyền

Mâu thuẫn anh em Tây Sơn:

Nguyễn Huệ vốn có tính toán tự lực phát triển vượt tầm kiểm soát của vua anh điển hình là đem quân đánh Trịnh mà chưa được phép của vua anh. 1787 Nguyễn Huệ mang quân đánh thành Quy Nhơn của Nguyễn Nhạc, sau đó Nguyễn Nhạc thua và năm 1788 Nguyễn Nhạc tự hủy ngôi vua

Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc lần 2: Lại nói về Nguyễn Hữu Chỉnh sau khi ở lại thành Thăng Long thì lại trở mặt với Nguyễn Huệ, Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm (con rể của Nguyễn Nhạc) ra đánh Chỉnh. Sau khi Vũ Văn Nhậm diệt Chỉnh thì lại chuyên quyền chống đối Nguyễn Huệ.

4/1788 Vua Lê Chiêu Thông bỏ kinh đô đi lưu vong ở nhà Thanh kết thúc nhà Hậu Lê và thời kỳ Lê Hưu Trung. Nguyễn Huệ phải đích thân đem quân ra Bắc lần 2 diệt Nhậm và bình định Thăng Long và giao cho Ngô Thị Nhậm, Phan Huy Ích cai quản. Nguyễn Huệ đem quân về Phú Xuân

Vì mâu thuẫn này mà 8/1787 Nguyễn Ánh về nước tập hợp lực lượng tiến đánh Nam Bộ và Gia Định. Lúc này Nguyễn Nhạc lo đề phòng Quang Trung không tiếp viện miền Nam do Nguyễn Lữ phụ trách cuối cùng quân Tây Sơn lại mất Nam Bộ vào tay Nguyễn Ánh

Đánh phá quân Mãn Thanh

12/1788 Quân Thanh mang quan tiến đánh. Nguyễn Huê lại xuất quân ra bắc và lên ngôi Hoàng Đế của nước Đại Việt lấy niên hiệu là Quang Trung

Cuối 1/1789 vua Quang Trung đại phá quân Thanh chỉ trong vòng 6 ngày. Tiêu biểu có trận đánh Ngọc Hồi – Đống Đa

Đánh nước Vạn Tượng (Lào) và tàn dư họ Lê

Tàn dư họ Lê có Lê Duy Chi là em của Lê Duy Kỳ (Lê Chiêu Thống) kết hợp với các tù trưởng nước Vạn Tượng để nổi dậy. Lúc này Nguyễn Anh cũng kết nối với Lê Duy Chi để lập kế hoạch. Theo kế hoạch thì Lê Duy Chi sẽ đánh từ Cao Bằng, Vạn Tượng đánh từ Nghệ An, Nguyễn Ánh đánh từ Gia Định

1791 Quang Trung quyết định ra quân đánh dẹp quân Lê Duy Chi và tấn công vào nước Vạn Tượng tiến vào Viêng Chăn vua Vạn Tượng bỏ chạy. Nguyễn Ánh thấy thế k dám tiến quân cuối cùng quân Tây Sơn rút quân về Đại Việt vào đầu năm 1792

Kế hoạch đánh Gia Định thống nhất đất nước: theo kế hoạch thì Quang Trung sẽ đem 20-30 vạn quân tiến vào nam theo đường thủy và đường bộ. đường thủy đánh từ Hà Tiên lên, đường bộ thì đi theo đường núi qua Lào tấn công chiếm mặt sau Gia Định. Lúc này Nguyễn Ánh đang được tu sĩ Bá Đa Lộc người pháp và các Sĩ Quan người Pháp trợ giúp nhưng thấy có vẻ không chống cự nổi đanh tính bỏ trốn

Kế hoạch đang chuẩn bị thì 16/09/1792. Vua Quang Trung đột ngột qua đời

Sự sụp đổ nhà Tây Sơn: sau khi Nguyễn Huệ mất thì con trai là Nguyễn Quang Toản (vua Cảnh Thịnh) lên ngôi nhưng tuổi còn nhỏ, nhà Tây Sơn không có người tài lãnh đạo rơi vào suy thoái và nội bộ lục đục đấu đá đã giúp cho Nguyễn Ánh chớp thời cơ dần dần tiêu diệt nhà Tây Sơn

Giữa năm 1802 Nguyễn Ánh đem quân ra chiếm được thành Thăng Long bắt được Quang Toản và cho ngũ mã phanh thây, hài cốt của vua Quang Trung bị đào lên nghiền bột cho vào thuốc súng bắn đi. Tướng Trần Quang Diệu và Vợ Bùi Thị Xuân bị bắt. Bùi Thị Xuân và con Gái bị voi giày xéo, Trần Quang Diệu vì thờ mẹ 80 tuổi nên chỉ bị chém đầu

Năm 1802-1858. Nhà Nguyễn: 1802 Nguyễn Ánh lập ra nhà Nguyễn niên hiệu là Gia Long (Gia là Gia Định, Long là Thăng Long. Gia Long mang ý nghĩa thống nhất đất nước) và năm 1804 ông cho đổi tên nước từ Đại Việt thành VIỆT NAM. Kinh Đô chuyển về Huế kết thúc bằng vua Bảo Đại và năm 1858 Pháp nổ súng tấn công Việt Nam

Năm 1858-1945. thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp

Năm 1945-1975: cuộc chiến thống nhất đất nước
Toàn chuyện hư cấu, mà hư cấu thì toàn là xạo Lồn, tao chỉ tin lịch sử vn từ thời nhà Nguyễn đến nay. còn trở về trước như lồn, xạo lồn.
 
Toàn chuyện hư cấu, mà hư cấu thì toàn là xạo lồn, tao chỉ tin lịch sử vn từ thời nhà Nguyễn đến nay. còn trở về trước như lồn, xạo lồn.
mày nên tìm hiểu lịch sử về các triều đại trước nhiều hơn sẽ thấy có nhiều cái thú vị. lịch sử ng ta có nghiên cứu hết mày à. đéo xạo Lồn dc hết lịch sử đâu. mày tin từ hồi nhà Nguyễn tới giờ thì mà tin luôn những gì về thời +sản hết à?
 
Tóm tắt: Suốt 4000 năm tồn tại, đéo cống hiến được cái lồn gì cho nhân loại, chỉ giỏi xạo lồn :shame:
lịch sử là dòng chảy thời gian là các sự kiện đã diễn ra trong suốt chiều dài tồn tại của ng Việt, liên quan đéo gì đến cống hiến/xạo Lồn hay k.
 
lịch sử là dòng chảy thời gian là các sự kiện đã diễn ra trong suốt chiều dài tồn tại của ng Việt, liên quan đéo gì đến cống hiến/xạo lồn hay k.
Cái năm sinh năm mất của các Vua Hùng là thấy xạo Lồn rồi, cứ bôi bôi ra cho giống với Tàu Khựa mới chịu :))
 
Cái năm sinh năm mất của các Vua Hùng là thấy xạo lồn rồi, cứ bôi bôi ra cho giống với Tàu Khựa mới chịu :))
VH làm đéo gì có năm sinh hả mày chỉ là ước lượng trong khoảng thời gian thôi. thời đó ng việt làm gì tồn tại chữ viết nều mày học thì nhớ ngày xưa ng ta gọi là văn hóa truyền miệng, thời đó chỉ là truyền thuyết thì mày hiểu rồi đó. chứ làm quái gì có mẹ âu cơ sinh bọc trăm trứng :)) nhưng thời kỳ đó là có thật chỉ là không thể xác định dc chính xác thời điểm mà thôi
 

Có thể bạn quan tâm

Top