Hàng nghìn năm qua, trong một thời gian lâu dài, nhân loại đã xem xét và tìm hiểu mối quan hệ giữa đạo Trời và người. Điều này cũng cấu thành nên thể hệ quan niệm tư tưởng của văn hóa phương Đông cổ xưa, thường được gọi là “Thiên mệnh quan”, nói theo cách hiện đại là “Thiên mệnh tư tưởng”. Thời đại thượng cổ, ba nhà Hạ, Thương, Chu được xem là thời kỳ sớm nhất có lưu lại tài liệu xác thực về lịch sử phát triển “Thiên mệnh quan”, đây cũng có thể nói là khởi nguồn của “Thiên mệnh quan” thời cổ đại.
Tư Mã Thiên là nhà sử học nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Hoa. Cuốn “Sử Ký” của ông được liệt vào hàng đầu trong “Nhị thập tứ sử”. Đây là bộ thông sử đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa, ghi chép tổng cộng hơn 3.000 năm lịch sử từ thời đại Hoàng Đế trong những truyền thuyết thượng cổ cho đến năm Thái Sơ thứ tư thời Hán Vũ Đế.
Rất nhiều người đều biết đến quá trình sáng tác “Sử Ký”. Năm đó đang trong lúc chuyên tâm bền chí viết Sử Ký, Tư Mã Thiên đã phạm tội với Hán Vũ Đế nên bị xử cung hình. Dù thống khổ và đầy phẫn nộ, nhưng nghĩ đến bộ “Sử Ký” chưa hoàn thành, Tư Mã Thiên đã bỏ đi ý định tự tử để sống tiếp.
Cái chết đối với một người có khi nặng tựa Thái Sơn, có khi nhẹ tựa lông hồng. Với cách nghĩ như vậy, trong lúc nhẫn chịu đau khổ và tủi nhục, Tư Mã Thiên đã dùng thời gian 18 năm để biên soạn sách. Vào năm 60 tuổi, cuối cùng ông đã hoàn thành bộ “Sử Ký” hoàn chỉnh bao gồm 520.000 chữ.
Rốt cuộc vì sao Tư Mã Thiên đã phải hao tốn hết thảy tâm huyết để hoàn thành bộ “Sử Ký” này? Nếu dùng lời của bản thân ông, mục đích chính là vì “Cứu thiên nhân chi tế, thông cổ kim chi biến, thành nhất gia chi ngôn” (Xem xét tìm hiểu mối quan hệ giữa trời và con người, thông hiểu biến hóa từ xưa đến nay, hình thành nên học thuyết của một gia) (Hán Thư, Truyện Mã Thiên).
Cái gọi là “cứu thiên nhân chi tế” chính là xem xét tìm hiểu mối quan hệ giữa đạo Trời và người. Kỳ thực, đây không chỉ là mục tiêu lớn nhất của Tư Mã Thiên và những sử gia cổ đại, mà còn là một chủ đề lớn nhất quán xuyến xuyên suốt từ đầu đến cuối trong văn hóa truyền thống.
Ví như Đổng Trọng Thư trong lúc đáp lại đối sách xử lý vấn đề của Hán Vũ Đế, ông nói: “Thần không dám khinh suất, trong Xuân Thu, xem sự việc đời trước mà biết được mối tương hỗ giữa Trời và người, ấy cũng là biết kính sợ vậy.”
“Mối tương hỗ giữa Trời và người” cũng chính là mối quan hệ giữa đạo Trời và người, đây chính là nội dung cơ bản trong đối sách của Đổng Trọng Thư.
Cùng thời với Đổng Trọng Thư còn có Tể tướng Công Tôn Hoằng thời Xuân Thu. Lúc kiến nghị Hán Vũ Đế mở trường học dạy Nho giáo, ông nói: “Chiếu thư mệnh lệnh cho bề tôi cần phải biết rõ giới hạn giữa Trời và người, thông hiểu ý nghĩa cổ kim, văn chương tao nhã, khuyên bảo sâu sắc.” (Sử Ký, Nho Lâm liệt truyện)
Những năm cuối thời Tây Hán, học giả Nho gia Dương Hùng từng nói: “Thánh nhân biết bồi dưỡng rèn luyện tinh thần tố chất, trở thành Đạo của thiên hạ, mang đến lợi ích cho bàng dân thiên hạ, làm hài hòa quan hệ giữa Trời và người, ấy là không còn gián cách nữa.” (Pháp Ngôn)
Đến thời Tam quốc Hán Ngụy, Hà Yến khen ngợi Vương Bật rằng: “Người này có thể cùng đàm luận về mối quan hệ giữa Trời và người.” (Thế Thuyết Tân Ngữ). Hà Yến có cuốn sách “Luận Ngữ Tập Giải”, ông cũng là người dẫn đầu trường phái Nho lâm đương thời.
Thời Bắc Tống có triết học gia tên là Thiệu Ung từng nói: “Học mà không biết quan hệ giữa Trời và người thì không đủ để gọi là học.” (Hoàng Cực Kinh Thế Thư)
Hàng nghìn năm qua, nhân loại đã xem xét và tìm hiểu mối quan hệ giữa đạo Trời với người. Nó cấu thành nên thể hệ quan niệm tư tưởng của văn hóa Trung Hoa. Người ta thường gọi là “Thiên mệnh quan”, hay cũng nói là “Thiên mệnh tư tưởng”. Thời đại thượng cổ ba nhà Hạ, Thương, Chu được xem là thời kỳ sớm nhất có lưu lại tài liệu xác thực về lịch sử phát triển “Thiên mệnh quan”, cũng có thể nói là khởi nguồn của “Thiên mệnh quan” thời cổ đại.
Quan niệm về Thượng Đế
Người thượng cổ Hạ, Thương, Chu đều tín Thần. Họ tin có Thần tự nhiên, Thần tổ tiên. Trong các vị Thần linh này lại có một vị Thần chí cao nắm giữ hết thảy mọi thứ của thế gian. Thời đại nhà Thương và nhà Chu, cách xưng hô đối với vị Thần này không hoàn toàn giống nhau. Người nhà Thương thường gọi vị Thần chí cao này là “Đế”, cũng có lúc gọi là “Thượng Đế”. Người nhà Chu phần lớn gọi vị Thần tối cao là “Trời”. Cho dù cách gọi không giống nhau nhưng nội hàm thực chất của “Đế”, “Thượng đế” và “Trời” là giống nhau, đều là để chỉ vị Thần chí cao.
Người thượng cổ thời nhà Hạ, Thương, Chu xem “Đế” và “Trời” là vị Thần chí cao trong tất cả các chư Thần. “Thượng Đế” không chỉ dưỡng dục vạn vật, mà còn nắm giữ quyết định hết thảy mọi thứ trong thế gian. Bất kể là gió mưa sấm chớp, hạn hán lũ lụt trong giới tự nhiên, sinh trưởng mùa màng, cho đến sự hưng thịnh suy bại của vương triều, phú quý bần hàn của con người, điềm cát hung họa phúc, không có thứ gì nằm ngoài sự an bài vận mệnh huyền diệu của “Đế” và “Trời”. Tất cả đều dựa vào Thiên ý và Thiên mệnh. Chủng nhận thức này đã cấu thành nên hạch tâm của “Thiên mệnh quan” thời kì thượng cổ nhà Hạ, Thương, Chu. Cũng có thể nói đây là “nguyên lý thứ nhất” của “Thiên mệnh quan”.
Lấy nhà Thương làm ví dụ, quốc vương và quý tộc thời đó không chỉ dùng giáp cốt (mai rùa, xương thú) để bói toán, mà còn điêu khắc kết quả bói toán lên giáp cốt. Chữ viết ghi chép kết quả bói toán trên giáp cốt là chữ viết sớm nhất của văn minh Trung Hoa. Đây cũng là những tư liệu nghiên cứu về “Thiên mệnh quan” của đời Thương. Từ những văn tự này có thể thấy được người nhà Thương sinh sống trong thời đại vạn vật đều có linh, tín phụng Thiên Thần, Địa Thần, nhân quỷ. Trong đó, Thiên Thần chính là hóa thân của những vật tự nhiên trên Thiên Thượng như mặt trời, mặt trăng, các vì sao, gió, mưa, sấm v.v.. Địa thần chính là hóa thân của những vật tự nhiên trên mặt đất như thổ địa, Thần đất và Thần lúa, núi, sông biển cho đến mọi thứ đều là Thần. Nhân quỷ chính là hóa thân những nhân vật trong lịch sử sau khi chết, bao gồm tổ tiên, tiên sư, công thần, cho đến những nhân vật lịch sử khác. “Đế” hay “Thượng Đế” gồm có Thần tự nhiên và Thần xã hội hợp lại, trừu tượng và thăng hoa, là những vị Thần siêu việt khỏi tự nhiên và xã hội con người thế gian. “Đế” hay “Thượng Đế” đứng trên cả Thiên thần, Địa thần và nhân quỷ.
Học giả Hồ Hậu Tuyên từng nói:
“Trong tâm mắt của người Ân (triều Thương), Thượng Đế tối cao nắm giữ đại tự nhiên như là gió mây mưa sấm chớp, hạn hán lũ lụt, quyết định sự sinh trưởng mùa màng, thu hoạch nông sản. Thượng Đế ở trên Thiên Thượng, có thể giáng xuống thành thị… Đế cũng ở trên Thiên Thượng, có thể giáng xuống nhân gian phúc họa bệnh tật, có thể trực tiếp bảo hộ hoặc giáng tội vua Ân. Thậm chí, Đế cũng có thể giáng xuống mệnh lệnh, chỉ huy hết thảy mọi thứ ở nhân gian. Vua Ân thường cử hành lễ tế tự, phỏng đoán theo ý chí của Đế mà làm.”
Cụ thể mà nói, “Đế” trước hết là có lực lượng siêu tự nhiên, có thể kêu mưa gọi gió, điều phối giới tự nhiên.
Quẻ bói của thời Vũ Đinh nói rằng: “Thượng Đế giáng hạn hán”.
Quẻ bói thời Tổ Canh, Tổ Giáp nói rằng: “Thượng Đế triển hiện ra” “Chỉ có năm trống.. Thượng Đế giống như vua… có bảo hộ”.
“Thượng Đế” cũng có thể được tìm thấy trong các quẻ bói như: “Thượng Đế sẽ làm mưa lớn trong tháng ba này”, “Thượng Đế làm sấm vào tháng mười ba này”, “Vào ngày mai, giờ Quý Mão, Thượng Đế không nổi gió, làm sương mù buổi tối.“
Thần lực của “Thượng Đế” vô cùng lớn, các chư Thần như mặt trời, mặt trăng, các vì sao, gió, mưa, sấm, chớp v.v. đều nghe theo chỉ huy của “Thượng Đế”. “Thượng Đế” có thể mệnh lệnh làm mưa xuống, nổi gió lên, làm sấm chớp.
Không chỉ như vậy, “Thượng Đế” còn khống chế xã hội nhân loại và ra lệnh chỉ huy hết thảy mọi thứ ở nhân gian. “Thượng Đế” còn có thể truyền gọi mệnh lệnh, can thiệp vào hết thảy mọi việc ở nhân gian, từ việc tạo thành tai họa cho đến bảo hộ nhân gian.
Quẻ bói có nói: “Bói Mậu Thân, bói khuyên răn, Thượng Đế sẽ giáng vận đen cho tôi trong một tháng”, “Thượng Đế sẽ giáng tai họa xuống”, “Thượng Đế sẽ tận diệt thành thị”…
Ý tứ của những quẻ bói này là “Thượng Đế” sẽ tạo ra tai nạn và nguy hại cho con người.
Lại có quẻ bói nói: “Chỉ có Thượng Đế mới tu chỉnh được vua”, “Vua xây thành, Thượng Đế bảo hộ”, “Năm tới, Thượng Đế giáng xuống sự vĩnh cửu cho gia tộc Tổ Ất, bốc quẻ cho tháng mười”, “Thượng Đế ban phước lành”.
Ý tứ các quẻ bói này là “Thượng Đế” có thể bảo hộ và ban phúc cho con người.
Bởi vì “Thượng Đế” nắm giữ sự thành bại trong việc chinh phạt bên ngoài, có thể bảo hộ và trừng phạt vua Ân, nắm giữ điềm cát hung họa phúc của vua Ân, nên mỗi lần vua Ân xuất chinh thì điều đầu tiên phải làm là bốc quẻ hỏi xin ý chỉ bảo hộ của “Thượng Đế”.
Tư Mã Thiên là nhà sử học nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Hoa. Cuốn “Sử Ký” của ông được liệt vào hàng đầu trong “Nhị thập tứ sử”. Đây là bộ thông sử đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa, ghi chép tổng cộng hơn 3.000 năm lịch sử từ thời đại Hoàng Đế trong những truyền thuyết thượng cổ cho đến năm Thái Sơ thứ tư thời Hán Vũ Đế.
Rất nhiều người đều biết đến quá trình sáng tác “Sử Ký”. Năm đó đang trong lúc chuyên tâm bền chí viết Sử Ký, Tư Mã Thiên đã phạm tội với Hán Vũ Đế nên bị xử cung hình. Dù thống khổ và đầy phẫn nộ, nhưng nghĩ đến bộ “Sử Ký” chưa hoàn thành, Tư Mã Thiên đã bỏ đi ý định tự tử để sống tiếp.
Cái chết đối với một người có khi nặng tựa Thái Sơn, có khi nhẹ tựa lông hồng. Với cách nghĩ như vậy, trong lúc nhẫn chịu đau khổ và tủi nhục, Tư Mã Thiên đã dùng thời gian 18 năm để biên soạn sách. Vào năm 60 tuổi, cuối cùng ông đã hoàn thành bộ “Sử Ký” hoàn chỉnh bao gồm 520.000 chữ.
Rốt cuộc vì sao Tư Mã Thiên đã phải hao tốn hết thảy tâm huyết để hoàn thành bộ “Sử Ký” này? Nếu dùng lời của bản thân ông, mục đích chính là vì “Cứu thiên nhân chi tế, thông cổ kim chi biến, thành nhất gia chi ngôn” (Xem xét tìm hiểu mối quan hệ giữa trời và con người, thông hiểu biến hóa từ xưa đến nay, hình thành nên học thuyết của một gia) (Hán Thư, Truyện Mã Thiên).
Cái gọi là “cứu thiên nhân chi tế” chính là xem xét tìm hiểu mối quan hệ giữa đạo Trời và người. Kỳ thực, đây không chỉ là mục tiêu lớn nhất của Tư Mã Thiên và những sử gia cổ đại, mà còn là một chủ đề lớn nhất quán xuyến xuyên suốt từ đầu đến cuối trong văn hóa truyền thống.
Ví như Đổng Trọng Thư trong lúc đáp lại đối sách xử lý vấn đề của Hán Vũ Đế, ông nói: “Thần không dám khinh suất, trong Xuân Thu, xem sự việc đời trước mà biết được mối tương hỗ giữa Trời và người, ấy cũng là biết kính sợ vậy.”
“Mối tương hỗ giữa Trời và người” cũng chính là mối quan hệ giữa đạo Trời và người, đây chính là nội dung cơ bản trong đối sách của Đổng Trọng Thư.
Cùng thời với Đổng Trọng Thư còn có Tể tướng Công Tôn Hoằng thời Xuân Thu. Lúc kiến nghị Hán Vũ Đế mở trường học dạy Nho giáo, ông nói: “Chiếu thư mệnh lệnh cho bề tôi cần phải biết rõ giới hạn giữa Trời và người, thông hiểu ý nghĩa cổ kim, văn chương tao nhã, khuyên bảo sâu sắc.” (Sử Ký, Nho Lâm liệt truyện)
Những năm cuối thời Tây Hán, học giả Nho gia Dương Hùng từng nói: “Thánh nhân biết bồi dưỡng rèn luyện tinh thần tố chất, trở thành Đạo của thiên hạ, mang đến lợi ích cho bàng dân thiên hạ, làm hài hòa quan hệ giữa Trời và người, ấy là không còn gián cách nữa.” (Pháp Ngôn)
Đến thời Tam quốc Hán Ngụy, Hà Yến khen ngợi Vương Bật rằng: “Người này có thể cùng đàm luận về mối quan hệ giữa Trời và người.” (Thế Thuyết Tân Ngữ). Hà Yến có cuốn sách “Luận Ngữ Tập Giải”, ông cũng là người dẫn đầu trường phái Nho lâm đương thời.
Thời Bắc Tống có triết học gia tên là Thiệu Ung từng nói: “Học mà không biết quan hệ giữa Trời và người thì không đủ để gọi là học.” (Hoàng Cực Kinh Thế Thư)
Hàng nghìn năm qua, nhân loại đã xem xét và tìm hiểu mối quan hệ giữa đạo Trời với người. Nó cấu thành nên thể hệ quan niệm tư tưởng của văn hóa Trung Hoa. Người ta thường gọi là “Thiên mệnh quan”, hay cũng nói là “Thiên mệnh tư tưởng”. Thời đại thượng cổ ba nhà Hạ, Thương, Chu được xem là thời kỳ sớm nhất có lưu lại tài liệu xác thực về lịch sử phát triển “Thiên mệnh quan”, cũng có thể nói là khởi nguồn của “Thiên mệnh quan” thời cổ đại.
Quan niệm về Thượng Đế
Người thượng cổ Hạ, Thương, Chu đều tín Thần. Họ tin có Thần tự nhiên, Thần tổ tiên. Trong các vị Thần linh này lại có một vị Thần chí cao nắm giữ hết thảy mọi thứ của thế gian. Thời đại nhà Thương và nhà Chu, cách xưng hô đối với vị Thần này không hoàn toàn giống nhau. Người nhà Thương thường gọi vị Thần chí cao này là “Đế”, cũng có lúc gọi là “Thượng Đế”. Người nhà Chu phần lớn gọi vị Thần tối cao là “Trời”. Cho dù cách gọi không giống nhau nhưng nội hàm thực chất của “Đế”, “Thượng đế” và “Trời” là giống nhau, đều là để chỉ vị Thần chí cao.
Người thượng cổ thời nhà Hạ, Thương, Chu xem “Đế” và “Trời” là vị Thần chí cao trong tất cả các chư Thần. “Thượng Đế” không chỉ dưỡng dục vạn vật, mà còn nắm giữ quyết định hết thảy mọi thứ trong thế gian. Bất kể là gió mưa sấm chớp, hạn hán lũ lụt trong giới tự nhiên, sinh trưởng mùa màng, cho đến sự hưng thịnh suy bại của vương triều, phú quý bần hàn của con người, điềm cát hung họa phúc, không có thứ gì nằm ngoài sự an bài vận mệnh huyền diệu của “Đế” và “Trời”. Tất cả đều dựa vào Thiên ý và Thiên mệnh. Chủng nhận thức này đã cấu thành nên hạch tâm của “Thiên mệnh quan” thời kì thượng cổ nhà Hạ, Thương, Chu. Cũng có thể nói đây là “nguyên lý thứ nhất” của “Thiên mệnh quan”.
Lấy nhà Thương làm ví dụ, quốc vương và quý tộc thời đó không chỉ dùng giáp cốt (mai rùa, xương thú) để bói toán, mà còn điêu khắc kết quả bói toán lên giáp cốt. Chữ viết ghi chép kết quả bói toán trên giáp cốt là chữ viết sớm nhất của văn minh Trung Hoa. Đây cũng là những tư liệu nghiên cứu về “Thiên mệnh quan” của đời Thương. Từ những văn tự này có thể thấy được người nhà Thương sinh sống trong thời đại vạn vật đều có linh, tín phụng Thiên Thần, Địa Thần, nhân quỷ. Trong đó, Thiên Thần chính là hóa thân của những vật tự nhiên trên Thiên Thượng như mặt trời, mặt trăng, các vì sao, gió, mưa, sấm v.v.. Địa thần chính là hóa thân của những vật tự nhiên trên mặt đất như thổ địa, Thần đất và Thần lúa, núi, sông biển cho đến mọi thứ đều là Thần. Nhân quỷ chính là hóa thân những nhân vật trong lịch sử sau khi chết, bao gồm tổ tiên, tiên sư, công thần, cho đến những nhân vật lịch sử khác. “Đế” hay “Thượng Đế” gồm có Thần tự nhiên và Thần xã hội hợp lại, trừu tượng và thăng hoa, là những vị Thần siêu việt khỏi tự nhiên và xã hội con người thế gian. “Đế” hay “Thượng Đế” đứng trên cả Thiên thần, Địa thần và nhân quỷ.
Học giả Hồ Hậu Tuyên từng nói:
“Trong tâm mắt của người Ân (triều Thương), Thượng Đế tối cao nắm giữ đại tự nhiên như là gió mây mưa sấm chớp, hạn hán lũ lụt, quyết định sự sinh trưởng mùa màng, thu hoạch nông sản. Thượng Đế ở trên Thiên Thượng, có thể giáng xuống thành thị… Đế cũng ở trên Thiên Thượng, có thể giáng xuống nhân gian phúc họa bệnh tật, có thể trực tiếp bảo hộ hoặc giáng tội vua Ân. Thậm chí, Đế cũng có thể giáng xuống mệnh lệnh, chỉ huy hết thảy mọi thứ ở nhân gian. Vua Ân thường cử hành lễ tế tự, phỏng đoán theo ý chí của Đế mà làm.”
Cụ thể mà nói, “Đế” trước hết là có lực lượng siêu tự nhiên, có thể kêu mưa gọi gió, điều phối giới tự nhiên.
Quẻ bói của thời Vũ Đinh nói rằng: “Thượng Đế giáng hạn hán”.
Quẻ bói thời Tổ Canh, Tổ Giáp nói rằng: “Thượng Đế triển hiện ra” “Chỉ có năm trống.. Thượng Đế giống như vua… có bảo hộ”.
“Thượng Đế” cũng có thể được tìm thấy trong các quẻ bói như: “Thượng Đế sẽ làm mưa lớn trong tháng ba này”, “Thượng Đế làm sấm vào tháng mười ba này”, “Vào ngày mai, giờ Quý Mão, Thượng Đế không nổi gió, làm sương mù buổi tối.“
Thần lực của “Thượng Đế” vô cùng lớn, các chư Thần như mặt trời, mặt trăng, các vì sao, gió, mưa, sấm, chớp v.v. đều nghe theo chỉ huy của “Thượng Đế”. “Thượng Đế” có thể mệnh lệnh làm mưa xuống, nổi gió lên, làm sấm chớp.
Không chỉ như vậy, “Thượng Đế” còn khống chế xã hội nhân loại và ra lệnh chỉ huy hết thảy mọi thứ ở nhân gian. “Thượng Đế” còn có thể truyền gọi mệnh lệnh, can thiệp vào hết thảy mọi việc ở nhân gian, từ việc tạo thành tai họa cho đến bảo hộ nhân gian.
Quẻ bói có nói: “Bói Mậu Thân, bói khuyên răn, Thượng Đế sẽ giáng vận đen cho tôi trong một tháng”, “Thượng Đế sẽ giáng tai họa xuống”, “Thượng Đế sẽ tận diệt thành thị”…
Ý tứ của những quẻ bói này là “Thượng Đế” sẽ tạo ra tai nạn và nguy hại cho con người.
Lại có quẻ bói nói: “Chỉ có Thượng Đế mới tu chỉnh được vua”, “Vua xây thành, Thượng Đế bảo hộ”, “Năm tới, Thượng Đế giáng xuống sự vĩnh cửu cho gia tộc Tổ Ất, bốc quẻ cho tháng mười”, “Thượng Đế ban phước lành”.
Ý tứ các quẻ bói này là “Thượng Đế” có thể bảo hộ và ban phúc cho con người.
Bởi vì “Thượng Đế” nắm giữ sự thành bại trong việc chinh phạt bên ngoài, có thể bảo hộ và trừng phạt vua Ân, nắm giữ điềm cát hung họa phúc của vua Ân, nên mỗi lần vua Ân xuất chinh thì điều đầu tiên phải làm là bốc quẻ hỏi xin ý chỉ bảo hộ của “Thượng Đế”.