• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Có Hình Mỗi ngày một câu pháp cú

Kệ ngày hôm nay:

Kệ số 167: Hãy từ bỏ tham vọng thấp hèn
___________________

Các câu kệ đã đăng:

Nhìn một đống xương thì có gì thích thú (149)
Sống không biết hổ thẹn là dễ, sống đời khiêm tốn là khó (244, 245)
Rỉ sét (241)
Hãy tiêu trừ chướng ngại (200)
Ai gây tổn hại cho người vô tội sẽ chịu khổ đau (125)
Vẻ bề ngoài không làm con người trở nên lương thiện (262, 263)
Chuyên cần dẫn đến quyền tối thượng (30)
Không thể theo dấu thức tái sanh của một vị A-La-Hán (57)
Hãy kết thân với thiện tri thức (78)
Con đường tới Niết-bàn khác con đường danh lợi (75)
Người hành ác đi đến phiền não (69)
__________________

t vốn là người sơ cơ chứ không hiểu sâu biết rộng như nhiều anh em trên này.
Mấy nay đọc Kinh Pháp Cú thấy hay quá nên muốn chia sẻ để mọi người cùng đọc.

t sẽ cố gắng đều đặn mỗi ngày post một câu pháp cú vào buổi sáng sớm để anh em cùng đọc và chiêm nghiệm bên ly cà phê sáng.

t sẽ lựa chọn các bản dịch mà t cho là dễ hiểu nhất, cả Việt lẫn Anh, kèm theo tranh minh họa và tóm tắt tích truyện.

Có 423 câu pháp cú tất cả.
Để cho thú vị, t sẽ không post theo thứ tự mà sẽ dùng random.org để chọn ngẫu nhiên một câu bất kỳ cho mỗi ngày.
Nếu trùng những câu đã post rồi thì sẽ chọn đến lúc hết trùng thì thôi.

_______

Mở đầu là câu kệ số 149 - Nhìn một đống xương thì có gì thích thú:

Như trái bầu mùa thu,
Bị vất bỏ quăng đi,
Nhóm xương trắng bồ câu,
Thấy chúng còn vui gì?

Thơ hóa:

Mùa thu, nhìn trái bầu khô,
Người ta quăng bỏ vất vơ xó đường.
Như bồ câu trắng - trắng xương,
Quý gì? thích thú, mà trương mắt nhìn?!

English:

These dove-grey bones are tossed away like dried gourds in the autumn — what joy is there in such a sight?

Tóm tắt tích truyện:

Sau một thời gian tự tu tập trong rừng, một nhóm các tỳ-kheo đã đắc thiền, tự cho rằng mình đã chứng ngộ quả vị A-La-Hán, đoạn tuyệt hoàn toàn được tham ái, nên tìm đến Đức Phật để trình báo về quả vị mà mình đạt được.

Khi vừa về tới cổng tịnh xá, Đức Phật nói ngài Ananda dẫn các vị tỳ-kheo này ra nghĩa địa.

Tại nghĩa địa, có những tử thi đặt nằm dưới đất. Trước những thi hài mới chết, các vị tỳ-kheo thấy có lòng tham ái khởi sinh trong tâm, chợt nhận ra sự ngộ nhận của mình.

Đức Phật đọc câu kệ trên để giảng dạy.



Seeing bleached human bones lying all around, how could there be delight in sensuality.
Hẹn gặp anh em vào ngày mai!
 
Sửa lần cuối:
Chào buổi sáng,
Hôm nay random được số 245. Do hai câu kệ 244, 245 có nội dung liên quan đến nhau nên t sẽ post cả hai câu luôn.
Chúc anh em tuần mới làm việc hiệu quả, tránh xa các ác pháp, làm được thật nhiều thiện pháp!

Kệ số 244 - 245:

Sống đời của người không biết hổ thẹn, trơ trẽn như loài quạ, cắn trộm sau lưng, tự phụ kiêu căng, xấc xược ngã mạn, và ô nhiễm, là dễ.
Sống đời của người khiêm tốn, luôn luôn tìm sự tinh khiết, có tâm dứt bỏ, nhún nhường, sống đời trong sạch và suy niệm, là khó.

_____

Một bản dịch khác:

Dễ thay sống trơ tráo,
Lỗ mãng như quạ diều,
Miệng bêu rêu, ngạo mạn.
Lòng ô nhiễm, tự kiêu.

Khó thay sống khiêm tốn.
Thanh tịnh tâm vô tư,
Giản dị đời trong sạch,
Sáng suốt trọn kiếp người.
_____

English:

Easy is the life of a shameless one
who is as impudent as a crow,
back-biting, presumptuous,
arrogant, and corrupt.

Hard is the life of a modest one
who ever seeks purity, is detached,
humble, clean in life, and reflective.

_____

Tóm tắt tích truyện:

Pháp Cú này được Đức Thế Tôn thuyết lên, khi Ngài ngự tại Jetavana, đề cập đến Tỳ-kheo Cūḷasāri là đệ tử theo hầu Đại Đức Sāriputta.

Tương truyền rằng: Một ngày nọ, sau khi làm nghề thầy thuốc, Tỳ-kheo Cūlasāri được dâng cúng thực phẩm ngon quý, đang ôm bát ra cổng thành, giữa đường gặp Đại Đức, bèn thưa rằng:

– Bạch Ngài, vật thực này con có được nhờ làm y sĩ. Ở nơi khác Ngài sẽ không có được loại vật thực này đâu. Xin thầy hãy thọ dụng vật thực này. Với nghề thầy thuốc, con sẽ cúng dường Ngài vật thực ngon quý như vậy luôn luôn.

Đại Đức nghe dứt mấy lời của đệ tử, Ngài im lặng bỏ đi luôn. Chư Tỳ-kheo về đến chùa, đem chuyện này bạch với Đức Thế Tôn. Ngài dạy rằng:

– Này các Tỳ-kheo, người xuất gia mà vô tàm vô quý, giống như con quạ, sống theo pháp tà mạng để được sung sướng. Còn bậc có đầy đủ tàm quý thì hằng sống vất vả cực khổ.

Nói rồi, Ngài đọc câu kệ trên.
_____

t xin được giải thích thêm một chút:

1. "tàm" và "quý" là từ Hán - Việt
"tàm" nghĩa là "hổ thẹn tội lỗi", "quý" nghĩa là "ghê sợ tội lỗi"

2. Đối với người cư sĩ thì làm y sĩ để kiếm ăn là chánh mạng (nghề nghiệp chân chính để nuôi thân), nhưng đối với người xuất gia thì ngoài khất thực ra, làm các nghề nghiệp khác để kiếm ăn thì đều được coi là tà mạng.

_____



Shamelessly like a crow a man easily lives. In his arrogance, avarice and ambition he stinks.


Guarded by shame,’tis difficult living, being care-free and pure in one’s ways.
 
Rỉ sét
Kệ số 241:


Không tụng niệm là rỉ sét của kinh sách
Không siêng năng là rỉ sét của nhà cửa
Lười biếng là bợn nhơ của sắc đẹp
Bất cẩn là sơ hở của người canh phòng

Thơ hóa:

Không tụng niệm: Rỉ sét kinh!
Không chùi lau: Rỉ sét sinh cửa nhà!
Biếng nhác: Sắc đẹp rỉ nhòa!
Canh phòng sơ hở, rỉ trà trộn ngay!

English:

Not reciting is the stain of hymns.
The stain of houses is neglect.
Laziness is the stain of beauty.
A guard’s stain is negligence.

Tóm tắt tích truyện:

Một thầy Tỳ-kheo thấy hai vị đại đệ tử được tán dương về công đức truyền bá Giáo Pháp thì đem lòng ganh tỵ. Thầy tự phụ là có đầy đủ khả năng thuyết Pháp như hai Ngài đại đệ tử. Nhưng khi được thỉnh lên để chứng minh tài năng thì thầy không làm được. Nhân đó Ðức Phật đọc câu kệ trên.

 
Hãy tiêu trừ chướng ngại

Kệ số 200:


Lành thay ta vui sống,
Không chướng ngại ngấm ngầm,
Tận hưởng nguồn hỷ lạc,
Như chư thiên Quang Âm.

Một bản dịch khác:

Hạnh phúc thay, Như Lai sống không bị chướng ngại [1]. Dưỡng nuôi hỷ lạc, Như Lai lúc nào cũng như các vị Trời ở cảnh Quang Âm Thiên.

[1] - Chướng ngại (kiñcana): là những trở ngại cho sự tiến bộ tinh thần như Tham, Sân, Si.

English:

Oh so happily we live,
we who have nothing.
We will feed on bliss,
like the radiant angels.

Another English translation:

We live truly happily enough having no possessions ourselves,
we will feed on joy like the gods of Streaming Light.

Tóm tắt tích truyện:

Một ngày nọ, Ðức Phật vào thôn xóm khất thực. Do sự can thiệp khuấy phá của Ma Vương, hôm ấy Ðức Phật không có gì để ngọ trai. Ma Vương bạch hỏi Ngài có nghe đói bụng không? Ðức Phật giải thích thái độ tinh thần của người đã thoát ra khỏi mọi chướng ngại.


Possessionless we live in great happiness. Sustained by joy are we like heavenly beings.
 
Nghiên cứu thử bộ Minh giải Dhammapada này xem, tập 1 chỉ 20 câu kệ ngôn của Phẩm Song Yếu mà tận 500 trang.

Dhammapada nhìn qua có vẻ đơn giản là những câu kệ ngôn ngắn nhưng rất sâu sắc, rất nhiều kiến thức giáo lý trong đó.

 
Nghiên cứu thử bộ Minh giải Dhammapada này xem, tập 1 chỉ 20 câu kệ ngôn của Phẩm Song Yếu mà tận 500 trang.

Dhammapada nhìn qua có vẻ đơn giản là những câu kệ ngôn ngắn nhưng rất sâu sắc, rất nhiều kiến thức giáo lý trong đó.

Sách quý quá, phân tích rất chi tiết. Cảm ơn ông nhé.
 
Ai gây tổn hại cho người vô tội sẽ chịu khổ đau

Kệ số 125:


Hại người không ác tâm,
Thanh tịnh và vô tội,
Tội ác dội kẻ ngu,
Như ngược gió tung bụi.

Một bản dịch khác:


Kẻ nào xâm phạm người ôn hòa, trong sạch, và vô tội, quả dữ sẽ dội trở lại kẻ cuồng dại ấy, như tung cát bụi ngược chiều gió.


English:

If one abuses a faultless, pure, and flawless person,
then evil will come back to that fool,
like fine dust thrown against the wind.

Tóm tắt tích truyện:

Một người thợ săn nọ vào rừng đi săn cùng với bầy chó. Trên đường đi, anh gặp một tăng sĩ. Trọn suốt buổi anh không săn được gì.

Lúc trở về, anh gặp lại vị tăng sĩ. Nghĩ rằng vì gặp nhà sư nên bị xui không săn được gì, anh nổi giận xua chó vồ vị tăng sĩ vô tội. Vị Tỳ-kheo hoảng sợ, trèo lên cây thoát thân. Tên thợ săn chưa hả giận, bắn một mũi tên trúng vào gót chân nhà sư. Nhà sư bị đau, loay hoay làm rơi cái y xuống, trùm lên mình tên thợ săn. Ðoàn chó dữ thấy có người lúng túng trong cái y, ngỡ rằng vị tăng sĩ từ trên cây đã rơi xuống, áp lại cắn tên thợ săn đến chết.

Vị Tỳ-kheo thoát nạn trở về hầu Phật và thắc mắc không biết hành động như vậy thầy có tạo ác nghiệp hay không. Ðức Phật rọi sáng cho thầy và mô tả hậu quả xấu càng tăng trưởng thêm của kẻ nhẫn tâm gây tổn hại cho người ôn hòa, vô tội.


Whatever evil act is done against a virtuous person its evil will boomerang on the doer.
 
Vẻ bề ngoài không làm con người trở nên lương thiện

Kệ số 262 - 263:


Không phải nói lưu loát,
Không phải sắc mặt đẹp,
Thành được người lương thiện,
Nếu ganh, tham, dối trá.

Ai cắt được, phá được,
Tận gốc nhổ tâm ấy,
Người trí ấy diệt sân,
Ðược gọi người hiền thiện.

English:

Not by mere eloquence,
nor by handsome appearance,
does a man become good-natured,
if he is jealous, selfish, and deceitful.

But in whom these are wholly cut off, uprooted and extinct,
that wise man who is purged of hatred,
is, indeed, called good-natured.

Tóm tắt tích truyện:

Vài vị sư và Sa-di trẻ tuổi tỏ ra cung kính thầy mình, làm các việc như: giặt, nhuộm y, và làm việc lặt vặt hộ các Ngài.
Có vài vị sư cao hạ hơn và thuyết Pháp giỏi hơn ông thầy ấy mà không được tôn trọng bằng nên sanh lòng ganh tỵ nên bàn với nhau rằng:

- Chúng ta tuy có tài thuyết pháp nói đạo nhưng rốt cuộc chẳng được ai phục dịch cả… Hay là bây giờ chúng ta hãy đến bạch với Đức Bổn Sư như thế này: Bạch Ngài, chúng con thông thạo về Kinh điển, Phật ngôn. Xin Ngài ra chỉ thị cho các Tỳ-kheo trẻ và các Sa di rằng: “Dầu học Pháp với thầy khác, các con cũng phải đến nhờ các thầy này bổ túc cho rồi mới nên ôn tập”. Làm như vậy, ắt lễ lộc chúng ta sẽ tăng trưởng.

Hiểu biết lý do thấp hèn đã thúc đẩy các thầy Tỳ-kheo ganh tỵ, Ðức Phật đọc hai câu kệ trên.


Jealous, selfish, deceitful, he is no virtuous man tho’ fluent in speech and handsome in form.


With evil routed out, possessed of wisdom and void of stains, wholesome is he called.
 
Chuyên cần dẫn đến quyền tối thượng
Kệ số 30


Ðế Thích đạt thiên vương,
Nhờ tinh cần đi tới,
Tinh cần được ca ngợi,
Buông lung bị trách chê.

Dịch nghĩa:

Đức Trời Đế Thích (Maghavā) đi đến vị trí hàng đầu trong số chư Thiên nhờ sự không xao lãng. (Người người) ngợi ca sự không xao lãng, sự xao lãng luôn luôn bị quở trách.

English:

Maghavā became chief of the gods by means of diligence. People praise diligence, while negligence is always deplored.

Tóm tắt tích truyện:

Tiền kiếp của Đức Trời Đế Thích là một người bình thường tên là Maghavā. Khi còn sống, Maghavā luôn cố gắng nỗ lực, phục vụ bất cầu lợi, hành trì theo 7 hạnh nguyện:

1. Hạnh nguyện suốt đời phụng dưỡng cha mẹ.
2. Suốt đời tôn kính các bậc trưởng thượng.
3. Hạnh nguyện suốt đời nói lời chân thật.
4. Hạnh nguyện suốt đời không nói lời đâm thọc.
5. Hạnh nguyện suốt đời rửa lòng thật sạch bợn nhơ bỏn xẻn, là người tại gia cư sĩ mà xả bỏ của cải bố thí không chút luyến tiếc, để đáp ứng nhu cầu của kẻ đến xin.
6. Hạnh nguyện suốt đời nói lời dịu ngọt.
7. Hạnh nguyện suốt đời không phẫn nộ, nếu có sân hận nổi lên thì mau dập tắt.

nên sau khi chết được tái sinh làm vua một cõi trời.

Chi tiết về câu chuyện của Maghavā có thể tìm đọc ở đây.


Heedfulness made Magha the king of devas. Heedfulness is forever praised.
 
Không thể theo dấu thức tái sanh của một vị A-La-Hán

Kệ số 57

Những ai sống đức hạnh,
Cẩn trọng và trang nghiêm,
Giải thoát bằng chánh trí,
Ác ma không thể tìm.

Dịch nghĩa:
Đối với những người có giới đã được thành tựu, an trú vào sự không xao lãng, đã được giải thoát nhờ vào sự hiểu biết chân chánh, Ma Vương không tìm thấy đạo lộ của những người ấy.

English:

The path of those who have perfect virtue, live without negligence, and are liberated through right knowledge cannot be found by Māra.

Tóm tắt tích truyện:

Ðại đức Godhika, thất vọng vì bệnh hoạn, toan tự cắt cổ bằng dao cạo, nhưng liền trước khi chết Ngài phát triển minh sát, chứng ngộ Niết-bàn. Ma vương cố tìm coi thức tái sanh của Ngài đi về đâu. Ðức Phật ghi nhận rằng Ma vương không thể tìm thấy dấu vết thức tái sanh của một vị A-La-Hán.


Of the diligent and the virtuous totally freed through wisdom, death never tracks the path.



 
Sửa lần cuối:
Hãy kết thân với thiện tri thức

Kệ số 78:


Chớ thân với bạn ác,
Chớ thân kẻ tiểu nhân,
Hãy thân người bạn lành,
Hãy thân bậc thượng nhân.

Một bản dịch khác:

Không nên giao thiệp với những bạn xấu, không nên giao thiệp với những người đê tiện.
Nên giao thiệp với những người bạn lành, nên giao thiệp với những người cao thượng.

English:

Associate not with evil friends,
associate not with mean men;
associate with good friends,
associate with noble men.

Tóm tắt tích truyện:

Ðại đức Sa Nặc (Channa), trước kia là người đánh xe cho Thái Tử Sĩ Ðạt Ta (Siddhattha) tỏ ra thật kỳ khôi, khó dạy, và thường ương ngạnh với hai vị đại đệ tử của Ðức Phật. Ba lần Ðức Phật khuyên dạy thầy về sự lợi ích có bạn tốt và lưu ý rằng hai vị đại đệ tử là bạn tốt nhất của thầy.


Associate not with the wicked and the evil. Seek the company of noble and virtuous friends.
 
Con đường Niết-bàn khác con đường danh lợi

Kệ số 75

Ðường này đến thế gian.
Ðường kia đến Niết bàn.
Tỳ kheo, đệ tử Phật,
Phải ý thức rõ ràng.
Ðừng đắm say thế lợi.
Hãy tu hạnh ly tham.


Dịch nghĩa:

Chắc như vậy, con đường dẫn đến lợi lộc của trần gian là một, và dẫn đến Niết-bàn là con đường khác.
Thông hiểu như thế, thầy Tỳ-kheo, đệ tử Phật, không nên thỏa thích trong mùi danh bã lợi của thế gian mà phải trau dồi tâm dứt bỏ.

English:

Surely the path that leads to worldly gain is one, and the path that leads to Nibbaana is another.
Understanding this, the bhikkhu, the disciple of the Buddha, should not rejoice in worldly favours, but cultivate detachment.

Tóm tắt tích truyện:


Vị Sa-di kia xuất thân từ một gia đình khả kính, được thiện tín tới tấp dâng lễ vật cúng dường. Nhưng ông chẳng màng, từ chối tất cả, chấp nhận đời sống đơn độc và nghèo nàn ở chốn rừng sâu. Một ngày tươi sáng nọ vị Sa-di thành đạt đạo quả A-La-Hán. Các vị Tỳ-kheo hết lời tán dương phẩm hạnh gương mẫu của Ngài. Nghe câu chuyện, Ðức Phật mô tả hai con đường khác nhau, một dẫn đến lợi lộc và một đến Niết-bàn.


The true disciple should know the path to worldly gain as one and that to Nibbāna as another.
 
Người hành ác đi đến phiền não

Kệ số 69

Ác nghiệp chưa chín muồi,
Kẻ ngu tưởng đường mật,
Ác nghiệp khi chín thật,
Kẻ ngu gánh khổ đau.

Dịch nghĩa:

Cho đến khi nào điều ác chưa được chín muồi thì kẻ ngu còn nghĩ về nó như là mật ngọt, nhưng đến khi điều ác được chín muồi thì kẻ ngu đọa vào khổ đau.

Thơ hóa:

Ác hạnh ngọt ngào như đường!
Người ngu nghĩ vậy quả thường chưa sanh!
Ðến khi ác báo rành rành,
Than trời, trách Phật, khổ thành khổ hơn!

English:

A fool thinks that evil is sweet as long as its results have yet to fully manifest; but when the results of that evil fully manifest, then they descend into suffering.

Tóm tắt tích truyện:

Một nữ tu sĩ đang hành đạo giữa rừng. Người kia vào rừng hãm hiếp bà. Khi nghe câu chuyện, Ðức Phật giảng dạy về những phiền não mà người có hành động bất thiện phải gặp.


The unwise thinks evil deeds are sweet while they ripen not. As they ripen he’s plunged in grief.
 
Hãy từ bỏ tham vọng thấp hèn

Kệ số 167:

Chớ theo pháp hạ liệt,
Chớ sống mặc, buông lung,
Chớ tin theo tà kiến,
Chớ tăng trưởng tục trần.

Thơ hóa:

Chạy theo phóng dật, chớ nên!
Ðua đòi tham vọng thấp hèn, hay chi?
Tin đâu tà kiến ngu si,
Quý gì nuôi lớn hữu vi dục trần?!

English:

One should not participate in inferior teachings,
One should not live negligently,
One should not participate in wrong view,
One should not increase worldliness.

Tóm tắt tích truyện:

Một thầy Sa-di trẻ tuổi phẫn nộ vì có người gọi là ông trọc. Không ai làm dịu được thầy. Ðức Phật dùng phương pháp hòa giải và thuyết phục. Khi ấy Ðức Phật đọc câu kệ trên.


No depraved vision, no heedlessness, and no low pursuits for worldly gains.
 

Có thể bạn quan tâm

Top