
Mở đầu
Nhà tâm thần học Thuỵ Sỹ Carl Jung đã phát triển một khái niệm tên là “Cái Bóng”. Ông nhận ra rằng nó chính là một phần của vô thức chứa đựng những đặc tính bị đè nén của con người do không phù hợp với lý tưởng của cái tôi. Nhưng, theo Jung, Cái Bóng luôn tồn tại như một thực thể tự trị đôi lúc lại bất ngờ bộc phát ra ngoài. Việc này xảy ra không phải do Cái Bóng là xấu xa, mà là bởi vì những thành phần bị đè nén luôn mong muốn được giải thoát cho chính chúng.
Và nếu chúng ta mãi không giải quyết những gì bị dồn nén bên trong Cái Bóng, chúng sẽ luôn luôn quay lại tấn công chính chúng ta một cách bất ngờ và không thể dự đoán trước được. Trong trường hợp Cái Bóng của Carl Jung, nó chính là sự kháng cự từ vô thức của những đặc tính không mong muốn của con người. Chính sự kháng cự này khiến cho chúng không bao giờ tan biến, thậm chí chúng còn có thể tự hình thành nên những cá tính riêng biệt, thao túng hành vi của chúng ta từ phía sau tấm rèm. Vì vậy, Cái Bóng là một ví dụ cho chúng ta biết rằng tại sao trong một vài tình huống bạn càng kháng cự cái gì thì nó càng đeo bám bạn. Bởi vì chúng ta không thừa nhận những thành phần bị nhốt ở sâu bên trong và phủ nhận sự tồn tại của chúng, chúng sẽ luôn luôn ở đó và thậm chí bắt đầu gây ảnh hưởng tiêu cực tới cuộc sống của chúng ta.
Theo logic, chúng ta không thể nào loại bỏ được cái gì nếu như chúng ta không thừa nhận sự tồn tại của nó. Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu ta chấp nhận sự thật hiển nhiên của những thứ chúng ta muốn cự tuyệt? Liệu chấp nhận những đặc tính không mong muốn đó có khiến chúng còn tồi tệ hơn trước? Hay liệu đây mới thật sự là bước khởi đầu tiến tới sự phát triển và thay đổi?
Video này sẽ đi sâu vào việc làm sao mà những thứ ta kháng cự lại càng bám lấy ta và những thứ gì chúng ta có thể chấp nhận để chuyển hoá.
Kháng cự lại đau khổ
Có một sự tích từ truyền thuyết của Phật giáo được truyền miệng lại cho nhân gian về hai mũi tên. Mũi tên đầu tiên là bất khả kháng. Nó tượng trưng cho nhiều thứ xảy ra trong cuộc đời chúng ta, ví dụ như lợi lộc và mất mát hay sự khen ngợi hoặc đổ lỗi. Nhưng chúng ta có thể tránh được mũi tên thứ hai tượng trưng cho cách chúng ta phản ứng lại những tình cảnh mà chúng ta phải đối phó. Vậy nên, chúng ta có thể tự quyết định tránh mũi tên thứ hai đó hoặc để nó đâm chúng ta, khiến cho cuộc đời càng thêm khổ sở một cách không cần thiết. Phật giáo có một khái niệm gọi là “Tứ Diệu Đế” ( Four Noble Truths ) chỉ cho chúng ta con đường đến với sự giác ngộ: Để chấm dứt sự đau khổ.
(Chú thích: “Tứ Diệu Đế” ( Four Noble Truths ) gồm:
1- Khổ đế (Dukkha): là thực trạng đau khổ của con người.
2- Tập đế (Samudaya): là nguồn gốc hay nguyên nhân dẫn đến thực trạng đau khổ.
3- Diệt đế (Nirodha): là sự kết thúc hay sự chấm dứt khổ đau.
4- Đạo đế (Magga): là con đường hay phương pháp thực hành dẫn đến chấm dứt khổ đau )
Những chân lý này chứa đựng tinh hoa của giáo lý Đạo Phật. Chân lý đầu tiên chính là nền tảng của những chân lý tiếp theo, nguyên nhân là vì nó cho chúng ta biết được rằng cuộc đời chính là dukkha. Dukkha thường được dịch là “khổ” hay “bất hạnh”. Sự đau khổ này biểu lộ ở nhiều hình thái khác nhau như ân hận, chán chường, bực bội, thất vọng, sân giận và nhiều hơn thế nữa. Thậm chí sự khát khao những thứ không thuộc về chúng ta cũng là một dạng đau khổ vì nó biểu thị sự bất mãn đối với tình trạng hiện tại. Đau khổ chính là thực tại của cuộc sống. Nhân loại đã, đang và sẽ luôn đau khổ, không loại trừ một ai cả. Đau khổ vốn gắn liền với sự tồn tại của con người.
Tuy nhiên, Đạo Phật có chỉ ra một lối thoát khỏi sự đau khổ: Con đường đến với sự giác ngộ. Nhưng để bước chân vào con đường đó, chúng ta phải chấp nhận chân lý đầu tiên “Đời là bể khổ”. Nếu chúng ta chống đối lại thực tại hiển nhiên của khổ đau, của sự vô thường và sự bất mãn của cuộc đời, vậy thì ta không thể cải thiện tình cảnh được.
Ví dụ nếu chúng ta chấp bám vào tuổi trẻ và khước từ sự thật bất khả kháng của sự lão hoá, vậy thì trở nên già nua sẽ là cội nguồn của sự khổ đau. Nhưng bằng việc chấp nhận sự lão hoá và nhìn nhận nó tự nhiên như nó là ( một khía cạnh tự nhiên và bất khả kháng của cuộc sống ), chúng ta có một bước đi đầu tiên trong việc giảm đi sự đau khổ gắn liền với sự chấp niệm vào tuổi trẻ. Tương tự, nếu chúng ta quá bám chấp vào một người mà chúng ta yêu thương, vậy thì mất đi người đó sẽ khiến ta đau khổ. Tuy nhiên, bằng việc chấp nhận rằng tất cả mọi người cũng như là chúng ta đều sẽ đến và rời đi, ta sẽ ít bị sốc khi những người thân quen của ta không còn ở bên cạnh nữa.
Tại đây, chúng ta chứng kiến phép màu nhiệm của việc chấp nhận. Thay vì bị mắc kẹt trong vòng xoáy của sự đau khổ, chúng ta tự tạo lối thoát bằng việc chấp nhận ta bị kẹt trong đó. Theo quan niệm của Phật Giáo, sức mạnh của sự thừa nhận và thấu hiểu dukkha cũng như là cội nguồn của nó trải đường dẫn dắt ta tới với sự giác ngộ.
Nếu ta bác bỏ sự thật hiển nhiên về sự đau khổ trong cuộc đời, ta sẽ chẳng bao giờ có thể xoá bỏ nó cả. Và chúng ta càng kháng cự, chúng ta càng bị đâm bởi mũi tên thứ hai. Ta có thể liên hệ đến khái niệm “Tích cực độc hại”, sự tích cực phi lý của nó có nguồn gốc từ sự từ chối nhìn nhận mọi thứ như nó là, “bộc đường” lên thực tại với “sự ảo tưởng” khiến cho chúng ta cảm thấy tốt hơn. Nhưng, việc này chính là tự lừa dối chính mình, bởi vì nó phủ nhận chính thực tại khổ đau. Ở một khía cạnh khác, sự chấp nhận cho phép chúng ta thay đổi những gì đeo bám ta .
Kháng cự lại chính bản thân
Như đã giới thiệu ở phần đầu, Carl Jung khám phá ra rằng nếu chúng ta kìm nén những đặc tính không mong muốn, những thành phần đó sẽ không tan biến mà tiếp tục tồn tại dưới dạng là những bản thể tự trị ở trong vô thức, ông gọi đó là Cái Bóng. Nguyên nhân tại sao chúng ta lại kìm nén chúng thì có rất nhiều. Thông thường, đó là vì những đặc điểm đó không phù hợp với môi trường sống xung quanh chúng ta, ví dụ như là về tiêu chuẩn của văn hoá và tôn giáo.
Nó cũng có thể là do sự từ chối của bậc cha mẹ đối với những đặc tính mà họ căm ghét như là ham muốn sáng tạo hay sự quả quyết của trẻ con. Vậy nên khái niệm Cái Bóng của Jung là rất quan trọng bởi vì nó nhắc nhở rằng bên trong chúng ta không chỉ chứa những đặc tính không tốt mà còn chứa bất cứ đặc tính nào mà ta không hề mong muốn. Jung cũng mô tả nó giống như là “Cái thứ mà một con người không bao giờ ước muốn trở thành”( “the thing a person has no wish to be.”). Bởi vì sự kìm nén không thể làm những đặc điểm đó biến mất mà còn khiến chúng sống đằng sau tấm rèm - ở bên ngoài sự nhận biết của chúng ta, và chúng sẽ luôn luôn hiển lộ trong cuộc sống này.
Cái Bóng xuất hiện dưới nhiều hình thái như là cách cư xử, những triệu chứng về mặt vậy lý, và những giấc mơ. Một ví dụ của của việc Cái Bóng có thể tự biểu lộ chính nó chính là thông qua sự phóng chiếu về mặt tâm lý. Qua sự phóng chiếu, chúng ta có thể phát hiện được những đặc điểm bị ẩn này ở trên những người khác
Ví dụ, một vài người có thể tự cho rằng họ rất ân cần và vị tha, mặc dù họ thường ẩn chứa xu hướng trở nên đáng ghét và bất dung trong Cái Bóng của họ. Vậy nên, họ thường buộc tội quá đáng khi những người khác trở nên như vậy. Cái phản ứng bất dung trớ trêu này hoàn toàn trái ngược với hình ảnh ta nghĩ về bản thân và đó cũng chính sự phóng chiếu của Cái Bóng. Một người phản ứng thái quá khi thấy những đặc tính như vậy ở người khác nhưng lại tự lừa dối một cách vô thức cho rằng ta không có những đặc điểm đó.
Carl Jung nhấn mạnh những mối nguy hoạ tiềm tàng nếu ta không nhận thức được chính Cái Bóng của mình ( và thậm chí còn phủ nhận chúng ), bởi vì điều này sẽ càng củng cố những đặc điểm không mong muốn đó và chúng sẽ phá hoại cuộc sống của chúng ta đằng sau tấm màn. Bản thân của chúng ta có thể ở trong một tình huống bị điều khiển bởi Cái Bóng và ta không hề nhận biết được điều đó. Để ngăn chặn điều này, Jung thúc giục chúng ta hãy tích hợp Cái Bóng của mình vào trong đời sống hàng ngày để cho những cá thể bị đè nén đó được hiển thị và từ đó chúng ta có thể biểu lộ những đặc tính đó một cách tự do và tự nhiên hơn.
Ông phát biểu rằng: “Mỗi người đều có một Cái Bóng, và nếu Cái Bóng không được bộc lộ trong đời sống của con người, thì nó sẽ trở nên dày và đen hơn. Cuối cùng, nó sẽ hình thành nên một trở ngại trong vô thức và cản trở ta với sự thù địch tột cùng”. Sự chấp nhận là một điều kiện kiên quyết để một người hoà nhập với Cái Bóng của mình. Đầu tiên, việc này bao gồm sự chấp nhận những tồn tại của những đặc tính bị đè nén. Thứ hai, những đặc điểm đó cũng phải tự chấp nhận chính chúng. Nếu chúng ta có thể thừa nhận những sự tồn tại đó trong vô thức, chúng ta có thể tích hợp chúng, hay như Jung nói rằng để khiến cho vô thức hiểu biết được chúng.
Việc tự thẩm định bản thân có thể được thực thi thông qua “Làm việc với phần tối” (Shadow work). Phương pháp này đã được sử dụng trong Tâm lý học trị liệu của Jung, nó sẽ tập trung vào vô thức trong tâm trí để soi sáng và xem có những gì đang trú ngụ bên trong bóng tối. Theo Jung, Cái Bóng cho chúng ta cơ hội để phát triển bản thân vì nó mang trong mình những đặc tính mà một khi đã tích hợp sẽ củng cố và phát triển tính cách của ta một cách tích cực. Nhà tâm thần học theo trường phái của Jung - Edward Whitmont phát biểu rằng:
“Khi chúng ta nhận ra được Cái Bóng, nó sẽ trở thành nguồn sức mạnh của sự đổi mới. Mặc dù ta có sự phát triển đầy đủ về mặt bản ngã, nhưng khi những quãng thời gian bế tắc và khó khăn xuất hiện trong cuộc đời – chúng ta phải nhìn vào bên trong bóng tối, khi mà những khía cạnh không được chấp nhận vẫn đang bị chối bỏ.”
Vậy nên, trong trường hợp của chúng ta, châm ngôn “Bạn càng kháng cự cái gì, nó càng đeo bám bạn” có vẻ hợp lý, bởi vì kháng cự lại chính Cái Bóng chỉ dẫn đến những ảnh hưởng không tốt từ vô thức tiến vào trong cuộc sống của chúng ta. Từ quan niệm của trường phái tâm lý học của Jung, chúng ta chỉ có thể biến đổi những đặc điểm bị đè nén đó thành những điều tích cực khi mà chúng ta chấp nhận và soi sáng chúng.
Kháng cự lại thực tại
Triết gia người Pháp Albert Camus tin rằng sự khao khát về ý nghĩa trong một thế giới vô nghĩa thật là phi lý và bằng việc cự tuyệt sự vô nghĩa hiển nhiên của cuộc đời, chúng ta chỉ làm tăng thêm nỗi tuyệt vọng hiện sinh và khao khát để thoát khỏi nó. Nhưng nếu chúng ta thừa nhận và đối diện sự Phi Lý ( Absurd ), chúng ta có thể sống một cách chân thật và tìm thấy sự bình yên. Theo Camus, trốn thoát khỏi sự phi lý có thể xảy ra thông qua sự giải thoát về mặt vật lý hay triết học. Cả hai cơ chế này phục vụ như là một lối thoát khỏi thực tại tàn khốc. Sự giải thoát về mặt vật lý có lẽ chúng ta có thể tự hiểu được, vì không nghi ngờ gì nữa đây là biện pháp đơn giản và dứt khoát nhất để thoát khỏi thực tại.
( Albert Camus (1913-1960) là một trong những nhà văn, nhà báo, và triết gia nổi tiếng người Pháp. Ông được biết đến với những tác phẩm văn học và triết học mang tính biểu tượng và ảnh hưởng sâu rộng đến văn hóa hiện đại. Camus nổi tiếng với triết lý về "Absurd" (Sự Phi Lý) - ý tưởng rằng cuộc sống không có ý nghĩa tuyệt đối nhưng con người vẫn phải tìm kiếm ý nghĩa và hạnh phúc trong sự tồn tại.)
Nhưng, sự giải thoát về mặt triết học chính là từ chối sự vô nghĩa của cuộc đời và thay thế bằng một cú nhảy niềm tin vào ý nghĩa hoặc sự thật bao quát do chính con người tạo ra. Những ý nghĩa và sự thật đó dung hòa giữa những khát khao của con người về một mục đích hiển nhiên và một vũ trụ khách quan vô nghĩa. Tuy nhiên, với việc tạo ra những niềm tin như vậy, chúng ta tạm hoãn sự bất tin; nói cách khác ta bỏ đi sự hợp lý logic và tư duy phản biện để ôm chặt lấy hệ thống niềm tin giúp ta làm dịu đi sự tuyệt vọng hiện sinh. Chính sự bi kịch này làm mất kết nối giữa những mong ước về một ý nghĩa của loài người và một vũ trụ vô nghĩa mà Camus gọi là “Sự Phi Lý”.
Mặc dù hoãn lại sự bất tin có thể là một cách rất hiệu quả để phủ nhận một thực tại chúng ta không hề muốn chứng kiến, nó vẫn không thể làm thực tại đó biến mất. Chúng ta trở nên phụ thuộc vào cái hệ thống niềm tin đó và nếu một vài lý do nào đó cái hệ thống đó bị phế bỏ, chúng ta lại phải đối mặt với những gì ta muốn tránh. Vì vậy Albert Camus tin tưởng rằng chúng ta nên đối diện với Sự Phi Lý, chấp nhận và tập cách sống cùng với nó.
Chúng ta đã thảo luận về việc kháng cự lại đau khổ khi tìm hiểu về chân lý Phật giáo đầu tiên của Tứ Diệu Đế. Nhưng, chúng ta có thể nhìn nhận lại khuynh hướng từ chối thực tại của con người theo một chiều rộng hơn. Sự thật thì luôn đau đớn. Hiện thực thì thường đáng sợ. Tuy nhiên phủ nhận nó cũng không thể làm nó biến đi. Trong một vài trường hợp, phủ nhận thực tại chỉ càng củng cố sự đau khổ vì chúng ta đã quay lưng lại với cuộc sống này.
Ta có thể liên hệ về một mối quan hệ rắc rối khi một hoặc cả hai phía đều lờ đi những vấn đề mà họ có. Có người thì để bám lấy niềm tin rằng cuộc sống hôn nhân của họ thật tốt đẹp nên đã giả vờ lờ đi về những thói quen uống chất cồn của người cộng sự. Tất nhiên, phủ nhận tình trạng này có thể làm tình huống tồi tệ hơn. Giả vờ như thể một thứ gì đó không tồn tại không có nghĩa là nó sẽ ngừng tồn tại. Để cải thiện một tình cảnh nào đó, chúng ta phải chấp nhận nó trước. Có nghĩa là phải đối diện với hiện thực tàn khốc mà chúng ta không muốn chứng kiến.
Để chấp nhận cuộc hôn nhân của chúng ta thật độc hại thật là không hề dễ dàng. Người cộng sự của ta có lẽ không phải là phiên bản lý tưởng mà ta nghĩ trong đầu. Những đứa con của ta có lẽ không tuyệt vời như ta muốn, hay những người mà ta cho là bạn có lẽ chẳng phải là bạn thật sự của ta đâu. Cái thực tại này thật là đau đớn. Tuy nhiên nếu chúng ta không nhìn vào thực tại của cuộc sống, nó sẽ tiếp tục gây ảnh hưởng tiêu cực đến chúng ta hay thậm chí phát triển vượt tầm kiểm soát.
Hay như Lão Tử đã viết: “Phòng tránh vấn đề trước cả khi chúng xảy ra. Hãy hành động trước khi mọi thứ vượt ra khỏi tầm kiểm soát”. Để làm được việc này, đầu tiên chúng ta phải chấp nhận những vấn đề đó trước đã. Thêm nữa, Luật Đảo Ngược cũng cho rằng: “ Chấp nhận một trải nghiệm tiêu cực chính là một trải nghiệm tích cực”
Khi chúng ta có khuynh hướng kháng cự lại sự vật, hiện tượng nào đó, khái niệm về sự chấp nhận một lần nữa chứng minh là nó đúng. Ngoài việc sự chấp nhận mang lại trải nghiệm tích cực, nó cũng cho phép sự chuyển hoá được diễn ra - việc này sẽ soi sáng những thứ ta không muốn thấy và biến chúng trở thành mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển cá nhân.
Cảm ơn các bạn đã xem.
Tác giả: Einzelgänger