NGHĨ GÌ VỀ QUY HỒI TIỀN KIẾP
Nguồn fb TS Lê Nguyên Phương
Liệu pháp Quy hồi Tiền kiếp [Past Life Regression Therapy] là một kỹ thuật sử dụng thôi miên để tiếp cận những gì được cho là ký ức về các kiếp trước. Việc nghiên cứu tiền kiếp có lẽ đã được tiếp sức trong thế kỷ 19 tại châu Âu với sự trỗi dậy của các phong trào tâm linh và những nhân vật nổi tiếng như Allan Kardec hay Madame Blavatsky. Họ đã đưa ra khái niệm “Hồ sơ Akashic,” “Thiên” theo nghĩa Sankrit, một không gian tinh thần tập hợp tất cả các sự kiện, suy nghĩ, lời nói, cảm xúc và ý định từng xảy ra trong quá khứ, hiện tại hoặc tương lai của tất cả các thực thể và sinh vật, chứ không chỉ của con người, và chỉ có thể tiếp cận bằng sự rung động của cầu nguyện. Điều này đặt nền tảng cho các truyền thống bí truyền phương Tây khám phá tiền kiếp mà không bị ràng buộc bởi các học thuyết tái sinh truyền thống. Nghĩa là chúng ta có thể "đi vào" bộ hồ sơ này để tìm bất cứ dữ liệu nào về quá khứ của bất cứ ai.
Hầu hết mọi người ngày nay ghi nhận sự xuất hiện của thôi miên tiền kiếp ở Hoa Kỳ vào giữa những năm 1970, và thường nhắc đến cuốn The Quest For Bridey Murphy của Morey Bernstein xuất bản năm 1956. Tuy nhiên, thật ra chính A.R. Martin mới là người đã đưa ra phương pháp thôi miên tiền kiếp vào năm 1928 và đã xuất bản cuốn Researches In Reincarnation And Beyond vào năm 1942. Ông tự báo cáo là đã dành 12 năm công việc thôi miên tiền kiếp với hơn năm trăm đối tượng, Theo Martin nhân loại cần hiểu rằng cốt lõi của cuộc sống là tâm linh và chúng ta đến Trái đất nhiều lần để học những bài học cần thiết để phát triển về mặt tâm linh.
Tiến trình quy hồi tiền kiếp thường đòi hỏi cá nhân bị thôi miên trả lời những câu hỏi được cho là danh tính và trải nghiệm trong “kiếp trước” của họ, giống như các phương pháp được sử dụng trong liệu pháp dùng để phục hồi trí nhớ. Trong thực hành ở phương Tây, các nhà thôi miên chuyên về quy hồi tiền kiếp sử dụng thôi miên cùng với các kỹ thuật “gợi ý” để tạo điều kiện cho khách hàng của họ hồi tưởng về các kiếp trước. Họ hướng dẫn bệnh nhân thông qua một loạt các câu hỏi nhằm tìm ra những câu chuyện và ký ức gắn liền với danh tính từ những kiếp trước. Các nhà thôi miên tiền kiếp thường liên kết những khổ đau của thân chủ trong cuộc sống hiện tại với những câu chuyện mang tính hư cấu về cuộc sống trong quá khứ, nhằm mục đích đưa những câu chuyện như vậy vào nhận thức có ý thức của thân chủ. Niềm tin cơ bản của các nhà quy hồi tiền kiếp là các vấn đề hiện tại có thể xuất phát từ những xung đột chưa được giải quyết trong những kiếp sống được cho là trong quá khứ này.
Cộng đồng khoa học, cả các nhà bác sỹ tâm thần lẫn tâm lý, đã bác bỏ việc quy hồi tiền kiếp như một phương pháp điều trị tâm thần đáng tin cậy. Họ cho rằng phương pháp được gọi là trị liệu này thiếu bằng chứng thực nghiệm, và xu hướng thực hành như vậy tạo ra những ký ức sai lệch hoặc thậm chí sai lầm hơn là đem lại những lợi ích trị liệu thực sự. Nhiều chuyên gia coi những ký ức có mục đích về tiền kiếp là bịa đặt, quan niệm sai lầm hoặc một hình thức bịa đặt. Một khía cạnh cần chú ý trong thực hành quy hồi tiền kiếp là phương pháp này đã đưa việc tìm kiếm sự giác ngộ tâm linh hoặc vào trong bối cảnh trị liệu, vì thế quy hồi tiền kiếp chủ yếu hấp dẫn những người có niềm tin vào sự tái sinh, tin tưởng mỗi kiếp sống là để học tập thăng tiến tâm linh. Chủ trương này mang đậm nét của Bà la môn giáo [Brahmanhism] (Ấn Giáo), vốn cho rằng mỗi tiểu ngã cần tu tập qua nhiều kiếp để trở về thể nhập với đại ngã.
Giới khoa học thì chủ trương cách tiếp cận này có thể dẫn đến việc tạo ra những ký ức sai lệch hoặc bị thay đổi, bị ảnh hưởng nặng nề bởi những gợi ý của nhà thôi miên. Nguồn gốc của những 'ký ức' này có nhiều khả năng là sự kết hợp giữa kiến thức đã thu thập gián tiếp hay trải nghiệm trực tiếp trước đó, cộng với trí tưởng tượng và ảnh hưởng của nhà thôi miên hơn là những hồi ức thực sự về tiền kiếp. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng những ký ức được tạo ra này thường chứa đựng những thông tin không chính xác về lịch sử và bị ảnh hưởng bởi văn hóa và văn học đương đại, hơn là các sự kiện lịch sử thực tế.
Cái gọi là "ký ức" được gợi ra thông qua các kỹ thuật quy hồi tiền kiếp có thể xuất phát từ chứng mất trí nhớ, nơi tiềm thức tạo ra các câu chuyện bằng cách kết hợp trí tưởng tượng, sự kiện bị lãng quên và tín hiệu do nhà trị liệu đưa ra. Những ký ức được hình thành trong quá trình thôi miên không thể phân biệt được với những ký ức chân thật và thậm chí có thể xuất hiện sống động hơn những ký ức ngoài đời thực. Yếu tố then chốt ảnh hưởng đến việc kể lại ký ức tiền kiếp là hệ thống niềm tin của cá nhân; những người tán thành ý tưởng về luân hồi có nhiều khả năng khẳng định những ký ức như vậy hơn, trái ngược với những người hoài nghi.
Các cuộc điều tra về một số trường hợp đáng chú ý được cho là quy hồi tiền kiếp, chẳng hạn như Bridey Murphy hay Jane Evans, đã phát hiện ra những ký ức thoạt nhìn có vẻ hấp dẫn; tuy nhiên, khi các chuyên gia ngôn ngữ và lịch sử xem xét cặn kẽ, họ đã chỉ ra những điểm không chính xác gồm ngôn ngữ lỗi thời gợi nhớ đến những mô tả điện ảnh và văn học về các giai đoạn lịch sử, những lỗi thực tế phản ánh những sai sót đã biết trong các tài liệu lịch sử, và những câu chuyện song song với các chi tiết từ một cuốn tiểu thuyết xuất bản. Điều này cho thấy cái gọi là trí nhớ tiền kiếp chịu những ảnh hưởng bên ngoài hơn là những hồi ức chân thực về tiền kiếp. Ngoài ra, khi các đối tượng được yêu cầu cung cấp thông tin lịch sử có thể kiểm chứng, câu trả lời của họ thường mơ hồ hoặc thiếu các chi tiết cần thiết, chẳng hạn như trường hợp một đối tượng kể lại cuộc đời của một phi công chiến đấu Nhật Bản trong Thế chiến II đã không xác định được Hirohito là Hoàng đế Nhật Bản trong thời kỳ đó.
Nghiên cứu chỉ ra rằng những gì thường được coi là ký ức từ tiền kiếp trên thực tế có thể là ký ức sai lệch được tạo ra một cách giả tạo, kết quả của khả năng gợi ý vốn có trong thôi miên. Một nghiên cứu từ năm 1976 tiết lộ rằng 40% số người dễ bị thôi miên đã sử dụng những tính cách và tên mới khi được khuyến khích quay trở lại thời điểm trước khi họ được sinh ra.
Vào những năm 1990, Nicholas Spanos đã thực hiện một loạt nghiên cứu để đi sâu vào hiện tượng quy hồi tiền kiếp. Quá trình quy hồi tiền kiếp có thể được bắt đầu trong thời gian ngắn nhất là 15 phút. Việc kéo dài phiên lên khoảng 45 phút cho phép đạt được trạng thái xuất thần sâu hơn, có khả năng truy cập vào thứ được gọi là "ký ức tâm hồn". Ông phát hiện ra rằng các đối tượng thường cung cấp những câu chuyện phong phú và phức tạp về những kiếp sống được cho là trước đây, mặc dù sự phức tạp của những câu chuyện này không mang lại độ tin cậy cho thực tiễn.
Spanos quan sát thấy rằng những đối tượng có khuynh hướng thôi miên và những người mong đợi việc nhớ lại tiền kiếp, bị ảnh hưởng bởi những gợi ý của người thí nghiệm, có nhiều khả năng thuật lại những ký ức như vậy hơn. Điều đặc biệt là tính xác thực được nhận thức của những ký ức này có mối liên hệ chặt chẽ hơn với niềm tin của các đối tượng vào sự tái sinh và những quan niệm định sẵn của họ về việc trải nghiệm việc nhớ lại tiền kiếp hơn là khả năng bị thôi miên của họ. Spanos kết luận rằng những cái gọi là ký ức tiền kiếp này không phải là những hồi ức chân thực mà là những bản ngã được xây dựng, chịu ảnh hưởng của văn hóa và phương tiện truyền thông, những kỳ vọng do các nhân vật có thẩm quyền đặt ra và mong muốn cá nhân, thay vì những trải nghiệm xác thực trong quá khứ.
Một nghiên cứu khác của GS Erlendur Haraldsson thuộc University of Iceland đã kiểm tra vai trò của một số đặc điểm tâm lý và hoàn cảnh mà trẻ em sống, chẳng hạn như tưởng tượng, khả năng gợi ý, sự cô lập với xã hội, sự phân ly và tìm kiếm sự chú ý. Nghiên cứu đã được thực hiện với 30 đứa trẻ ở Lebanon thường xuyên kể về ký ức tiền kiếp và 30 đứa trẻ đối chứng. Nhóm “nhớ tiền kiếp” có điểm cao hơn mơ mộng, tìm kiếm sự chú ý, và phân ly. Điều thú vị là có một số bằng chứng về các triệu chứng giống như rối loạn căng thẳng sau chấn thương ở những trẻ “nhớ tiền kiếp:” 80% trong nhóm này đã tường thuật về những tình huống dẫn đến cái chết bạo lực (chủ yếu là tai nạn, cả những cái chết liên quan đến chiến tranh và sát nhân).
Một nghiên cứu khác tại Hàn Quốc bởi TS Young Don Pyun cũng đáng chú ý. Một nhân vật lịch sử có thật và một nhân vật hư cấu đã được chọn làm danh tính kiếp trước cho các đối tượng tham gia nghiên cứu. Sau khi thôi miên, một gợi ý hồi quy về tiền kiếp đã được đưa ra; trong khi đếm ngược về tiền kiếp, gợi ý về một danh tính cụ thể được xen kẽ 3 lần. Hầu hết các đối tượng đã tạo ra các danh tính tiền kiếp với nội dung tương đối phong phú kèm theo các sự kiện cảm xúc và lịch sử giống hệt với danh tính được gợi ý. Nghiên cứu này cho thấy việc thao túng danh tính tiền kiếp khá đơn giản và dễ dàng, và vai trò của gợi ý trong việc hình thành ký ức tiền kiếp trong quá trình thôi miên rất quan trọng.
Chúng ta có thể kết luận cái gọi là trị liệu bằng quy hồi tiền kiếp mang quá nhiều sai lầm trong phương pháp và trong sản phẩm ký ức. Mặc dù bệnh nhân có thể nhớ lại tiền kiếp trong quá trình hồi tưởng nhưng những ký ức này có thể là sai;
Vì chúng có thể xuất phát từ những trải nghiệm trong cuộc sống hiện tại, trí tưởng tượng, gợi ý của nhà thôi miên hoặc những câu chuyện bịa đặt. Thứ hai, thôi miên và các câu hỏi gợi ý có thể dẫn đến ký ức bị bóp méo hoặc sai lệch; lý do có từ nguy cơ của chứng mất trí nhớ (ký ức vô thức) và sự nhầm lẫn hơn là việc nhớ lại thực tế về sự tồn tại trước đó. Các cuộc điều tra khách quan về lịch sử mà thân chủ của quy hồi tiền kiếp cũng cho thấy những ký ức được báo cáo thường chứa những điểm không chính xác về lịch sử dựa trên niềm tin chung, văn hóa đại chúng hoặc sách thảo luận về các sự kiện lịch sử.
Cuối cùng niềm tin vào sự tái sinh và những gợi ý của nhà thôi miên ảnh hưởng đáng kể đến nội dung của những ký ức được báo cáo.
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Phụ chú:
Tôi đặt giả thuyết là ngoài những lý do mà ký ức sự kiện [episodic memory] đặc biệt là ký ức tự truyện [autobiography memory] được hình thành và được cho là kết quả của quy hồi tiền kiếp nêu trên, vùng não xác định nguồn gốc ký ức của thân chủ trong trò “liệu pháp” này còn có thể đã bị ảnh hưởng. Đây là những vùng não giúp chúng ta xác định một ký ức khi được nhớ lại [recalled] vốn đến từ đâu, từ những trải nghiệm thực sự của chúng ta, hay là từ những cảnh mà chúng ta xem trong một cuốn phim, mà chúng ta tưởng tượng khi đọc một cuốn sách hay nghe người khác kể một câu chuyện.
Nghiên cứu đến nay cho thấy một số vùng não phối hợp với nhau để xác định nguồn gốc của ký ức, phân biệt giữa trải nghiệm thực tế và trí tưởng tượng. Trong đó có hồi hải mã, vỏ não trước trán (PFC), PFC lưng bên, PFC bụng bên, PFC vùng giữa, vỏ não sau (PPC), vỏ não cận hải mã. Ngoài ra, nghiên cứu gần đây cho thấy các mô hình hoạt động cụ thể của não có thể phân biệt giữa ký ức thực và ký ức tưởng tượng gồm dao động của sóng Theta, khả năng kết nối mạnh mẽ hơn giữa vùng hải mã và PFC.
Bạn nào tìm được đầy đủ hơn các nghiên cứu về những phần não chịu trách nhiệm xác định nguồn của một ký ức thì dẫn cho tôi tham khảo nhé.
Nguồn fb TS Lê Nguyên Phương
Liệu pháp Quy hồi Tiền kiếp [Past Life Regression Therapy] là một kỹ thuật sử dụng thôi miên để tiếp cận những gì được cho là ký ức về các kiếp trước. Việc nghiên cứu tiền kiếp có lẽ đã được tiếp sức trong thế kỷ 19 tại châu Âu với sự trỗi dậy của các phong trào tâm linh và những nhân vật nổi tiếng như Allan Kardec hay Madame Blavatsky. Họ đã đưa ra khái niệm “Hồ sơ Akashic,” “Thiên” theo nghĩa Sankrit, một không gian tinh thần tập hợp tất cả các sự kiện, suy nghĩ, lời nói, cảm xúc và ý định từng xảy ra trong quá khứ, hiện tại hoặc tương lai của tất cả các thực thể và sinh vật, chứ không chỉ của con người, và chỉ có thể tiếp cận bằng sự rung động của cầu nguyện. Điều này đặt nền tảng cho các truyền thống bí truyền phương Tây khám phá tiền kiếp mà không bị ràng buộc bởi các học thuyết tái sinh truyền thống. Nghĩa là chúng ta có thể "đi vào" bộ hồ sơ này để tìm bất cứ dữ liệu nào về quá khứ của bất cứ ai.
Hầu hết mọi người ngày nay ghi nhận sự xuất hiện của thôi miên tiền kiếp ở Hoa Kỳ vào giữa những năm 1970, và thường nhắc đến cuốn The Quest For Bridey Murphy của Morey Bernstein xuất bản năm 1956. Tuy nhiên, thật ra chính A.R. Martin mới là người đã đưa ra phương pháp thôi miên tiền kiếp vào năm 1928 và đã xuất bản cuốn Researches In Reincarnation And Beyond vào năm 1942. Ông tự báo cáo là đã dành 12 năm công việc thôi miên tiền kiếp với hơn năm trăm đối tượng, Theo Martin nhân loại cần hiểu rằng cốt lõi của cuộc sống là tâm linh và chúng ta đến Trái đất nhiều lần để học những bài học cần thiết để phát triển về mặt tâm linh.
Tiến trình quy hồi tiền kiếp thường đòi hỏi cá nhân bị thôi miên trả lời những câu hỏi được cho là danh tính và trải nghiệm trong “kiếp trước” của họ, giống như các phương pháp được sử dụng trong liệu pháp dùng để phục hồi trí nhớ. Trong thực hành ở phương Tây, các nhà thôi miên chuyên về quy hồi tiền kiếp sử dụng thôi miên cùng với các kỹ thuật “gợi ý” để tạo điều kiện cho khách hàng của họ hồi tưởng về các kiếp trước. Họ hướng dẫn bệnh nhân thông qua một loạt các câu hỏi nhằm tìm ra những câu chuyện và ký ức gắn liền với danh tính từ những kiếp trước. Các nhà thôi miên tiền kiếp thường liên kết những khổ đau của thân chủ trong cuộc sống hiện tại với những câu chuyện mang tính hư cấu về cuộc sống trong quá khứ, nhằm mục đích đưa những câu chuyện như vậy vào nhận thức có ý thức của thân chủ. Niềm tin cơ bản của các nhà quy hồi tiền kiếp là các vấn đề hiện tại có thể xuất phát từ những xung đột chưa được giải quyết trong những kiếp sống được cho là trong quá khứ này.
Cộng đồng khoa học, cả các nhà bác sỹ tâm thần lẫn tâm lý, đã bác bỏ việc quy hồi tiền kiếp như một phương pháp điều trị tâm thần đáng tin cậy. Họ cho rằng phương pháp được gọi là trị liệu này thiếu bằng chứng thực nghiệm, và xu hướng thực hành như vậy tạo ra những ký ức sai lệch hoặc thậm chí sai lầm hơn là đem lại những lợi ích trị liệu thực sự. Nhiều chuyên gia coi những ký ức có mục đích về tiền kiếp là bịa đặt, quan niệm sai lầm hoặc một hình thức bịa đặt. Một khía cạnh cần chú ý trong thực hành quy hồi tiền kiếp là phương pháp này đã đưa việc tìm kiếm sự giác ngộ tâm linh hoặc vào trong bối cảnh trị liệu, vì thế quy hồi tiền kiếp chủ yếu hấp dẫn những người có niềm tin vào sự tái sinh, tin tưởng mỗi kiếp sống là để học tập thăng tiến tâm linh. Chủ trương này mang đậm nét của Bà la môn giáo [Brahmanhism] (Ấn Giáo), vốn cho rằng mỗi tiểu ngã cần tu tập qua nhiều kiếp để trở về thể nhập với đại ngã.
Giới khoa học thì chủ trương cách tiếp cận này có thể dẫn đến việc tạo ra những ký ức sai lệch hoặc bị thay đổi, bị ảnh hưởng nặng nề bởi những gợi ý của nhà thôi miên. Nguồn gốc của những 'ký ức' này có nhiều khả năng là sự kết hợp giữa kiến thức đã thu thập gián tiếp hay trải nghiệm trực tiếp trước đó, cộng với trí tưởng tượng và ảnh hưởng của nhà thôi miên hơn là những hồi ức thực sự về tiền kiếp. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng những ký ức được tạo ra này thường chứa đựng những thông tin không chính xác về lịch sử và bị ảnh hưởng bởi văn hóa và văn học đương đại, hơn là các sự kiện lịch sử thực tế.
Cái gọi là "ký ức" được gợi ra thông qua các kỹ thuật quy hồi tiền kiếp có thể xuất phát từ chứng mất trí nhớ, nơi tiềm thức tạo ra các câu chuyện bằng cách kết hợp trí tưởng tượng, sự kiện bị lãng quên và tín hiệu do nhà trị liệu đưa ra. Những ký ức được hình thành trong quá trình thôi miên không thể phân biệt được với những ký ức chân thật và thậm chí có thể xuất hiện sống động hơn những ký ức ngoài đời thực. Yếu tố then chốt ảnh hưởng đến việc kể lại ký ức tiền kiếp là hệ thống niềm tin của cá nhân; những người tán thành ý tưởng về luân hồi có nhiều khả năng khẳng định những ký ức như vậy hơn, trái ngược với những người hoài nghi.
Các cuộc điều tra về một số trường hợp đáng chú ý được cho là quy hồi tiền kiếp, chẳng hạn như Bridey Murphy hay Jane Evans, đã phát hiện ra những ký ức thoạt nhìn có vẻ hấp dẫn; tuy nhiên, khi các chuyên gia ngôn ngữ và lịch sử xem xét cặn kẽ, họ đã chỉ ra những điểm không chính xác gồm ngôn ngữ lỗi thời gợi nhớ đến những mô tả điện ảnh và văn học về các giai đoạn lịch sử, những lỗi thực tế phản ánh những sai sót đã biết trong các tài liệu lịch sử, và những câu chuyện song song với các chi tiết từ một cuốn tiểu thuyết xuất bản. Điều này cho thấy cái gọi là trí nhớ tiền kiếp chịu những ảnh hưởng bên ngoài hơn là những hồi ức chân thực về tiền kiếp. Ngoài ra, khi các đối tượng được yêu cầu cung cấp thông tin lịch sử có thể kiểm chứng, câu trả lời của họ thường mơ hồ hoặc thiếu các chi tiết cần thiết, chẳng hạn như trường hợp một đối tượng kể lại cuộc đời của một phi công chiến đấu Nhật Bản trong Thế chiến II đã không xác định được Hirohito là Hoàng đế Nhật Bản trong thời kỳ đó.
Nghiên cứu chỉ ra rằng những gì thường được coi là ký ức từ tiền kiếp trên thực tế có thể là ký ức sai lệch được tạo ra một cách giả tạo, kết quả của khả năng gợi ý vốn có trong thôi miên. Một nghiên cứu từ năm 1976 tiết lộ rằng 40% số người dễ bị thôi miên đã sử dụng những tính cách và tên mới khi được khuyến khích quay trở lại thời điểm trước khi họ được sinh ra.
Vào những năm 1990, Nicholas Spanos đã thực hiện một loạt nghiên cứu để đi sâu vào hiện tượng quy hồi tiền kiếp. Quá trình quy hồi tiền kiếp có thể được bắt đầu trong thời gian ngắn nhất là 15 phút. Việc kéo dài phiên lên khoảng 45 phút cho phép đạt được trạng thái xuất thần sâu hơn, có khả năng truy cập vào thứ được gọi là "ký ức tâm hồn". Ông phát hiện ra rằng các đối tượng thường cung cấp những câu chuyện phong phú và phức tạp về những kiếp sống được cho là trước đây, mặc dù sự phức tạp của những câu chuyện này không mang lại độ tin cậy cho thực tiễn.
Spanos quan sát thấy rằng những đối tượng có khuynh hướng thôi miên và những người mong đợi việc nhớ lại tiền kiếp, bị ảnh hưởng bởi những gợi ý của người thí nghiệm, có nhiều khả năng thuật lại những ký ức như vậy hơn. Điều đặc biệt là tính xác thực được nhận thức của những ký ức này có mối liên hệ chặt chẽ hơn với niềm tin của các đối tượng vào sự tái sinh và những quan niệm định sẵn của họ về việc trải nghiệm việc nhớ lại tiền kiếp hơn là khả năng bị thôi miên của họ. Spanos kết luận rằng những cái gọi là ký ức tiền kiếp này không phải là những hồi ức chân thực mà là những bản ngã được xây dựng, chịu ảnh hưởng của văn hóa và phương tiện truyền thông, những kỳ vọng do các nhân vật có thẩm quyền đặt ra và mong muốn cá nhân, thay vì những trải nghiệm xác thực trong quá khứ.
Một nghiên cứu khác của GS Erlendur Haraldsson thuộc University of Iceland đã kiểm tra vai trò của một số đặc điểm tâm lý và hoàn cảnh mà trẻ em sống, chẳng hạn như tưởng tượng, khả năng gợi ý, sự cô lập với xã hội, sự phân ly và tìm kiếm sự chú ý. Nghiên cứu đã được thực hiện với 30 đứa trẻ ở Lebanon thường xuyên kể về ký ức tiền kiếp và 30 đứa trẻ đối chứng. Nhóm “nhớ tiền kiếp” có điểm cao hơn mơ mộng, tìm kiếm sự chú ý, và phân ly. Điều thú vị là có một số bằng chứng về các triệu chứng giống như rối loạn căng thẳng sau chấn thương ở những trẻ “nhớ tiền kiếp:” 80% trong nhóm này đã tường thuật về những tình huống dẫn đến cái chết bạo lực (chủ yếu là tai nạn, cả những cái chết liên quan đến chiến tranh và sát nhân).
Một nghiên cứu khác tại Hàn Quốc bởi TS Young Don Pyun cũng đáng chú ý. Một nhân vật lịch sử có thật và một nhân vật hư cấu đã được chọn làm danh tính kiếp trước cho các đối tượng tham gia nghiên cứu. Sau khi thôi miên, một gợi ý hồi quy về tiền kiếp đã được đưa ra; trong khi đếm ngược về tiền kiếp, gợi ý về một danh tính cụ thể được xen kẽ 3 lần. Hầu hết các đối tượng đã tạo ra các danh tính tiền kiếp với nội dung tương đối phong phú kèm theo các sự kiện cảm xúc và lịch sử giống hệt với danh tính được gợi ý. Nghiên cứu này cho thấy việc thao túng danh tính tiền kiếp khá đơn giản và dễ dàng, và vai trò của gợi ý trong việc hình thành ký ức tiền kiếp trong quá trình thôi miên rất quan trọng.
Chúng ta có thể kết luận cái gọi là trị liệu bằng quy hồi tiền kiếp mang quá nhiều sai lầm trong phương pháp và trong sản phẩm ký ức. Mặc dù bệnh nhân có thể nhớ lại tiền kiếp trong quá trình hồi tưởng nhưng những ký ức này có thể là sai;
Vì chúng có thể xuất phát từ những trải nghiệm trong cuộc sống hiện tại, trí tưởng tượng, gợi ý của nhà thôi miên hoặc những câu chuyện bịa đặt. Thứ hai, thôi miên và các câu hỏi gợi ý có thể dẫn đến ký ức bị bóp méo hoặc sai lệch; lý do có từ nguy cơ của chứng mất trí nhớ (ký ức vô thức) và sự nhầm lẫn hơn là việc nhớ lại thực tế về sự tồn tại trước đó. Các cuộc điều tra khách quan về lịch sử mà thân chủ của quy hồi tiền kiếp cũng cho thấy những ký ức được báo cáo thường chứa những điểm không chính xác về lịch sử dựa trên niềm tin chung, văn hóa đại chúng hoặc sách thảo luận về các sự kiện lịch sử.
Cuối cùng niềm tin vào sự tái sinh và những gợi ý của nhà thôi miên ảnh hưởng đáng kể đến nội dung của những ký ức được báo cáo.
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Phụ chú:
Tôi đặt giả thuyết là ngoài những lý do mà ký ức sự kiện [episodic memory] đặc biệt là ký ức tự truyện [autobiography memory] được hình thành và được cho là kết quả của quy hồi tiền kiếp nêu trên, vùng não xác định nguồn gốc ký ức của thân chủ trong trò “liệu pháp” này còn có thể đã bị ảnh hưởng. Đây là những vùng não giúp chúng ta xác định một ký ức khi được nhớ lại [recalled] vốn đến từ đâu, từ những trải nghiệm thực sự của chúng ta, hay là từ những cảnh mà chúng ta xem trong một cuốn phim, mà chúng ta tưởng tượng khi đọc một cuốn sách hay nghe người khác kể một câu chuyện.
Nghiên cứu đến nay cho thấy một số vùng não phối hợp với nhau để xác định nguồn gốc của ký ức, phân biệt giữa trải nghiệm thực tế và trí tưởng tượng. Trong đó có hồi hải mã, vỏ não trước trán (PFC), PFC lưng bên, PFC bụng bên, PFC vùng giữa, vỏ não sau (PPC), vỏ não cận hải mã. Ngoài ra, nghiên cứu gần đây cho thấy các mô hình hoạt động cụ thể của não có thể phân biệt giữa ký ức thực và ký ức tưởng tượng gồm dao động của sóng Theta, khả năng kết nối mạnh mẽ hơn giữa vùng hải mã và PFC.
Bạn nào tìm được đầy đủ hơn các nghiên cứu về những phần não chịu trách nhiệm xác định nguồn của một ký ức thì dẫn cho tôi tham khảo nhé.

