Johnny Lê Nữu Vượng
Già làng

Khoảng thời gian từ 1775 đến hết thế kỷ XVIII, Ấu Chúa Nguyễn Ánh bôn tẩu khắp chốn rừng, đảo, sông rạch vùng Cửu Long. Một phần tư thế kỷ gắn chặt với cuộc đời bôn tẩu và phục quốc thành công của vị vua đầu nhà Nguyễn, …
Chúa Ánh tức Nguyễn Phước Ánh, còn có tên là Chủng và Noãn, sinh năm 1762, con thứ ba của Nguyễn Phước LuânTrải qua nhiều lần quân tan tướng chết, trốn lánh bôn ba, cầu viện nước ngoài, thậm chí giao cả con là Phước Cảnh cho Pigneau de Béhaine đưa qua Pháp cầu viện, năm 1788 Chúa Ánh chiếm lại được Gia Định. Năm 1802, Nguyễn Ánh bắt được Quang Toản, tiêu diệt nhà Tây Sơn, lên ngôi hoàng đế, và trở thành vị vua đầu triều Nguyễn với niên hiệu là Gia Long.
Sử quan triều Nguyễn chép: Chúa Ánh giỏi dùng súng điểu thương, chúa cũng giỏi bơi lội như rái cá, thạo chèo thuyền.
Một số tài liệu nước ngoài còn tả Nguyễn Ánh lúc đúng tuổi “dáng người cao trung bình, vẻ mặt đều đặn, nhẹ nhõm”, “màu da đỏ hồng, rám nắng vì dầu dãi, …”.
2. Những địa danh ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long lưu dấu bước chân Nguyễn Ánh
Tương truyền chúa Ánh trên đường bôn tẩu, thuyền lênh đênh trên sông Hậu, trong đêm khuya thanh vắng ngài nghe có tiếng ngâm thơ, đờn tài tử, hò hát hòa nhau rất nhịp nhàng, từ một khúc sông xa vọng lại. Chúa xúc động và đặt tên con sông nhỏ này là “Cầm Thi Giang” tức con "sông có nghe thơ ca". Cầm Thi được đọc trại thành Cầm Thơ sau thành Cần Thơ.
Một lần khác thuyền chúa Nguyễn trong rạch sắp ra đến ngoài vịnh, bỗng có hai con cá sấu to bổng phóng tới, lội ngang chặn mũi thuyền lại không cho đi.
Xem thấy có điều bất thường, Nguyễn Chúa kêu đoàn quân đói rách rã ngũ do bị truy đuổi quay lại may còn kịp núp ven bụi dừa nước.
Quả nhiên gặp một đội thuyền chiến của Tây Sơn thi nhau phóng tới đổ lên bờ sắp chặn đánh bắt sống chúa Ánh.
Đoàn thuỷ binh lội bộ rách nát của Nguyễn Ánh sắp bại đến nơi, thì may sao trời nổi giông gió dữ dội, làm đắm các chiến thuyền của Tây Sơn, chúa Nguyễn nhờ đó thoát nạn trong gang tấc.
Sau này về lại Huế, khi lên ngôi, Gia Long hoàng đế đã xuống lệnh phong cho đàn cá sấu là “Tân Ngạc Ngư Long” khắc lên cửu đỉnh nhớ ơn cứu mạng.

Con cá sấu cứu mạng chúa được khắc lên Cửu Đỉnh.
Tá túc tại đó ít lâu Tây Sơn lại tìm tới, chúa Ánh lại bị truy đuổi chạy bộ dọc theo ven biển, phía sau quan quân Tây Sơn đuổi theo bén gót. Nguyễn Ánh ngửa mặt lên trời than:
- Nếu Hoàng Thiên còn tựa dòng họ Nguyễn nầy thì xin dung rủi làm sao cho quân Tây Sơn lạc lối.
Khấn xong, vua, tôi lại tiếp tục chạy một đỗi xa rồi ngồi xuống bãi biển chờ chết, vì quá mệt mỏi, chờ Tây Sơn tới giết. Chúa ngồi chờ cả buổi không thấy địch đến, ai nấy đều lộ vẻ vui mừng vừa thoát khỏi nạn. Nguyễn Vương lén lại đường cũ xem vì sao quân Tây Sơn không đuổi theo.
Ngài thấy toàn là dấu chân của một giống vật gì đã dẫm nát cả một vùng làm mất hẳn dấu chân của ngài. Còn đang tìm hiểu thì một bầy rái từ dưới biển nhô lên chạy vào bãi cát , đôi tay ôm cá, tôm. Nguyễn Vương liền phán rằng:
- Có lẽ nhờ bầy rái cá này dẫm mất dấu chân nên quân Tây Sơn mới bị lạc. Tuy nó là giống vật nhưng có công cứu chúa. Vậy để đáp lại công ơn, Trẫm sắc phong cho chúng là: Lang Lại đại tướng quân!
Lạ thay, bầy rái cá hình như nghe hiểu nên tỏ vẻ mừng rỡ, múa nhảy lung tung một hồi mới kéo nhau lặn xuống biển cả. Nguyễn Vương và thuộc hạ tiếp tục lên đường trốn chạy.
![]() |
Sắc gia phong thần Rái Cá năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) tại Công Thần miếu Vĩnh Long. |
Do có công lao cứu chúa, giống rái cá được phong thần và một số đình ở Nam bộ có cả sắc phong của triều Nguyễn cho thần rái cá. Lang Thát là một vị thủy thần nên có một số nơi còn kết hợp vị thần này với Đại Càn quốc gia Nam Hải tứ vị thánh nương thành vị thần có danh hiệu Đại Càn quốc gia Nam Hải Lang Thát nhị dại tướng quân.
Ở vùng Tiền Giang, thần rái cá được thờ nhiều nơi. Trong các đình Kiểng Phước (Gò Công), Điều Hòa (Mỹ Tho), Tân Hương (Châu Thành-Tiền Giang)... đều có sắc phong cho thần rái cá. Nơi thờ vị thần này thường là một cái miễu nhỏ với một bài vị đề chữ Lang Thát hoặc Lang Lại Đại Tướng Quân. Thức cúng cho vị thần này đặc biệt phải có món cá hoặc các loại cua, ốc…những thức mà loài rái cá hay ăn.
![]() |
Miếu thờ Lang Lại ở đình Tân Hội, xã Tân Hội, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. |
Công thần miếu ở Vĩnh Long (trong dân gian gọi là Miếu Hội Đồng) cũng lưu giữ được 2 sắc phong thần rái cá.
Thời gian sau, Nguyễn Ánh chạy đến vùng Sa Đéc, Vĩnh Long, chúa đến ẩn náu tại một vùng đất, mà sau này chúa dùng hai chữ Long Hưng để làm tên gọi. Cạnh rạch Long Hưng có cội đa, chúa thường đến đây câu cá. Dân gian gọi là cây đa Bến Ngự.
Cũng gần vùng đất này có nền đồn của Đức Cao Hoàng giá ngự, vuông vức 6 công đất, nền đất thuộc Long Hưng, gần vàm Nước Xoáy (Hồi Oa). Những địa danh này thuộc vùng đất Đồng Tháp, gần giáp giới Vĩnh Long ngày nay.
Ca dao có câu rằng:
Ngó lên Nước Xoáy ngùi ngùi
Nhớ ông Cao Tổ vua tôi một lòng
Dân gian kể rằng khi chúa Nguyễn chạy đến vùng đất Mỹ Xuyên xưa (nay thuộc đất Sóc Trăng), định theo dòng Mỹ Thanh ra biển, đồng bào Khmer ở đây nấu cơm nuôi vua. Cơm chưa kịp chín, quân Tây Sơn đã đuổi tới. Vua phải tức tốc bôn tẩu. Người nấu cơm vội vàng thốt lên “bay xao”, “bay xao”, âm tiếng Khmer nghĩa là “cơm sống” chúa cầm ăn vội rồi bỏ chạy, dân Khmer nhớ chuyện này, đặt tên chỗ vua ăn cơm sống chạy giặc là Bay Xao rồi thành Bãi Xàu gọi trại ra là vì thế.

Cảng cá Bãi Xàu ngày nay
Cũng tại cửa sông Mỹ Thanh, một đồn binh được thiết lập khi chúa Nguyễn Ánh lánh nạn ở Cồn Đầm. Đồn binh này ngày nay không còn, nhưng còn câu chuyện, lúc đến đây, một vị công nương của chúa không chịu thấu nỗi gian lao và cũng đã từ giã cõi đời. Hài cốt vị công nương ấy được vùi chôn tại làng Tân Khánh. Tây Sơn lại tấn công, chúa Nguyễn phải bôn đào, việc trông nom ngôi mộ của vị công nương ấy được giao lại cho một người Hoa tên Yết. Về sau, Gia Long ban cho chú Yết rất trọng hậu, phong chức tri phủ, lại cho được quyền thu hoa lợi tất cả các cơ sở đánh cá dọc Nam Hải, giữa khoảng vàm Mỹ Thanh và cửa Hoành Tẩu, địa danh Phủ Yết được đặt như để đánh dấu một thời, …
Bị đuổi qua Bạc Liêu, chúa Ánh lại tránh quân Tây Sơn tại Cái Rắn (Bạc Liêu), thì việc khó khăn nhất là nước uống, bởi khắp xóm này không có chỗ nào cung cấp nước ngọt thường xuyên ngoài giọt mưa trời. Lúc ấy, tháng hạn, nước ngọt cạn kiệt. Không thể làm khác hơn, chúa cho quân đặt bàn hương án giữa trời khấn vái. Xong việc, vua cho đào ngay giếng tại nơi đó. Khi giếng đào xong, nước múc lên nếm thử thì thấy ngọt. Giếng ấy ở xóm Cái Rắn, Tân Hưng (nay thuộc thị xã Bạc Liêu), vẫn còn sau hơn 200 năm tồn tại. Dân gian trong vùng gọi là Ao Ngự.
Cũng thời gian này, từ rạch Cái Rắn, quân Nguyễn vương đi lần tới biển, qua rạch Rau Dừa rồi tới rạch Cái Nước để vào vịnh Thái Lan. Trong cuộc hành trình, nhà vua và đám tuỳ tùng dừng chân tại một nơi thuộc hữu ngạn sông Bảy Háp, chỗ vàm Cái Nước đổ ra. Dân chúng trong vùng có đến yết kiến, từ đó nơi này được gọi là vùng Ngài Ngự, sau đổi là Giá (xe vua) Ngự cho đến ngày nay. Dân gian còn dùng từ Long Ẩn (vua trốn) để đặt tên cho một con kinh khác ở Cái Rắn.
Năm 1783, khi bị Tây Sơn truy nã ráo riết, Nguyễn Ánh đến vùng U Minh. Trong đoàn tuỳ tùng có công chúa Ngọc Hạnh. Rừng thiêng nước độc, công chúa nhuốm bệnh thương hàn và bỏ mình tại đây. Thương con, Nguyễn vương cho dựng một đền thờ cạnh mộ, dân gian quen gọi là Cạnh Đền. Địa danh này thuộc Ninh Thạnh Lợi (Bạc Liêu).

Một góc rừng Cà Mau – gần địa danh Cạnh Đền
Một lần thuyền chúa đang ở giữa dòng kinh mà lúc đó chưa có tên gọi. Nguyễn Ánh ốm nặng, sợ không qua khỏi, nhà vua trăn trối với ba quân rằng:
- Cơn bệnh ngặt nghèo của trẫm lương y không chữa hết, vận số tới đây là hết, ta chắc băng thôi (chết). Thương cho việc phục quốc không thành! Đáng buồn thay!

Kênh Chắc Băng – Cà Mau
Nhưng sau đó, vua được các lương y Khmer cho bài thuốc hay nên qua khỏi. Dân gian truyền lại câu chuyện vừa kể và nhắc lại lời vua ngày ấy: Trẫm chắc băng! Cuối cùng Chắc Băng đã trở thành một địa danh ở Vĩnh Thuận, Kiên Giang (ngày nay)
Vị chúa đói nát phải cùng đoàn tuỳ tùng đi qua vùng Long An, phải nhờ ông Hóng giúp đỡ. Ông Hóng là một cự phú ở vùng Vàm Cỏ Tây ngày nay. Khi ấy, đoàn thuyền chở chúa đến đây, thì hết lương phải dừng lại.
Nguyễn Ánh sai thị thần đến làng Bình Lãng, Tân An xin ông Hóng “bữa cháo”! Ông Hóng cho gia nhân đào con kênh nhỏ từ nhà thông ra sông Vàm Cỏ để chở lúa ra sông … tiếp tế. Con kênh ấy gọi là kênh “ông Hóng”, có kênh dẫn nước, cư dân thời bấy giờ nuôi vô số vịt con, và thế là sự kiện ấy dần dần hoá thân vào lời ca dân gian, …
Theo dòng giai thoại, chúng ta còn gặp được trong dân gian vùng đất Bến Tre (Kiến Hoà xưa) giai thoại về hai cô gái bán lụa giúp thuyền Nguyễn Ánh vượt qua nguy kịch. Tương truyền, trong lúc thuyền chúa đang lênh đênh giữa dòng sông rộng thì thình lình giông gió nổi lên, mây đen kịt kéo phủ đầy trời.

Sông Hậu chảy qua Cần Thơ
Mọi người ra sức chèo chống, chẳng may dây cột buồm và dây cột bánh lái đứt ra. Thuyền ngừng hẳn, mặc cho sóng nhồi, gió tạt, quan quân sợ hãi làm rớt cái chiên lệnh xuống dòng sông. Từ đó, dân gian gọi sông này có tên là Cổ Chiên, để ghi nhớ ngày chúa Ánh làm mất cái chiên. Chống chèo không được nữa, nhà vua cùng tuỳ tùng ngửa mặt lên trời cầu nguyện trong tuyệt vọng thôi xong chắc chết. Bỗng đâu, từ xa vang lên câu hò:
Bớ chiếc ghe sau chèo mau em đợi
Kẻo giông khơi đèn mờ mịt hiểm nguy
Quan quân trông vọng vào nơi đó. Một chiếc ghe nan lướt sóng chèo đến thuyền vua. Tới nơi, họ ngơi tay chèo, nghe kể rõ tình thế, các cô vội vàng lấy ra nhiều cuộn tơ bông trăng quăng sang. Thì ra, hai thiếu nữ này là người buôn tơ sợi, nhân dịp mua tơ về, gặp thuyền chúa nguy nan nên giúp đỡ.
Sau khi lên ngôi, Gia Long cho người tìm đến hai người con gái năm xưa để đền đáp công lao cứu tử. Nhưng họ đã lìa đời, nhà vua ban sắc phong và truyền lập miếu thờ tại làng Đa Phước Hội. Miếu Hai Bà hay chùa Hai Bà đến nay vẫn còn.

Đoạn sông gần Vàm Mỹ Thanh – Sóc Trăng.
Những truyền thuyết loại này không những nhiều mà vẫn còn lưu truyền ở hầu khắp các tỉnh Tây Nam Bộ. Thực hư chưa thể thẩm định, nhưng nó đã góp phần quan trọng cho những bằng chứng chính phúc âm tổ tiên từ chúa Nguyễn Hoàng tới chúa Thuần đã phò hộ cho Chúa Ánh, người dân quỷ hay thần gì cũng đứng sau lưng chúa Ánh.
Sửa lần cuối: