NHỚ LẠI
Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín (*)
(trích V)
(*) Bác sỹ Vũ Thị Chín sinh năm 1924, tốt nghiệp bác sỹ năm 1952 tại Đại học Y khoa Hà Nội, tốt nghiệp chuyên khoa nhi năm 1954 tại Đại học Y khoa Paris, hiện sống tại Hà nội.
*****************************************************************
TIÊU BẢNG
Được vài tháng, chiến dịch lan rộng đòi hỏi hậu phương tăng cường màng lưới cấp cứu chiến thương. Một quân y viện mới được thành lập ở Tiêu Bảng, cách Ý Yên khoảng hơn 10 cây số. Quân y viện này do bác sỹ Nguyễn Đình Hoằng phụ trách. Gia đình bác sỹ Hoằng tản cư về gần đó. Đô Hoàng là quê ngoại chồng của cô em ruột anh Nam. Cô mới sinh cháu gái thứ hai được mấy ngày, cùng với anh Nam đưa mẹ và các cô em gái tản cư về đó.
Chị Hương và tôi được phiên chế về Quân y viện Tiêu Bảng, tăng cường cho số người còn thiếu phục vụ cho Quân y viện này. Ở đây còn có cụ Cần, dược sĩ và em là Lệ, sinh viên dược, cậu Chi, sinh viên y và cậu Quế, ở bộ phận hành chính.
Cách Tiêu Bảng một cánh đồng ngập nước là làng Ruồng, tại đó được đặt một trạm phẫu thuật do bác sỹ Bích phụ trách với dược sỹ Trần Lâm Huyến và người em học dược, tên là Phúc. Tôi phục vụ ở Quân y viện vừa như sinh viên y vừa như một nhân viên, hưởng sinh hoạt phí của Quân y viện. Ít lâu sau, anh Nam, cháu ruột của bác sỹ Hoằng, do trước khi tản cư, đang học năm thứ nhất trường y, cũng gia nhập quân y. Sau này anh thú nhận: “Nghe chú Hoằng nói ở đây có cô Chín, anh sang liền, vì trước đã nhìn thấy ở Bệnh viện Bạch Mai”. Hoá ra theo đuổi ngành y chỉ là một phần, mà đi tìm “giai nhân” phải chăng mới là lẽ chính?
Sau khi đến Tiêu Bảng được nửa tháng, tôi đột nhiên bị sốt cao 40°C, rét run cầm cập. Nghi bị sốt rét, tôi nhờ anh Nam ra chỗ cụ Cần xin một lam kính về lấy máu đầu ngón tay tìm ký sinh trùng sốt rét. Chỗ cụ Cần có trang bị để làm một số xét nghiệm tối thiểu. Cụ Cần phát hiện tôi bị nhiễm plasmodium vivax (một loại ký sinh trùng sốt rét gây sốt cách nhật), cho tôi thuốc điều trị, trong vài ngày cắt được cơn. Lần tôi ốm đó, anh Nam đã rất lo lắng, cùng chị Hương chăm sóc tôi. Sau đó, chúng tôi rời chỗ ở sang một nhà dân khác, sáng sủa, thông thoáng hơn. Bọn thanh niên chúng tôi làm ở Quân y viện, đều ở tại nhà dân. Chủ nhà dành riêng một nhà cho nam, và một nhà cho nữ, cách nhau khoảng 5 phút đi bộ. Nhóm nam có ba người: Nam, Chi, Quế. Nhóm nữ cũng có ba: hai chị em tôi và Cúc. Cúc là cô em họ tôi cùng tản cư với mẹ về gần chỗ chúng tôi. Bố của Cúc, chú Chúc, đã mất từ lâu, chỉ có mỗi con gái là Cúc, cho sang ở cùng với chúng tôi để có chị có em. Thỉnh thoảng Cúc chạy đi chạy về thăm mẹ. Chúng tôi tổ chức ăn chung, quản lý tài chính do chị Hương, nấu ăn do Cúc, phụ bếp có tôi. Đi chợ xa, có anh Nam hoặc mấy cậu con trai thay phiên nhau đi xách bị, đội thúng cho chị Hương. Có lần mua được con vịt, vịt trói không chặt, giãy tuột khỏi tay, te tái chạy xuống ao. Anh Nam phải nhảy ùm xuống, tha hồ đuổi quanh ao, mãi mới tóm được cổ nó. Bữa cháo vịt tối hôm đó, cả bọn được trận cười no nê. Cậu Quế tinh nghịch bắt chước con vịt chạy lạch bạch và hô mọi người đuổi theo bắt. Đúng là trò trẻ con.
Quân y viện Tiêu Bảng ở hậu cứ. Thương bệnh binh điều dưỡng ở đây một thời gian phục hồi sức khoẻ lại trở về đơn vị phục vụ chiến đấu. Bác sỹ Hoằng có đủ điều kiện về thời gian để giảng dạy cho chúng tôi. Ông thuộc lớp thầy thuốc đầu tiên được đào tạo 4 năm ở trường y Hà Nội, sang Pháp học tiếp hai năm để bảo vệ luận án tốt nghiệp bác sỹ ở Đại học y khoa Paris, chuyên khoa về x-quang và bệnh phổi.
Trước khi tản cư, ông có một phòng khám bệnh và chiếu x-quang ở phố Gia Long (Bà Triệu bây giờ) và một bệnh viện nhỏ ở phố Hàng Bài Hà Nội. Ông cẩn thận, chu đáo với người bệnh, tận tình chỉ dẫn, uốn nắn chúng tôi trong kỹ thuật, thăm khám lâm sàng, về bệnh hô hấp. Tuy không có máy x-quang, nhưng ông rất chịu khó trang bị cho chúng tôi kiến thức cơ bản về sử dụng máy, hình ảnh bình thường và bệnh lý của tim phổi, xương khớp trên những hình và sơ đồ ông tự vẽ cho chúng tôi trên giấy, giải thích cho chúng tôi cơ chế phát sinh và phát triển của các bệnh phổi, bệnh lao, chuyên khoa của ông. Đó là cách học của chúng tôi, một thày và vài ba trò.
Hồi đầu, tình hình ở Quân y viện thật yên ắng, chỉ tập trung vào công việc điều dưỡng cho thương bệnh binh. Với ba bốn chục bệnh binh, chúng tôi đủ sức làm việc cả ngày. Khi rỗi, lại được nghe bác sỹ Hoằng giảng bài.
Buổi tối, sau bữa ăn, sáu đứa chúng tôi thường ở lại nói chuyện. Những đêm sáng trăng, anh Nam có chiếc vĩ cầm anh đã cố mang theo lúc tản cư, đem ra kéo cho chúng tôi thưởng thức những bản nhạc anh ưa thích, những bài ca của Tino Rossi [1], và những bài hát của Văn Cao chúng tôi thường “đồng ca” dưới những đêm trăng, như Suối mơ, Thiên Thai. Sao có thể lãng mạn thế? Trong khoảnh khắc, chúng tôi không còn nghe rầm rập bên tai tiếng: “Diệt phát xít...” Thật đáng xấu hổ phải không? Cả bọn chúng tôi , trừ cậu Quế đều qua tuổi đôi mươi cả. Chúng tôi chỉ là những người bình thường, tầm thường.
Trong nhóm, ngoài cậu Quế, kém hẳn tuổi chúng tôi, có cậu Chi và có Cúc ít tuổi hơn cả. Điều kiện sống gần nhau, hàng ngày gặp nhau, chăm sóc cho nhau, khiến chúng tôi càng xích lại gần nhau. Cậu Quế ranh mãnh tinh ma, hay hùn vào, Chi và Cúc tỏ ra quyến luyến nhau. Quế sẵn sàng giúp đỡ họ.
Riêng tôi, từ trước chỉ say mê học tập, chúi đầu vào sách vở, những tình cảm và rung động về tình yêu bị đẩy vào một góc sâu của vô thức, nay được hé mở dần chờ, đợi được bung ra như những bông hoa nở chậm dưới sự chăm chút ấm áp của anh Nam (...).
Niềm hạnh phúc của chúng tôi hẳn không thể qua mắt mọi người, nhất là của chị Hương. Anh Nam buộc phải thay tôi nói với chị. Vững tâm biết tôi đã tin yêu anh, anh mạnh dạn đề xuất những dự định của anh về tương lai trước mắt đối với tôi. Tôi đã dự đoán được phản ứng của chị. Hai chị em đã từng chung sống với nhau, chị luôn giữ ưu thế tiếng nói của chị, xưa nay tôi ít làm trái ý chị. Song tôi cũng đã sống một mình với những suy nghĩ và tình cảm riêng tư từ nhiều năm. Tôi cảm nhận được sự trưởng thành, nhu cầu và khả năng tự lập của mình từ lúc có quyết định thoát ly khỏi gia đình cô Lương để rong ruổi trên đường vào Quân y viện Ý Yên. Tôi khá bình thản trước sự phản đối của chị. Chị viện lý do: Gia đình chúng tôi hiện ở xa, không có tin tức. Chị không thể vượt quyền bố mẹ vắng mặt. Hai chúng tôi đều đã biết, theo chị Bảy Huệ (sau này là phu nhân của tổng bí thư Nguyễn Văn Linh), gặp chúng tôi khoảng một tháng trước ngày toàn quốc kháng chiến, khi chị mới ở Thái Lan về, là bố chúng tôi đã bị giặc Pháp bắn chết cùng một số chiến sỹ và đồng bào vào ngày thảm sát đẫm máu 21/3/1946 ở Thakhek. Gia đình chúng tôi đã được tổ chức đưa sang Thái Lan. Chị Hương còn phân tích dài dài: việc kết hôn sẽ gây trở ngại cho học tập, mà gia đình đã đặt nhiều hy vọng vào tôi, có người nọ người kia cầu hôn tôi, kể cả một tri huyện nào đó [2] quen cậu Rư, nhưng cậu đã khước từ, không muốn tôi bỏ học đi lấy chồng. Với tất cả những lý lẽ đó, chị Hương nhất định không chấp nhận những thỉnh cầu của anh Nam.
Vào những ngày đó, Quân y viện nhận được thông báo tất cả sinh viên y đều phải tập trung lên trường y ở Việt Bắc. Quân y viện chấn chỉnh tổ chức, sẽ giảm một số nhân viên hành chính quản trị trong đó khả năng sẽ có chị Hương. Nhân đà đó, cho rằng cả hai chị em không thể cùng lên trường y, chị quyết định về dạy học ở Trực Ninh (Nam Định), nơi đang cần giáo viên, và tôi tạm thời về chỗ mợ tham Rư tản cư, gần nơi chị dạy học.
Chúng tôi bùi ngùi chia tay nhau trong sự buồn bã vô hạn. Chi, Cúc, Quế mỗi người một ngả. Chị Hương và tôi về xuôi. Anh Nam trở về Đô Hoàng cùng gia đình mẹ và các em gái đang cần sự nâng đỡ tinh thần của anh. Hai chúng tôi xiết chặt tay nhau, hẹn và rất tin sẽ có ngày gặp lại.
LỤC THỦY
Chị Hương nhanh chóng nhận công tác dạy học và ở ngay tại trường. Tôi trở về với gia đình mợ Rư (...) Mợ tôi và cô Mão vốn là những người gốc đạo Thiên Chúa, nên được sự bảo trợ của cha xứ Lục Thủy, ở sát phủ Xuân Trường (...)
Một hôm tôi bị cảm cúm, sốt và ho, nằm yên trong phòng, ở góc giường. Đột nhiên, anh Nam xuất hiện. Anh đã đi bộ 50 cây số tới thăm tôi [3]. Qua Xuân Trường, anh đã mua được những quả cam mật đỏ chót biếu mợ tôi và cho tôi. Tôi mừng khôn tả, nắm chặt lấy tay anh, thương xót anh đã đi hàng mấy chục cây số đến với tôi. Song anh không nhận được mấy thiện cảm từ phía mợ tôi và cô Mão, đã có định kiến với anh và thường chú trọng tới hình thức bề ngoài. Sau vài ngày tôi khỏi sốt, anh ra về. Tôi tiễn anh ra bến đò. Anh buồn bã, trên mặt thoáng một vẻ thất vọng vu vơ. Anh về rồi, trong nhà mợ tôi, không một ai phát biểu một ý kiến gì. Từ Bùi Chu, chị Hương nhắn tin thúc giục tôi tới đó với chị. Chị không muốn tôi ở lại Lục Thủy làm gia sư. Điều đó cũng dễ hiểu từ phía chị. Quan hệ giữa chị và gia đình mợ Rư xưa nay không thuận, nếu không muốn nói là thiếu thiện cảm từ cả đôi bên, vì nhiều lý do. Trái lại giữa gia đình cậu mợ và tôi đã có những gắn bó tình cảm. Cậu Rư quý các cháu chịu khó học hành, thuần tính. Sống trong gia đình cậu mợ nhiều năm, các em con cậu mợ coi tôi như một người chị lớn, chỉ giúp mà không yêu cầu được đền bù, mà đâu tôi đã giúp gì được nhiều đâu. Tuy nhiên tôi cũng buồn về sự ngầm nhận xét đánh giá chưa thật công bằng của gia đình mợ về anh Nam, do chưa hiểu được hết tính cách của anh.
Khoảng một tháng, sau lần anh đến thăm tôi, anh Trần Lê Văn [4], bạn anh Nam, nhân đi công tác qua Lục Thủy, có ghé thăm (...) và báo tin cho tôi anh Nam mới bị ngã trẹo chân sưng vù, đi lại khó khăn. Nhưng anh trấn an ngay: “Cũng không có gì trầm trọng đâu. Nằm yên một chỗ khoảng nửa tháng là khỏi. Lúc đó có đi 50 cây số đến Lục Thủy vẫn được.” Song tôi vẫn sốt ruột, không phải do chấn thương ở chân anh, tôi cũng cho là không đáng lo ngại, mà do thái độ buồn bã của anh khi chia tay với tôi lần trước.
Một tuần sau, tôi xin phép mợ về thăm cô chú bên nội, ở gần chỗ anh Nam. Hiểu được ý tôi và biết tính tôi đã đã định làm gì là quyết tâm thực hiện nên mợ tôi đồng ý, cho tôi mượn xe đạp, dặn tôi đi đường cẩn thận thân gái dặm trường, và thu xếp trở lại sớm. Tôi đi từ sáng tinh mơ, lộ trình tuy mới qua một lần cùng chị Hương, song tôi vẫn còn nhớ. Vả lại đường ở mồm, không biết thì hỏi thăm, tuy đôi khi cũng khó, dân địa phương thực hiện ba không chỉ lắc đầu, đề phòng Việt gian, thám báo. Làng mạc tôi đi qua lần này khác hẳn, không còn là những vùng trù phú với những cánh đồng lúa xanh, mà đạn pháo, tiêu thổ kháng chiến đã để lại một không gian đìu hiu, cô quạnh, rất ít bóng người. Trên những cánh đồng trơ trụi, đây đó nhô lên những cột nhà cháy đen và những đống gạch tường đổ cùng những nền nhà nham nhở. Xót xa đến thắt ruột.
Đang gò lưng đạp xe ngược gió, tôi suýt xô vào hai cô gái đi ngược chiều đó là hai chị em cô Bắc [5], em gái của anh Trinh, sau này lấy cô Cúc em họ tôi. Tôi cung cấp cho họ những tin về cô Cúc rồi chúng tôi chia tay nhau. Những cuộc gặp gỡ trên con đường tản cư kháng chiến ngắn ngủi vội vã, đôi khi chỉ có một lần. Xế chiều, tôi đến Đô Hoàng. Anh Nam đang ở nhà bà cô của anh còn tản cư ở đó. Mẹ và các em anh đã hồi cư về Hà Nội. Ông thân sinh ra anh mắc kẹt tại Hà Nội đêm 19/12/1946 đã cho người ra đón cả nhà về, trừ anh Nam không chịu về.
Anh rất mừng, nhấc chân cà nhắc ra đón tôi. Bà Hồ, cô ruột anh, hồ hởi nói: “Vui hơn Tết nhé! Cứ ngong ngóng đợi mãi.” Tôi tìm mấy tàu lá láng hơ nóng, bóp chân cho anh. Anh Nam thấy rất dễ chịu và đỡ đau hẳn. Xẩm tối, anh lết chân lấy liếp che sau trái nhà cho tôi tắm và thay quần áo. Không biết anh có lén nhìn trộm không mà khi tôi tắm xong, vào nhà, anh khẽ bảo: “Da trắng, vỗ bì bạch.”
Ăn cơm với gia đình bà cô, toàn những người chưa quen biết, tôi cũng thấy ngượng. Song anh Nam và mọi người cố gắng xua tan bầu không khí mất tự nhiên đó.
Mùa xuân 1948, vào khoảng tháng Ba, mợ Rư và cô Mão rục rịch chuẩn bị hồi cư. Không biết hai bà đã trình bày thế nào với cha xứ qua các buổi cầu kinh xưng tội, song việc giao trả nhà cụ Thượng Oánh cũng như việc thu xếp hồi cư đã trôi chảy, êm ả. Đoàn người hồi cư, khoảng 15 người, xuống một chiếc thuyền to có một người chống và hai người chèo. Khi mỏi tay, họ dùng hai bàn chân để đạp mái chèo. Những người hành cư ở hết trong khoang, thuyền có mui che. Ăn uống có lương thực và nước mang theo.
Đến một bến, cách Đô Hoàng không xa, thuyền đỗ lại cho các lái thuyền được nghỉ tay. Lúc đó mới quá trưa, tôi ra mũi thuyền nhìn ra ngoài, trời sáng trong, hơi se lạnh. Tôi vụt có một quyết định bất ngờ. Tôi đề nghị mợ Rư cho tôi lên bờ, đến Đô Hoàng nói anh Nam đưa tôi về chỗ cô chú tôi tản cư gần đó để báo cho gia đình tôi biết tôi hồi cư cùng mợ. Nếu gia đình đồng ý tôi sẽ tiếp tục đi, nếu không tôi sẽ ở lại. Đi và về nhanh, chiều tối tôi sẽ quay trở lại thuyền. Tôi đã nhảy lên bờ, túi đã khoác vai. Mợ tôi chẳng giữ được. Tôi đi thẳng tới chỗ anh Nam báo cho anh biết. Hai tiếng sau, cậu H., em mợ tôi, được mợ tôi phái đi tìm tôi ở chỗ anh Nam. Anh để tôi tránh mặt cậu H., trả lời đã nhờ người đưa tôi về với bà con bên nội. Không tin lắm, nhưng cậu H. cũng đành quay lại thuyền. Và tôi đã ở lại, không tiếp tục cuộc hành trình hồi cư cùng gia đình mợ.
Đó là bước ngoặt thứ hai trên chặng đường kháng chiến của tôi.
Chỉ trong vài ngày, hai chúng tôi quyết định về Chiều Thôn, nơi gia đình chú Thanh tôi tản cư. Anh Nam mang theo thư do bác sỹ Nguyễn Đình Hoằng, chú ruột anh “thay mặt ông bà Nguyễn Đình Đan, thân sinh ra anh, viết gửi lời cầu hôn cô Vũ Thị Chín cho cháu ruột ông là Nguyễn Đình Nam.” Gia đình chú tôi vui mừng thấy chúng tôi tới. Chú Thanh đã mấy lần gặp anh Nam, có lần ở quê Đại Đê, chú nói chuyện rôm rả với anh, quý cái tính bộc trực, cởi mở của anh. Biết anh là cháu đích tôn của cụ Tú Thể, vừa là nhà nho, vừa là ông lang bốc thuốc mát tay, có uy tín, dân Thành Nam đều trọng nể và tin tưởng cụ, khi được cụ chữa bệnh cho, chú tôi đồng ý cho chúng tôi được kết hôn với nhau (...)
Mùng 9 tháng 5 năm 1948 đám cưới được tổ chức (tại Tiêu Bảng - N.Đ.Đ).
(còn tiếp)
Chú giải:
_______
[1] Constantin "Tino" Rossi (1907 - 1983) - ca sỹ tenor phong cách cabaret và tài tử điện ảnh người Pháp gốc Corsica, một trong những nghệ sỹ bán chạy nhất mọi thời đại, với 2000 bài hát được thu âm và hơn 200 triệu albums đã được bán trong sự nghiệp 50 năm ca hát. (N.Đ.Đ.)
[2] Trần Đ.T., em trai triết gia Trần Đức Thảo, hy sinh trong trận ném bom bắn phá trường ngoại ngữ ở Việt Bắc.
[3] Đô Hoàng cách Lục Thủy 53 km về phía Tây. Từ Đô Hoàng tới Lục Thủy đi bộ mất khoảng 12 tiếng đồng hồ. (N.Đ.Đ.)
[4] Trần Lê Văn (1923 - 2005), tên thật là Trần Văn Lễ, bút danh Trần Lê Văn, Tú Trần, thi sỹ được coi là cây bút đa năng và dẻo dai, có mặt qua nhiều giai đoạn của văn đàn Việt Nam, được truy tặng giải thưởng Nhà nước năm 2017 về văn học nghệ thuật cho các tác phẩm: Sông núi Điện Biên, Hà Nội hoa, Thung mơ Hương Tích. (N.Đ.Đ.)
[5] Một cô sau này là vợ ông Nguyễn Văn Trân, nguyên bí thư thành ủy Hà Nội và một cô là vợ ông Hồ Trúc, cựu học sinh trường Bưởi, nguyên thứ trưởng Bộ Giáo dục.
---------------------------
NHỚ LẠI
Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín (*)
(trích VI)
(*) Bác sỹ Vũ Thị Chín sinh năm 1924, tốt nghiệp bác sỹ năm 1952 tại Đại học Y khoa Hà Nội, tốt nghiệp chuyên khoa nhi năm 1954 tại Đại học Y khoa Paris, hiện sống tại Hà nội.
*****************************************************************
NHỮNG NGÀY SAU KHI CƯỚI
Cưới xong, hai chúng tôi trở lại Quân y viện. Hằng ngày chúng tôi tới ăn cơm tại nhà bà Khánh, cô ruột anh Nam. Ông bà Khánh rất quý anh Nam nên quý cả tôi. Ông bà đông con, thêm hai chúng tôi, chỉ là thêm đũa thêm bát, bà Khánh nói. Tuy chúng tôi có phần đóng góp, nhưng trong hoàn cảnh kháng chiến, cũng thêm vất vả cho cô. Song không được bao lâu, hơn một tháng sau, ông Hoằng, gia đình bà Khánh và cụ Cẩn đều hồi cư. Trong họ Nguyễn Đình tản cư về Đô Hoàng chỉ còn anh Nam ở lại cùng với tôi.
(...) Sau khi bác sỹ Nguyễn Đình Hoằng về hồi cư, bác sỹ Đỗ Xuân Dục được cử về phụ trách, Quân y viện được di dời về Trà Châu. Cùng về còn có bác sỹ Đức và một số nhân viên khác. Do Quân y viện được tăng thêm quân số phục vụ, chúng tôi tiếp tục ở lại Quân y viện và được cấp sinh hoạt phí. Hằng tháng chúng tôi được phát những đồng tiền bằng kền, phải bỏ vào một chiếc bị cói nhỏ cho khỏi lăn như bi của các bà bán rong trước đây ở thành phố. Tôi được phân công chăm sóc bệnh binh. Do biết ngoại ngữ, anh Nam được bố trí chịu trách nhiệm kho thuốc, thực chất chỉ là một tủ thuốc to gồm chủ yếu bông băng, các chai truyền dịch, một số thuốc ngoại từ nội thành đưa ra, qua vùng tề, cần được dịch cách hướng dẫn sử dụng.
Hai chúng tôi ở nhà dân, tại nhà ông Ký Hàn. Nhà chủ để cho chúng tôi ở một túp lều cuối vườn. Hằng ngày chúng tôi vào ăn cơm với gia đình. Hằng tháng chúng tôi nộp tiền ăn cho gia đình theo thoả thuận. Quan hệ sòng phẳng, dễ chịu. Ở nhà ông Ký Hàn, thỉnh thoảng được thết món cầy hương (tôi nghi đó là chuột đồng) do chính tay ông Ký Hàn chế biến khá ngon.
(...) Mặt trận ở đây tạm thời yên ắng. Công việc ở Quân y Trà Châu phẳng lặng. Những khi tương đối nhàn rỗi, tôi chống sào đẩy thuyền nan qua cánh đồng ngập nước, sang bên Ruồng, nơi có trạm phẫu thuật của cụ Bích, để thực hiện những ca tiểu phẫu thuật và băng bó các vết thương phần mềm, bó bột những ca gãy chi, phụ những ca mổ ruột thừa, gắp lấy đạn. Cụ Bích nhiều kinh nghiệm, có tay nghề lâu năm, sẵn sàng và tận tình chỉ bảo hướng dẫn tôi những kỹ năng cần thiết trong các phẫu thuật thông thường. Đôi khi ca mổ hơi kéo dài, đến chiều tôi mới chống thuyền ra về (...)
TRẬN NÉM BOM TRÀ CHÂU
Một ngày tháng 3/1949, lúc đó vẫn còn lạnh, khoảng 11 giờ, chúng tôi chuẩn bị sắp lên nhà ông Ký Hàn ăn cơm thì nghe tiếng máy bay “bà già” ù ù lao tới núi Bô, cách Quân y viện chúng tôi khoảng 2 cây số. Bom được dội xuống, đạn bay tứ phía. Rồi những chiếc dù trắng được thả xuống. Quân địch tiến tới sát Quân y viện. Rốc két và đạn bắn lung tung mọi phía để dọn đường. Dân làng chạy toán loạn. Hai chúng tôi vội khoác chiếc bị cói lên vai rồi dắt nhau chạy thục mạng. Thấy một chuồng lợn có mái che, chúng tôi vội chui rúc vào một góc như các con ỉn trong đó. Định thần lại do đã tương đối ở ngoài tầm đạn, chúng tôi nhìn ra xung quanh. Bên kia con đường làng, cách chỗ chúng tôi 200m, ông Phổ, chủ nhà hàng xóm của ông Ký Hàn, đang ngồi sừng sững, thân hình to béo, đầu gần lìa khỏi thân, cổ bị trúng mảnh rốc két cắt gần đứt, máu mạch cổ đang phun ra phì phì, mắt mở trừng trừng, tất cả sinh lực còn lại dồn vào giữ cho thân hình khỏi đổ, hoặc ông cũng đang ở trong tình trạng chết đứng như Từ Hải (ở đây là chết ngồi). Thật kinh hoàng!
Đến chiều tối tiếng súng mới tắt hẳn. Quân địch đã rút hết. Bác sỹ Đỗ Xuân Dục, quân y viện trưởng bị bắt làm tù binh, đã bị bọn giặc đưa đi. Bác sỹ Đức đã bị bắn chết trên đường quốc lộ đi Phủ Lý, gần nhà thờ Sở Kiện. Cán bộ nhân viên Quân y viện cũng lục tục kéo về nhưng ở rải rác trong nhà dân cùng với thương binh, do không có thương binh quá nặng nên các anh cũng đều đã kịp thời chạy thoát, không có thương vong. Mất viện trưởng, Quân y viện vận hành dưới sự chỉ đạo của đ/c T., trưởng phòng tổ chức Quân y viện, chi uỷ. Chúng tôi tập hợp thương bệnh binh chuẩn bị đưa anh em sang Ruồng, sát nhập với trạm của bác sỹ Bích. Ngay trong đêm, cô Lương tôi từ Chiều Thôn, đội chiếc chăn bông đem đến cho chúng tôi, mừng mừng tủi tủi thấy chúng tôi còn sống sót. Ôi! Tấm lòng của cô, chẳng khác gì một người mẹ. Cô ở với chúng tôi đến tảng sáng rồi phải chia tay với chúng tôi, khi hai chúng tôi phải dìu thương bệnh binh, áp tải anh em sang Ruồng.
Vài ngày sau, được tin chiến sự ở núi Bô, anh Phong, bạn anh Nam, lúc đó là Trưởng Ban địch vận Liên Khu Ba, phụ trách báo Công Dân (Nam Định) và tòa soạn báo Étincelle (báo địch vận) cùng anh Hữu Ngọc [1] đã cử liên lạc viên tới đón chúng tôi về Hải Hậu, cách chợ Lương không xa, nơi có trụ sở của cơ quan các anh. Anh Nam tham gia viết bài cho tờ báo Étincelle. Tôi vô công rồi nghề, rất nhớ Quân y viện. Sau hơn hai tháng , chúng tôi từ giã các anh, cảm ơn các anh đã tạm phân công hợp lý để chúng tôi có cảm giác được đóng góp và không là gánh nặng cho cơ quan các anh. Đó là những người mãi mãi là bạn tốt của chúng tôi. Chúng tôi trở lại Trà Châu, dự kiến sẽ tìm đến cụ Bích.
Trên đường tới Trà Châu, chúng tôi rẽ qua Đô Hoàng, nơi gia đình anh Nam đã tản cư về, tại nhà của họ hàng bên chồng của em gái lớn anh Nam. Lúc đó đã vào cuối mùa hè 1949, khoảng tháng 6 tháng 7 tôi không nhớ rõ. Tại Đô Hoàng anh Nam nhận được thư của ông thân sinh ra anh, bố chồng tôi, đã gửi tới đó được ít lâu, nhắn các con phải hồi cư về với gia đình ở Hà Nội, hứa sẽ để chúng tôi tiếp tục đi học, nâng cao trình độ, sau này phục vụ tốt hơn cho đất nước.
Anh Nam đã suy nghĩ, trằn trọc thâu đêm, bàn tới bàn lui với tôi và quyết định trở lại Hà Nội (...)
HỒI CƯ
Lúc đó người ta gọi là “dinh tê”. (Theo tự điển tiếng Việt do Hoàng Phê biên soạn, Nhà XB Đà Nẵng 1975, khẩu ngữ này được xử dụng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, có nghĩa là rời bỏ vùng tự do vào sống ở vùng tạm bị chiếm).
Tôi nghĩ “dinh tê” là phiên âm viết theo dạng chữ quốc ngữ của từ tiếng Pháp “rentrer” (trở vào, vào lại).
Bà M., người phụ nữ dẫn đường đưa chúng tôi vào thành, thân hình nhỏ thó, gầy gò, khẽ khàng, ít nói. Bà ta mặc quần đen, áo dài thâm, hình như có quấn khăn, ăn mặc nửa tỉnh, nửa quê, giống như những người dân sống ở vùng ven nội. Bà ta không bảo chúng tôi phải cải trang gì cả, cứ mặc quần áo cộc như những người xung quanh, vẫn đi dép lốp cũng được. Có lẽ điều đó là bình thường ở vùng tề giáp ranh.
Đô Hoàng cách bến đò Nho Quan khoảng gần 3 - 4 giờ đi bộ. Chúng tôi qua đó rồi tiếp tục đi tới một địa điểm, bà M. bảo là một “bốt gác của chúng nó” ở cửa ngõ thành phố, nhưng vẫn còn là vùng tề. Tại đó, bà M. dẫn chúng tôi đến một ngôi nhà một tầng, trơ trọi có hai phòng: một phòng có một tay lính da đen bồng súng, đi đi lại lại và một phòng khác chỉ lỏng chỏng vài chiếc ghế ngồi. Bà M. đưa chúng tôi vào đó đợi rồi đến gặp tay lính Âu Phi để xuất trình giấy tờ, nói năng vài câu gì đó. Tên này gật đầu, cầm giấy đi, một tên khác da ngăm ngăm nâu đến thay. Hai chúng tôi bồn chồn đợi, mắt đảo xung quanh tìm lối thoát khi cần. Tôi rất sợ, cứ lùi sau lưng anh Nam mỗi khi tên lính bồng súng đi đi lại lại, tiến gần đến phía chúng tôi. Chắc đó là việc nó làm thường ngày, song tôi, thần hồn nát thần tính, trong đầu tưởng tượng ra đủ mọi thứ. Cuối cùng tên lính thứ nhất quay lại, đem giấy tờ: một chiếc thẻ như thẻ căn cước và một tờ giấy giống như giấy thông hành đưa cho bà M., rồi phẩy tay ra hiệu cho chúng tôi đi. Chúng tôi mau mau ra khỏi cái “bốt chết tiệt” ấy, thở phào nhẹ nhõm (...)
Không biết nơi đây có phải là Giáp Bát, Văn Điển không? Chúng tôi cũng không hỏi bà M., chỉ rảo bước theo bà. Một lúc sau, chúng tôi biết đã vào thành phố. Không khí quang cảnh nội thành khác và cách biệt hẳn với vùng kháng chiến khói lửa và vùng tiêu thổ kháng chiến đồng không mông quạnh. Trước mắt tôi, trên đường phố, nhà cửa bên ngoài còn nguyên vẹn, xe cộ đi lại, tàu điện leng keng, các cô gái, đầu tóc phi-dê, có những cô đánh phấn, môi son, quần trắng áo dài đạp xe, hoặc tà áo thướt tha dạo trên đường phố. Các cửa hàng, khách ra vào mua bán khá nhộn nhịp. Thành phố đã lên đèn. Điện sáng trưng.
Tôi cảm thấy lạc lõng và buồn, buồn vô hạn. Tôi cũng không hỏi anh Nam lúc ấy đang nghĩ gì nữa. Rồi bà M. Dẫn chúng tôi đi theo con đường ven hồ, tôi nhận ra là hồ Halais [2], rẽ vào một phố nhỏ, đọc tên trên biển là phố Crévost (sau là phố Thuyền Quang nay là Thiền Quang), đến số nhà 10, bà bảo: “Tới nơi rồi”. Đó là nhà bố mẹ anh Nam mới dọn tới ở được ít lâu [3]. Cả nhà mừng rỡ. Tôi ngỡ ngàng. Tôi chưa quen với khái niệm bố mẹ chồng, cứ nói với anh Nam là: “Cậu mợ anh.” (Anh em anh Nam xưng hô với bố mẹ là con và cậu mợ). Phải sau hơn một tuần, tôi mới bắt đầu gọi được là “cậu mợ”.
Thật ra, cả một thời gian đầu, trong gia đình nhà chồng, tôi chỉ cảm thấy có anh Nam là người thân yêu gần gũi, anh và bà già Binh Ý, người u già đã nuôi anh từ thời kỳ còn bú mớm, ngong ngóng đợi anh trở về, thỉnh thoảng lại lấy quần áo cũ của anh đem ra phơi rồi lại cất đi [4].
Bữa cơm đầu tiên ăn cùng gia đình ở tầng dưới, cạnh bếp. Cậu mợ tôi (tức bố mẹ chồng) đã ăn xong trước và lên gác, còn lại các con. Anh Nam có đông em. Theo thứ tự: Nam, Đồng, Thụ, Lý, Đào, Mai, Lê, Lương. Mỗi Thụ là em trai. Cô Đồng là cô em có chồng quê ngoại ở Đô Hoàng, nơi gia đình anh đã tản cư. Bữa ăn đó, tôi không đếm có bao nhiêu người và cũng chưa nhận diện được những ai, cứ thấy nghèn nghẹn ở cổ không nuốt được. Những câu hỏi của các em được anh Nam trả lời. Rồi anh cũng mau chóng đứng lên: “Thôi anh chị mới về còn mệt, đi nghỉ sớm đây.” Anh đưa tôi về căn phòng tầng một, cạnh nhà tắm và gara, trông ra vườn và đường phố Crévost, cậu mợ dành cho chúng tôi. Bà già Binh Ý đã chuẩn bị sẵn giường và chăn màn, để thêm nước uống và vài chiếc bánh bao bà đã để phần cho chúng tôi, dặn anh Nam: “Tí nữa ăn cho khỏi đói, nãy chắc chưa ăn no được mấy.”
Tôi lẳng lặng lên giường, nằm quay mặt vào tường, tự nhiên thấy mình yếu đuối, nước mắt cứ tuôn trào, chẳng hiểu vì sao nữa, bản thân tôi cũng không hiểu được mình nữa. Tôi cũng chẳng nghe thấy những gì anh thì thầm bên tai tôi, tuy giọng nói trìu mến của anh dần dần cũng làm vợi bớt nỗi cô quạnh của tôi.
(...)
Hồi cư về, phải tiêu tiền Đông Dương, chúng tôi ngại và tránh không muốn cậu mợ phải chi tiêu nhiều cho chúng tôi. Tôi thấy hổ thẹn về điều đó. Từ thời học sinh tôi đã quen sống tự túc.
Cô Đào đưa cho tôi mấy thước lụa Hà Đông trắng mẹ chồng tôi cho. Để khỏi đưa đi may, tốn tiền công, tôi mượn cô Đào một chiếc áo dài cô vẫn mặc làm mẫu, chỉ cần cắt dài hơn một chút vì tôi cao hơn, và tôi tự khâu tay lấy. Ba bốn ngày sau tôi đã may xong áo mặc để đi ra ngoài.
Để có đầy đủ giấy tờ hợp pháp của công dân, chúng tôi đi đăng ký giá thú tại tòa thị chính Hà Nội (ngày 4/10/1949). Nhân dịp này, cậu mợ tôi cho phép chúng tôi tổ chức một buổi ra mắt họ hàng, người thân và một số ít bạn bè cũ của chúng tôi. Tại buổi ra mắt này tôi đã gặp lại mấy người bạn cùng học trường y trước khi đi kháng chiến, nay hồi cư, người học năm thứ ba (Thuần [5]), người học năm thứ hai (Nhị, Thoa).
Bố chồng tôi đồng ý cho chúng tôi tiếp tục trở lại trường đại học như đã hứa. Cả hai chúng tôi đều rất quyết tâm. Đó chẳng phải lý do chính khiến chúng tôi chấp nhận hồi cư? Anh Nam không tiếp tục học thuốc nữa, quá lâu, nếu cả hai cùng theo đuổi. Anh chuyển sang trường Đại Học Khoa học (Faculté des Sciences), vào khoa Toán - Lý - Hoá (Mathematiques Physique et Chimie).
TRỞ LẠI ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI (1949 - 1952)
Mình tôi trở lại ngành y, cái “nghiệp” của tôi. Anh Nam cũng rất ủng hộ ý đồ đó. Tôi đặt mục tiêu đuổi kịp các bạn cùng lớp. Nhà trường yêu cầu tôi phải có văn bằng chứng chỉ PCB (Physique, Chimie, Biologie, tức Lý, Hoá, Sinh) và kiểm tra thẩm định học lực của năm thứ nhất, năm thứ hai, và học kỳ một của năm thứ ba vì lúc đó đã là đầu tháng 11 năm 1949. Tôi tự xét có khả năng thực hiện được, mạnh dạn nộp đơn thi vào năm thứ ba. Nhà trường chấp nhận với điều kiện tôi phải có chứng thực đã học hết kỳ PCB hoặc SPLN (tương đương với PCB) của năm 1944 - 1945, học kỳ ba bị gián đoạn do thời cuộc, và phải trúng tuyển kỳ thi tốt nghiệp PCB 1949. Sau đó kiểm tra thẩm định học lực năm thứ nhất, thứ hai và học kỳ 1 năm thứ ba trường y.
Về kỹ thuật thực hành trong 2 năm đầu (chủ yếu ở hai khoa nội và ngoại), tôi đã qua năm thứ nhất ở 2 khoa đó. Ra kháng chiến tôi đã tích luỹ được những thực tiễn lâm sàng không ít. Về lý thuyết, hai năm đầu chủ yếu tập trung vào giải phẫu và sinh lý học, ít nhất tôi cũng qua một năm thứ nhất chính quy trước ngày toàn quốc kháng chiến. Việc xác định tôi đã học hết học kỳ đầu của PCB-SPCN niên học 1944 - 1945 không mấy khó khăn, hồ sơ cũ thời đó trường vẫn còn lưu giữ đầy đủ.
Về phần lý thuyết các môn Giải phẫu học (Anatomie) và Sinh lý (Physiologie), tôi đã qua một năm thứ nhất chính quy. Những gì cần bổ khuyết, tôi mượn tài liệu của các bạn và của thư viện trường y. Tài liệu bằng tiếng Pháp, ngoại ngữ tôi thông thạo, chỉ cần đọc, học và nhớ. Tôi phải ôn lại và học thêm tất cả mớ kiến thức cơ bản đó trong vòng chưa đầy 2 tháng.
Tôi chui lên tầng tum của sân thượng (Nhà bố mẹ chồng tôi có 3 tầng và một tầng tum). Tôi học ngày học đêm, chỉ đến bữa ăn mới xuống dưới nhà. Mấy cô em tất nhiên không mấy bằng lòng hoặc mặc kệ. Có cô bảo bà già Binh Ý: “U nói với bà bảo mợ Nam xuống chuẩn bị cơm nước đi chứ!” Cậu tôi nghe thấy, nói ngay: “Cứ để yên cho mợ ấy học!” Thế là mợ tôi, bao giờ cũng nghe lời cậu, chẳng gọi tôi nữa. Tôi thầm cám ơn cậu tôi về sự rộng lượng thông cảm của ông.
Vượt vũ môn
___________
Tôi tốt nghiệp kỳ thi PCB năm 1949, đạt chứng chỉ thuộc loại ưu (Mention Bien). Hội đồng chấm thi gồm ba người: Fisher, Montagné và một người thứ ba ký tên không rõ. Chủ tịch hội đồng, duyệt văn bằng tốt nghiệp là Pierre Laurent, hiệu trưởng Đại học Khoa học.
Hội đồng chấm thi trường Y bao gồm ba người: giáo sư Huard [6] - hiệu trưởng, giám đốc bệnh viện Yersin, chủ nhiệm khoa ngoại, giáo sư Blondel [7] - chủ nhiệm khoa nội bệnh viện Bạch Mai, chủ nhiệm bộ môn bệnh lý, giáo sư Rivoalen [8] - chủ nhiệm khoa truyền nhiễm, chủ nhiệm bộ môn sinh lý. Tôi trả lời trôi chảy các câu hỏi vấn đáp của hội đồng. Không biết trước đây tôi đã học ở Lycée, các giáo sư tỏ vẻ ngạc nhiên thấy tôi từ vùng tự do về nhưng nói tiếng Pháp khá nhuần nhuyễn. Tôi được hội đồng thống nhất chấp nhận vào học năm thứ ba với lời khen ngợi của hiệu trưởng Huard. Đó là vào tháng 11 năm 1949.
Đầu năm 1950 có kỳ thi ngoại trú trường y. Lại một trận chiến đấu mới. Tôi rủ Thuần cùng lớp, bạn cũ của cô em gái lớn anh Nam ở trường Bưởi, và khá quen với gia đình, cùng học, cùng ôn, kiểm tra nhau để vượt vũ môn kỳ thi tuyển ngoại trú và chúng tôi đã đỗ.
Năm 1951 lại có kỳ thi tuyển nội trú các bệnh viện (Interne des hôpitaux), tất nhiên khó hơn. Chỉ những sinh viên ngoại trú mới được thi nội trú. Số sinh viên nội trú được tuyển có hạn, khoa nào khuyết nội trú thì mới có nhu cầu tuyển thêm. Hai khoa khó nhất để nhận vào là khoa ngoại và khoa nội. Lại một lần thử sức và phấn đấu mới. Tôi rất mong được trúng tuyển. Lý do: 1) Đó là sự đánh giá cao nhất về trình độ ở đại học y khoa trước khi sinh viên tốt nghiệp y khoa bác sỹ, mở đường cho việc đào tạo ở học vị cao hơn và cho công tác nghiên cứu y học; 2) Một khi đã trở thành sinh viên nội trú, lúc bấy giờ sinh viên được ăn ở ngay trong khuôn viên bệnh viện, đồng thời được nhận thêm một số tiền chi tiêu hàng tháng. Đỗ nội trú, tôi có thể hoàn toàn tự túc, không còn lệ thuộc kinh tế vào bố mẹ chồng, tuy ông bà vẫn luôn sẵn sàng hỗ trợ chúng tôi. Thuần và tôi, cả hai lại tiếp tục cày cuốc. Chúng tôi tương đối hợp nhau, dễ thông cảm nhau hơn là các bạn khác.
Thuần cũng đã có chồng, sống tại gia đình anh của chồng, họa sỹ, có xưởng sản xuất trang bị nội thất bằng gỗ, ở phố Jean Soler (Hàng Bông Thợ Nhuộm bây giờ) [9]. Chúng tôi hồi hộp đợi kết quả thi. Tôi trúng tuyển khoa nội trú nội khoa - ngoại khoa, Thuần vào khoa ung thư (Bệnh viện K).
Do bệnh viện K ở ngay Bệnh viện Phủ Doãn, Thuần ở chung phòng nội trú với tôi tại Bệnh viện Phủ Doãn. Căn phòng bên cạnh là của hai sinh viên nội trú nam, anh Nguyễn Thường Xuân và Trần Sĩ Đôn. Chúng tôi đặt cho anh Trần Sĩ Đôn biệt hiệu là Si Đốn, tuy anh có cái đầu to, rất thông minh, mổ giỏi. Hai anh sau này trở thành anh em đồng hao. Hai phòng sinh viên nội trú, một cho hai nữ, một cho hai nam, khá rộng rãi, thuộc gác hai của ngôi nhà hai tầng ở phía sau bệnh viện, nhìn ra phố Phủ Doãn (nay là phòng khám của bệnh viện Việt Đức). Ăn ở tại đây, chúng tôi hưởng tiêu chuẩn có người phục vụ ăn uống (chỉ đi lấy khẩu phần ăn ở bếp bệnh viện), dọn dẹp vệ sinh hàng ngày.
(Còn tiếp)
Chú giải của N.Đ.Đ.
_________________
[1] Hữu Ngọc (sinh năm 1918) - dịch giả và nhà Việt Nam học, nguyên giám đốc nhà xuất bản Ngoại văn và tổng biên tập tạp chí Vietnam Studies, thông thạo tiếng Pháp, tiếng Anh và tiếng Đức.
[2] Hồ Halais (phát âm A-le) được gọi theo tên của phố Halais, nay là phố Nguyễn Du.
[3] Trước đó gia đình nhà chồng của tác giả sống tại nhà 76 phố Quán Thánh.
[4] U già Binh Ý sau đó cũng đã tiếp tục chăm sóc con gái và con trai út (N.Đ.Đ.) của tác giả cho đến đầu những năm 1960. Như vậy, u già đã sống trong gia đình nhà chồng tác giả và gia đình của tác giả tổng cộng hơn 40 năm.
[5] Bà Nghiêm Thị Thuần (1923 - 2020) và tác giả là hai phụ nữ Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp bác sỹ tại Đại học Y khoa Hà Nội (1952).
[6] Pierre Huard (1901 - 1983) - bác sỹ phẫu thuật và nhà giải phẫu học người Pháp, sử gia về y học và nhân chủng học, chuyên gia hàng đầu về lịch sử y học, từng là hiệu trưởng Đại học Y khoa Hà Nội (1946 - 1954) (doyen de la Faculté de médecine et de pharmacie d'Hanoi), giáo sư Đại học Y khoa Rennes (1955 - 1963), hiệu trưởng Đại học Abidjan (1964 - 1966), giám đốc học tập của École Pratique des Hautes Études (1966-1973), giám đốc Unité de Formation et de Recherche Biomédicale des Saints-Pères tại Đại học Descartes(1970 - 1979) ở Paris. Là chủ tịch hội lịch sử y học Pháp, ông là người sáng lập Trung tâm châu Âu về lịch sử y học tại Đại học Louis Pasteur và viện Nghiên cứu Lịch sử Y học và Dược học tại Đại học René Descartes ở Strasbourg năm 1977.
[7] André Paul Augustin Blondel.
[8] Auguste Rivoalen (1898 - 1985) - giáo sư nội khoa tại Đại học Y khoa Hà Nội, kiêm trưởng phòng (1943-1945), rồi trưởng khoa (1945-1954) tại bệnh viện René Robin, tức bệnh viện Bạch Mai, từng là cố vấn văn hóa cho đại sứ quán Pháp về sứ mệnh văn hóa Pháp ở Việt Nam (1956-1957).
[9] Chồng bác sỹ Nghiêm Thị Thuần là họa sỹ Trịnh Hữu Định (1919 - 2020), em trai của họa sỹ Trịnh Hữu Ngọc (1912 - 1997). Họa sỹ Trịnh Hữu Ngọc Ngọc tốt nghiệp trường Mỹ thuật Đông Dương năm 1938, sau đó mở xưởng đồ gỗ MEMO Ébénisterie (1940 - 1954) tại phố Hàng Bông Thợ Nhuộm. Họa sỹ Trịnh Hữu Định sang Pháp học tại trường Nghệ thuật Trang Trí Paris năm 1953, sau đó trở về Sài Gòn vào đầu thập niên 1960, dạy vẽ tại Đại học Thủ Đức.
Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín (*)
(trích V)
(*) Bác sỹ Vũ Thị Chín sinh năm 1924, tốt nghiệp bác sỹ năm 1952 tại Đại học Y khoa Hà Nội, tốt nghiệp chuyên khoa nhi năm 1954 tại Đại học Y khoa Paris, hiện sống tại Hà nội.
*****************************************************************

TIÊU BẢNG
Được vài tháng, chiến dịch lan rộng đòi hỏi hậu phương tăng cường màng lưới cấp cứu chiến thương. Một quân y viện mới được thành lập ở Tiêu Bảng, cách Ý Yên khoảng hơn 10 cây số. Quân y viện này do bác sỹ Nguyễn Đình Hoằng phụ trách. Gia đình bác sỹ Hoằng tản cư về gần đó. Đô Hoàng là quê ngoại chồng của cô em ruột anh Nam. Cô mới sinh cháu gái thứ hai được mấy ngày, cùng với anh Nam đưa mẹ và các cô em gái tản cư về đó.
Chị Hương và tôi được phiên chế về Quân y viện Tiêu Bảng, tăng cường cho số người còn thiếu phục vụ cho Quân y viện này. Ở đây còn có cụ Cần, dược sĩ và em là Lệ, sinh viên dược, cậu Chi, sinh viên y và cậu Quế, ở bộ phận hành chính.
Cách Tiêu Bảng một cánh đồng ngập nước là làng Ruồng, tại đó được đặt một trạm phẫu thuật do bác sỹ Bích phụ trách với dược sỹ Trần Lâm Huyến và người em học dược, tên là Phúc. Tôi phục vụ ở Quân y viện vừa như sinh viên y vừa như một nhân viên, hưởng sinh hoạt phí của Quân y viện. Ít lâu sau, anh Nam, cháu ruột của bác sỹ Hoằng, do trước khi tản cư, đang học năm thứ nhất trường y, cũng gia nhập quân y. Sau này anh thú nhận: “Nghe chú Hoằng nói ở đây có cô Chín, anh sang liền, vì trước đã nhìn thấy ở Bệnh viện Bạch Mai”. Hoá ra theo đuổi ngành y chỉ là một phần, mà đi tìm “giai nhân” phải chăng mới là lẽ chính?
Sau khi đến Tiêu Bảng được nửa tháng, tôi đột nhiên bị sốt cao 40°C, rét run cầm cập. Nghi bị sốt rét, tôi nhờ anh Nam ra chỗ cụ Cần xin một lam kính về lấy máu đầu ngón tay tìm ký sinh trùng sốt rét. Chỗ cụ Cần có trang bị để làm một số xét nghiệm tối thiểu. Cụ Cần phát hiện tôi bị nhiễm plasmodium vivax (một loại ký sinh trùng sốt rét gây sốt cách nhật), cho tôi thuốc điều trị, trong vài ngày cắt được cơn. Lần tôi ốm đó, anh Nam đã rất lo lắng, cùng chị Hương chăm sóc tôi. Sau đó, chúng tôi rời chỗ ở sang một nhà dân khác, sáng sủa, thông thoáng hơn. Bọn thanh niên chúng tôi làm ở Quân y viện, đều ở tại nhà dân. Chủ nhà dành riêng một nhà cho nam, và một nhà cho nữ, cách nhau khoảng 5 phút đi bộ. Nhóm nam có ba người: Nam, Chi, Quế. Nhóm nữ cũng có ba: hai chị em tôi và Cúc. Cúc là cô em họ tôi cùng tản cư với mẹ về gần chỗ chúng tôi. Bố của Cúc, chú Chúc, đã mất từ lâu, chỉ có mỗi con gái là Cúc, cho sang ở cùng với chúng tôi để có chị có em. Thỉnh thoảng Cúc chạy đi chạy về thăm mẹ. Chúng tôi tổ chức ăn chung, quản lý tài chính do chị Hương, nấu ăn do Cúc, phụ bếp có tôi. Đi chợ xa, có anh Nam hoặc mấy cậu con trai thay phiên nhau đi xách bị, đội thúng cho chị Hương. Có lần mua được con vịt, vịt trói không chặt, giãy tuột khỏi tay, te tái chạy xuống ao. Anh Nam phải nhảy ùm xuống, tha hồ đuổi quanh ao, mãi mới tóm được cổ nó. Bữa cháo vịt tối hôm đó, cả bọn được trận cười no nê. Cậu Quế tinh nghịch bắt chước con vịt chạy lạch bạch và hô mọi người đuổi theo bắt. Đúng là trò trẻ con.
Quân y viện Tiêu Bảng ở hậu cứ. Thương bệnh binh điều dưỡng ở đây một thời gian phục hồi sức khoẻ lại trở về đơn vị phục vụ chiến đấu. Bác sỹ Hoằng có đủ điều kiện về thời gian để giảng dạy cho chúng tôi. Ông thuộc lớp thầy thuốc đầu tiên được đào tạo 4 năm ở trường y Hà Nội, sang Pháp học tiếp hai năm để bảo vệ luận án tốt nghiệp bác sỹ ở Đại học y khoa Paris, chuyên khoa về x-quang và bệnh phổi.
Trước khi tản cư, ông có một phòng khám bệnh và chiếu x-quang ở phố Gia Long (Bà Triệu bây giờ) và một bệnh viện nhỏ ở phố Hàng Bài Hà Nội. Ông cẩn thận, chu đáo với người bệnh, tận tình chỉ dẫn, uốn nắn chúng tôi trong kỹ thuật, thăm khám lâm sàng, về bệnh hô hấp. Tuy không có máy x-quang, nhưng ông rất chịu khó trang bị cho chúng tôi kiến thức cơ bản về sử dụng máy, hình ảnh bình thường và bệnh lý của tim phổi, xương khớp trên những hình và sơ đồ ông tự vẽ cho chúng tôi trên giấy, giải thích cho chúng tôi cơ chế phát sinh và phát triển của các bệnh phổi, bệnh lao, chuyên khoa của ông. Đó là cách học của chúng tôi, một thày và vài ba trò.
Hồi đầu, tình hình ở Quân y viện thật yên ắng, chỉ tập trung vào công việc điều dưỡng cho thương bệnh binh. Với ba bốn chục bệnh binh, chúng tôi đủ sức làm việc cả ngày. Khi rỗi, lại được nghe bác sỹ Hoằng giảng bài.
Buổi tối, sau bữa ăn, sáu đứa chúng tôi thường ở lại nói chuyện. Những đêm sáng trăng, anh Nam có chiếc vĩ cầm anh đã cố mang theo lúc tản cư, đem ra kéo cho chúng tôi thưởng thức những bản nhạc anh ưa thích, những bài ca của Tino Rossi [1], và những bài hát của Văn Cao chúng tôi thường “đồng ca” dưới những đêm trăng, như Suối mơ, Thiên Thai. Sao có thể lãng mạn thế? Trong khoảnh khắc, chúng tôi không còn nghe rầm rập bên tai tiếng: “Diệt phát xít...” Thật đáng xấu hổ phải không? Cả bọn chúng tôi , trừ cậu Quế đều qua tuổi đôi mươi cả. Chúng tôi chỉ là những người bình thường, tầm thường.
Trong nhóm, ngoài cậu Quế, kém hẳn tuổi chúng tôi, có cậu Chi và có Cúc ít tuổi hơn cả. Điều kiện sống gần nhau, hàng ngày gặp nhau, chăm sóc cho nhau, khiến chúng tôi càng xích lại gần nhau. Cậu Quế ranh mãnh tinh ma, hay hùn vào, Chi và Cúc tỏ ra quyến luyến nhau. Quế sẵn sàng giúp đỡ họ.
Riêng tôi, từ trước chỉ say mê học tập, chúi đầu vào sách vở, những tình cảm và rung động về tình yêu bị đẩy vào một góc sâu của vô thức, nay được hé mở dần chờ, đợi được bung ra như những bông hoa nở chậm dưới sự chăm chút ấm áp của anh Nam (...).
Niềm hạnh phúc của chúng tôi hẳn không thể qua mắt mọi người, nhất là của chị Hương. Anh Nam buộc phải thay tôi nói với chị. Vững tâm biết tôi đã tin yêu anh, anh mạnh dạn đề xuất những dự định của anh về tương lai trước mắt đối với tôi. Tôi đã dự đoán được phản ứng của chị. Hai chị em đã từng chung sống với nhau, chị luôn giữ ưu thế tiếng nói của chị, xưa nay tôi ít làm trái ý chị. Song tôi cũng đã sống một mình với những suy nghĩ và tình cảm riêng tư từ nhiều năm. Tôi cảm nhận được sự trưởng thành, nhu cầu và khả năng tự lập của mình từ lúc có quyết định thoát ly khỏi gia đình cô Lương để rong ruổi trên đường vào Quân y viện Ý Yên. Tôi khá bình thản trước sự phản đối của chị. Chị viện lý do: Gia đình chúng tôi hiện ở xa, không có tin tức. Chị không thể vượt quyền bố mẹ vắng mặt. Hai chúng tôi đều đã biết, theo chị Bảy Huệ (sau này là phu nhân của tổng bí thư Nguyễn Văn Linh), gặp chúng tôi khoảng một tháng trước ngày toàn quốc kháng chiến, khi chị mới ở Thái Lan về, là bố chúng tôi đã bị giặc Pháp bắn chết cùng một số chiến sỹ và đồng bào vào ngày thảm sát đẫm máu 21/3/1946 ở Thakhek. Gia đình chúng tôi đã được tổ chức đưa sang Thái Lan. Chị Hương còn phân tích dài dài: việc kết hôn sẽ gây trở ngại cho học tập, mà gia đình đã đặt nhiều hy vọng vào tôi, có người nọ người kia cầu hôn tôi, kể cả một tri huyện nào đó [2] quen cậu Rư, nhưng cậu đã khước từ, không muốn tôi bỏ học đi lấy chồng. Với tất cả những lý lẽ đó, chị Hương nhất định không chấp nhận những thỉnh cầu của anh Nam.
Vào những ngày đó, Quân y viện nhận được thông báo tất cả sinh viên y đều phải tập trung lên trường y ở Việt Bắc. Quân y viện chấn chỉnh tổ chức, sẽ giảm một số nhân viên hành chính quản trị trong đó khả năng sẽ có chị Hương. Nhân đà đó, cho rằng cả hai chị em không thể cùng lên trường y, chị quyết định về dạy học ở Trực Ninh (Nam Định), nơi đang cần giáo viên, và tôi tạm thời về chỗ mợ tham Rư tản cư, gần nơi chị dạy học.
Chúng tôi bùi ngùi chia tay nhau trong sự buồn bã vô hạn. Chi, Cúc, Quế mỗi người một ngả. Chị Hương và tôi về xuôi. Anh Nam trở về Đô Hoàng cùng gia đình mẹ và các em gái đang cần sự nâng đỡ tinh thần của anh. Hai chúng tôi xiết chặt tay nhau, hẹn và rất tin sẽ có ngày gặp lại.
LỤC THỦY
Chị Hương nhanh chóng nhận công tác dạy học và ở ngay tại trường. Tôi trở về với gia đình mợ Rư (...) Mợ tôi và cô Mão vốn là những người gốc đạo Thiên Chúa, nên được sự bảo trợ của cha xứ Lục Thủy, ở sát phủ Xuân Trường (...)
Một hôm tôi bị cảm cúm, sốt và ho, nằm yên trong phòng, ở góc giường. Đột nhiên, anh Nam xuất hiện. Anh đã đi bộ 50 cây số tới thăm tôi [3]. Qua Xuân Trường, anh đã mua được những quả cam mật đỏ chót biếu mợ tôi và cho tôi. Tôi mừng khôn tả, nắm chặt lấy tay anh, thương xót anh đã đi hàng mấy chục cây số đến với tôi. Song anh không nhận được mấy thiện cảm từ phía mợ tôi và cô Mão, đã có định kiến với anh và thường chú trọng tới hình thức bề ngoài. Sau vài ngày tôi khỏi sốt, anh ra về. Tôi tiễn anh ra bến đò. Anh buồn bã, trên mặt thoáng một vẻ thất vọng vu vơ. Anh về rồi, trong nhà mợ tôi, không một ai phát biểu một ý kiến gì. Từ Bùi Chu, chị Hương nhắn tin thúc giục tôi tới đó với chị. Chị không muốn tôi ở lại Lục Thủy làm gia sư. Điều đó cũng dễ hiểu từ phía chị. Quan hệ giữa chị và gia đình mợ Rư xưa nay không thuận, nếu không muốn nói là thiếu thiện cảm từ cả đôi bên, vì nhiều lý do. Trái lại giữa gia đình cậu mợ và tôi đã có những gắn bó tình cảm. Cậu Rư quý các cháu chịu khó học hành, thuần tính. Sống trong gia đình cậu mợ nhiều năm, các em con cậu mợ coi tôi như một người chị lớn, chỉ giúp mà không yêu cầu được đền bù, mà đâu tôi đã giúp gì được nhiều đâu. Tuy nhiên tôi cũng buồn về sự ngầm nhận xét đánh giá chưa thật công bằng của gia đình mợ về anh Nam, do chưa hiểu được hết tính cách của anh.
Khoảng một tháng, sau lần anh đến thăm tôi, anh Trần Lê Văn [4], bạn anh Nam, nhân đi công tác qua Lục Thủy, có ghé thăm (...) và báo tin cho tôi anh Nam mới bị ngã trẹo chân sưng vù, đi lại khó khăn. Nhưng anh trấn an ngay: “Cũng không có gì trầm trọng đâu. Nằm yên một chỗ khoảng nửa tháng là khỏi. Lúc đó có đi 50 cây số đến Lục Thủy vẫn được.” Song tôi vẫn sốt ruột, không phải do chấn thương ở chân anh, tôi cũng cho là không đáng lo ngại, mà do thái độ buồn bã của anh khi chia tay với tôi lần trước.

Một tuần sau, tôi xin phép mợ về thăm cô chú bên nội, ở gần chỗ anh Nam. Hiểu được ý tôi và biết tính tôi đã đã định làm gì là quyết tâm thực hiện nên mợ tôi đồng ý, cho tôi mượn xe đạp, dặn tôi đi đường cẩn thận thân gái dặm trường, và thu xếp trở lại sớm. Tôi đi từ sáng tinh mơ, lộ trình tuy mới qua một lần cùng chị Hương, song tôi vẫn còn nhớ. Vả lại đường ở mồm, không biết thì hỏi thăm, tuy đôi khi cũng khó, dân địa phương thực hiện ba không chỉ lắc đầu, đề phòng Việt gian, thám báo. Làng mạc tôi đi qua lần này khác hẳn, không còn là những vùng trù phú với những cánh đồng lúa xanh, mà đạn pháo, tiêu thổ kháng chiến đã để lại một không gian đìu hiu, cô quạnh, rất ít bóng người. Trên những cánh đồng trơ trụi, đây đó nhô lên những cột nhà cháy đen và những đống gạch tường đổ cùng những nền nhà nham nhở. Xót xa đến thắt ruột.
Đang gò lưng đạp xe ngược gió, tôi suýt xô vào hai cô gái đi ngược chiều đó là hai chị em cô Bắc [5], em gái của anh Trinh, sau này lấy cô Cúc em họ tôi. Tôi cung cấp cho họ những tin về cô Cúc rồi chúng tôi chia tay nhau. Những cuộc gặp gỡ trên con đường tản cư kháng chiến ngắn ngủi vội vã, đôi khi chỉ có một lần. Xế chiều, tôi đến Đô Hoàng. Anh Nam đang ở nhà bà cô của anh còn tản cư ở đó. Mẹ và các em anh đã hồi cư về Hà Nội. Ông thân sinh ra anh mắc kẹt tại Hà Nội đêm 19/12/1946 đã cho người ra đón cả nhà về, trừ anh Nam không chịu về.
Anh rất mừng, nhấc chân cà nhắc ra đón tôi. Bà Hồ, cô ruột anh, hồ hởi nói: “Vui hơn Tết nhé! Cứ ngong ngóng đợi mãi.” Tôi tìm mấy tàu lá láng hơ nóng, bóp chân cho anh. Anh Nam thấy rất dễ chịu và đỡ đau hẳn. Xẩm tối, anh lết chân lấy liếp che sau trái nhà cho tôi tắm và thay quần áo. Không biết anh có lén nhìn trộm không mà khi tôi tắm xong, vào nhà, anh khẽ bảo: “Da trắng, vỗ bì bạch.”
Ăn cơm với gia đình bà cô, toàn những người chưa quen biết, tôi cũng thấy ngượng. Song anh Nam và mọi người cố gắng xua tan bầu không khí mất tự nhiên đó.

Mùa xuân 1948, vào khoảng tháng Ba, mợ Rư và cô Mão rục rịch chuẩn bị hồi cư. Không biết hai bà đã trình bày thế nào với cha xứ qua các buổi cầu kinh xưng tội, song việc giao trả nhà cụ Thượng Oánh cũng như việc thu xếp hồi cư đã trôi chảy, êm ả. Đoàn người hồi cư, khoảng 15 người, xuống một chiếc thuyền to có một người chống và hai người chèo. Khi mỏi tay, họ dùng hai bàn chân để đạp mái chèo. Những người hành cư ở hết trong khoang, thuyền có mui che. Ăn uống có lương thực và nước mang theo.
Đến một bến, cách Đô Hoàng không xa, thuyền đỗ lại cho các lái thuyền được nghỉ tay. Lúc đó mới quá trưa, tôi ra mũi thuyền nhìn ra ngoài, trời sáng trong, hơi se lạnh. Tôi vụt có một quyết định bất ngờ. Tôi đề nghị mợ Rư cho tôi lên bờ, đến Đô Hoàng nói anh Nam đưa tôi về chỗ cô chú tôi tản cư gần đó để báo cho gia đình tôi biết tôi hồi cư cùng mợ. Nếu gia đình đồng ý tôi sẽ tiếp tục đi, nếu không tôi sẽ ở lại. Đi và về nhanh, chiều tối tôi sẽ quay trở lại thuyền. Tôi đã nhảy lên bờ, túi đã khoác vai. Mợ tôi chẳng giữ được. Tôi đi thẳng tới chỗ anh Nam báo cho anh biết. Hai tiếng sau, cậu H., em mợ tôi, được mợ tôi phái đi tìm tôi ở chỗ anh Nam. Anh để tôi tránh mặt cậu H., trả lời đã nhờ người đưa tôi về với bà con bên nội. Không tin lắm, nhưng cậu H. cũng đành quay lại thuyền. Và tôi đã ở lại, không tiếp tục cuộc hành trình hồi cư cùng gia đình mợ.
Đó là bước ngoặt thứ hai trên chặng đường kháng chiến của tôi.
Chỉ trong vài ngày, hai chúng tôi quyết định về Chiều Thôn, nơi gia đình chú Thanh tôi tản cư. Anh Nam mang theo thư do bác sỹ Nguyễn Đình Hoằng, chú ruột anh “thay mặt ông bà Nguyễn Đình Đan, thân sinh ra anh, viết gửi lời cầu hôn cô Vũ Thị Chín cho cháu ruột ông là Nguyễn Đình Nam.” Gia đình chú tôi vui mừng thấy chúng tôi tới. Chú Thanh đã mấy lần gặp anh Nam, có lần ở quê Đại Đê, chú nói chuyện rôm rả với anh, quý cái tính bộc trực, cởi mở của anh. Biết anh là cháu đích tôn của cụ Tú Thể, vừa là nhà nho, vừa là ông lang bốc thuốc mát tay, có uy tín, dân Thành Nam đều trọng nể và tin tưởng cụ, khi được cụ chữa bệnh cho, chú tôi đồng ý cho chúng tôi được kết hôn với nhau (...)
Mùng 9 tháng 5 năm 1948 đám cưới được tổ chức (tại Tiêu Bảng - N.Đ.Đ).
(còn tiếp)
Chú giải:
_______
[1] Constantin "Tino" Rossi (1907 - 1983) - ca sỹ tenor phong cách cabaret và tài tử điện ảnh người Pháp gốc Corsica, một trong những nghệ sỹ bán chạy nhất mọi thời đại, với 2000 bài hát được thu âm và hơn 200 triệu albums đã được bán trong sự nghiệp 50 năm ca hát. (N.Đ.Đ.)
[2] Trần Đ.T., em trai triết gia Trần Đức Thảo, hy sinh trong trận ném bom bắn phá trường ngoại ngữ ở Việt Bắc.
[3] Đô Hoàng cách Lục Thủy 53 km về phía Tây. Từ Đô Hoàng tới Lục Thủy đi bộ mất khoảng 12 tiếng đồng hồ. (N.Đ.Đ.)
[4] Trần Lê Văn (1923 - 2005), tên thật là Trần Văn Lễ, bút danh Trần Lê Văn, Tú Trần, thi sỹ được coi là cây bút đa năng và dẻo dai, có mặt qua nhiều giai đoạn của văn đàn Việt Nam, được truy tặng giải thưởng Nhà nước năm 2017 về văn học nghệ thuật cho các tác phẩm: Sông núi Điện Biên, Hà Nội hoa, Thung mơ Hương Tích. (N.Đ.Đ.)
[5] Một cô sau này là vợ ông Nguyễn Văn Trân, nguyên bí thư thành ủy Hà Nội và một cô là vợ ông Hồ Trúc, cựu học sinh trường Bưởi, nguyên thứ trưởng Bộ Giáo dục.
---------------------------
NHỚ LẠI
Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín (*)
(trích VI)
(*) Bác sỹ Vũ Thị Chín sinh năm 1924, tốt nghiệp bác sỹ năm 1952 tại Đại học Y khoa Hà Nội, tốt nghiệp chuyên khoa nhi năm 1954 tại Đại học Y khoa Paris, hiện sống tại Hà nội.
*****************************************************************

NHỮNG NGÀY SAU KHI CƯỚI
Cưới xong, hai chúng tôi trở lại Quân y viện. Hằng ngày chúng tôi tới ăn cơm tại nhà bà Khánh, cô ruột anh Nam. Ông bà Khánh rất quý anh Nam nên quý cả tôi. Ông bà đông con, thêm hai chúng tôi, chỉ là thêm đũa thêm bát, bà Khánh nói. Tuy chúng tôi có phần đóng góp, nhưng trong hoàn cảnh kháng chiến, cũng thêm vất vả cho cô. Song không được bao lâu, hơn một tháng sau, ông Hoằng, gia đình bà Khánh và cụ Cẩn đều hồi cư. Trong họ Nguyễn Đình tản cư về Đô Hoàng chỉ còn anh Nam ở lại cùng với tôi.
(...) Sau khi bác sỹ Nguyễn Đình Hoằng về hồi cư, bác sỹ Đỗ Xuân Dục được cử về phụ trách, Quân y viện được di dời về Trà Châu. Cùng về còn có bác sỹ Đức và một số nhân viên khác. Do Quân y viện được tăng thêm quân số phục vụ, chúng tôi tiếp tục ở lại Quân y viện và được cấp sinh hoạt phí. Hằng tháng chúng tôi được phát những đồng tiền bằng kền, phải bỏ vào một chiếc bị cói nhỏ cho khỏi lăn như bi của các bà bán rong trước đây ở thành phố. Tôi được phân công chăm sóc bệnh binh. Do biết ngoại ngữ, anh Nam được bố trí chịu trách nhiệm kho thuốc, thực chất chỉ là một tủ thuốc to gồm chủ yếu bông băng, các chai truyền dịch, một số thuốc ngoại từ nội thành đưa ra, qua vùng tề, cần được dịch cách hướng dẫn sử dụng.
Hai chúng tôi ở nhà dân, tại nhà ông Ký Hàn. Nhà chủ để cho chúng tôi ở một túp lều cuối vườn. Hằng ngày chúng tôi vào ăn cơm với gia đình. Hằng tháng chúng tôi nộp tiền ăn cho gia đình theo thoả thuận. Quan hệ sòng phẳng, dễ chịu. Ở nhà ông Ký Hàn, thỉnh thoảng được thết món cầy hương (tôi nghi đó là chuột đồng) do chính tay ông Ký Hàn chế biến khá ngon.
(...) Mặt trận ở đây tạm thời yên ắng. Công việc ở Quân y Trà Châu phẳng lặng. Những khi tương đối nhàn rỗi, tôi chống sào đẩy thuyền nan qua cánh đồng ngập nước, sang bên Ruồng, nơi có trạm phẫu thuật của cụ Bích, để thực hiện những ca tiểu phẫu thuật và băng bó các vết thương phần mềm, bó bột những ca gãy chi, phụ những ca mổ ruột thừa, gắp lấy đạn. Cụ Bích nhiều kinh nghiệm, có tay nghề lâu năm, sẵn sàng và tận tình chỉ bảo hướng dẫn tôi những kỹ năng cần thiết trong các phẫu thuật thông thường. Đôi khi ca mổ hơi kéo dài, đến chiều tôi mới chống thuyền ra về (...)
TRẬN NÉM BOM TRÀ CHÂU
Một ngày tháng 3/1949, lúc đó vẫn còn lạnh, khoảng 11 giờ, chúng tôi chuẩn bị sắp lên nhà ông Ký Hàn ăn cơm thì nghe tiếng máy bay “bà già” ù ù lao tới núi Bô, cách Quân y viện chúng tôi khoảng 2 cây số. Bom được dội xuống, đạn bay tứ phía. Rồi những chiếc dù trắng được thả xuống. Quân địch tiến tới sát Quân y viện. Rốc két và đạn bắn lung tung mọi phía để dọn đường. Dân làng chạy toán loạn. Hai chúng tôi vội khoác chiếc bị cói lên vai rồi dắt nhau chạy thục mạng. Thấy một chuồng lợn có mái che, chúng tôi vội chui rúc vào một góc như các con ỉn trong đó. Định thần lại do đã tương đối ở ngoài tầm đạn, chúng tôi nhìn ra xung quanh. Bên kia con đường làng, cách chỗ chúng tôi 200m, ông Phổ, chủ nhà hàng xóm của ông Ký Hàn, đang ngồi sừng sững, thân hình to béo, đầu gần lìa khỏi thân, cổ bị trúng mảnh rốc két cắt gần đứt, máu mạch cổ đang phun ra phì phì, mắt mở trừng trừng, tất cả sinh lực còn lại dồn vào giữ cho thân hình khỏi đổ, hoặc ông cũng đang ở trong tình trạng chết đứng như Từ Hải (ở đây là chết ngồi). Thật kinh hoàng!
Đến chiều tối tiếng súng mới tắt hẳn. Quân địch đã rút hết. Bác sỹ Đỗ Xuân Dục, quân y viện trưởng bị bắt làm tù binh, đã bị bọn giặc đưa đi. Bác sỹ Đức đã bị bắn chết trên đường quốc lộ đi Phủ Lý, gần nhà thờ Sở Kiện. Cán bộ nhân viên Quân y viện cũng lục tục kéo về nhưng ở rải rác trong nhà dân cùng với thương binh, do không có thương binh quá nặng nên các anh cũng đều đã kịp thời chạy thoát, không có thương vong. Mất viện trưởng, Quân y viện vận hành dưới sự chỉ đạo của đ/c T., trưởng phòng tổ chức Quân y viện, chi uỷ. Chúng tôi tập hợp thương bệnh binh chuẩn bị đưa anh em sang Ruồng, sát nhập với trạm của bác sỹ Bích. Ngay trong đêm, cô Lương tôi từ Chiều Thôn, đội chiếc chăn bông đem đến cho chúng tôi, mừng mừng tủi tủi thấy chúng tôi còn sống sót. Ôi! Tấm lòng của cô, chẳng khác gì một người mẹ. Cô ở với chúng tôi đến tảng sáng rồi phải chia tay với chúng tôi, khi hai chúng tôi phải dìu thương bệnh binh, áp tải anh em sang Ruồng.
Vài ngày sau, được tin chiến sự ở núi Bô, anh Phong, bạn anh Nam, lúc đó là Trưởng Ban địch vận Liên Khu Ba, phụ trách báo Công Dân (Nam Định) và tòa soạn báo Étincelle (báo địch vận) cùng anh Hữu Ngọc [1] đã cử liên lạc viên tới đón chúng tôi về Hải Hậu, cách chợ Lương không xa, nơi có trụ sở của cơ quan các anh. Anh Nam tham gia viết bài cho tờ báo Étincelle. Tôi vô công rồi nghề, rất nhớ Quân y viện. Sau hơn hai tháng , chúng tôi từ giã các anh, cảm ơn các anh đã tạm phân công hợp lý để chúng tôi có cảm giác được đóng góp và không là gánh nặng cho cơ quan các anh. Đó là những người mãi mãi là bạn tốt của chúng tôi. Chúng tôi trở lại Trà Châu, dự kiến sẽ tìm đến cụ Bích.
Trên đường tới Trà Châu, chúng tôi rẽ qua Đô Hoàng, nơi gia đình anh Nam đã tản cư về, tại nhà của họ hàng bên chồng của em gái lớn anh Nam. Lúc đó đã vào cuối mùa hè 1949, khoảng tháng 6 tháng 7 tôi không nhớ rõ. Tại Đô Hoàng anh Nam nhận được thư của ông thân sinh ra anh, bố chồng tôi, đã gửi tới đó được ít lâu, nhắn các con phải hồi cư về với gia đình ở Hà Nội, hứa sẽ để chúng tôi tiếp tục đi học, nâng cao trình độ, sau này phục vụ tốt hơn cho đất nước.
Anh Nam đã suy nghĩ, trằn trọc thâu đêm, bàn tới bàn lui với tôi và quyết định trở lại Hà Nội (...)

HỒI CƯ
Lúc đó người ta gọi là “dinh tê”. (Theo tự điển tiếng Việt do Hoàng Phê biên soạn, Nhà XB Đà Nẵng 1975, khẩu ngữ này được xử dụng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, có nghĩa là rời bỏ vùng tự do vào sống ở vùng tạm bị chiếm).
Tôi nghĩ “dinh tê” là phiên âm viết theo dạng chữ quốc ngữ của từ tiếng Pháp “rentrer” (trở vào, vào lại).
Bà M., người phụ nữ dẫn đường đưa chúng tôi vào thành, thân hình nhỏ thó, gầy gò, khẽ khàng, ít nói. Bà ta mặc quần đen, áo dài thâm, hình như có quấn khăn, ăn mặc nửa tỉnh, nửa quê, giống như những người dân sống ở vùng ven nội. Bà ta không bảo chúng tôi phải cải trang gì cả, cứ mặc quần áo cộc như những người xung quanh, vẫn đi dép lốp cũng được. Có lẽ điều đó là bình thường ở vùng tề giáp ranh.
Đô Hoàng cách bến đò Nho Quan khoảng gần 3 - 4 giờ đi bộ. Chúng tôi qua đó rồi tiếp tục đi tới một địa điểm, bà M. bảo là một “bốt gác của chúng nó” ở cửa ngõ thành phố, nhưng vẫn còn là vùng tề. Tại đó, bà M. dẫn chúng tôi đến một ngôi nhà một tầng, trơ trọi có hai phòng: một phòng có một tay lính da đen bồng súng, đi đi lại lại và một phòng khác chỉ lỏng chỏng vài chiếc ghế ngồi. Bà M. đưa chúng tôi vào đó đợi rồi đến gặp tay lính Âu Phi để xuất trình giấy tờ, nói năng vài câu gì đó. Tên này gật đầu, cầm giấy đi, một tên khác da ngăm ngăm nâu đến thay. Hai chúng tôi bồn chồn đợi, mắt đảo xung quanh tìm lối thoát khi cần. Tôi rất sợ, cứ lùi sau lưng anh Nam mỗi khi tên lính bồng súng đi đi lại lại, tiến gần đến phía chúng tôi. Chắc đó là việc nó làm thường ngày, song tôi, thần hồn nát thần tính, trong đầu tưởng tượng ra đủ mọi thứ. Cuối cùng tên lính thứ nhất quay lại, đem giấy tờ: một chiếc thẻ như thẻ căn cước và một tờ giấy giống như giấy thông hành đưa cho bà M., rồi phẩy tay ra hiệu cho chúng tôi đi. Chúng tôi mau mau ra khỏi cái “bốt chết tiệt” ấy, thở phào nhẹ nhõm (...)
Không biết nơi đây có phải là Giáp Bát, Văn Điển không? Chúng tôi cũng không hỏi bà M., chỉ rảo bước theo bà. Một lúc sau, chúng tôi biết đã vào thành phố. Không khí quang cảnh nội thành khác và cách biệt hẳn với vùng kháng chiến khói lửa và vùng tiêu thổ kháng chiến đồng không mông quạnh. Trước mắt tôi, trên đường phố, nhà cửa bên ngoài còn nguyên vẹn, xe cộ đi lại, tàu điện leng keng, các cô gái, đầu tóc phi-dê, có những cô đánh phấn, môi son, quần trắng áo dài đạp xe, hoặc tà áo thướt tha dạo trên đường phố. Các cửa hàng, khách ra vào mua bán khá nhộn nhịp. Thành phố đã lên đèn. Điện sáng trưng.
Tôi cảm thấy lạc lõng và buồn, buồn vô hạn. Tôi cũng không hỏi anh Nam lúc ấy đang nghĩ gì nữa. Rồi bà M. Dẫn chúng tôi đi theo con đường ven hồ, tôi nhận ra là hồ Halais [2], rẽ vào một phố nhỏ, đọc tên trên biển là phố Crévost (sau là phố Thuyền Quang nay là Thiền Quang), đến số nhà 10, bà bảo: “Tới nơi rồi”. Đó là nhà bố mẹ anh Nam mới dọn tới ở được ít lâu [3]. Cả nhà mừng rỡ. Tôi ngỡ ngàng. Tôi chưa quen với khái niệm bố mẹ chồng, cứ nói với anh Nam là: “Cậu mợ anh.” (Anh em anh Nam xưng hô với bố mẹ là con và cậu mợ). Phải sau hơn một tuần, tôi mới bắt đầu gọi được là “cậu mợ”.
Thật ra, cả một thời gian đầu, trong gia đình nhà chồng, tôi chỉ cảm thấy có anh Nam là người thân yêu gần gũi, anh và bà già Binh Ý, người u già đã nuôi anh từ thời kỳ còn bú mớm, ngong ngóng đợi anh trở về, thỉnh thoảng lại lấy quần áo cũ của anh đem ra phơi rồi lại cất đi [4].
Bữa cơm đầu tiên ăn cùng gia đình ở tầng dưới, cạnh bếp. Cậu mợ tôi (tức bố mẹ chồng) đã ăn xong trước và lên gác, còn lại các con. Anh Nam có đông em. Theo thứ tự: Nam, Đồng, Thụ, Lý, Đào, Mai, Lê, Lương. Mỗi Thụ là em trai. Cô Đồng là cô em có chồng quê ngoại ở Đô Hoàng, nơi gia đình anh đã tản cư. Bữa ăn đó, tôi không đếm có bao nhiêu người và cũng chưa nhận diện được những ai, cứ thấy nghèn nghẹn ở cổ không nuốt được. Những câu hỏi của các em được anh Nam trả lời. Rồi anh cũng mau chóng đứng lên: “Thôi anh chị mới về còn mệt, đi nghỉ sớm đây.” Anh đưa tôi về căn phòng tầng một, cạnh nhà tắm và gara, trông ra vườn và đường phố Crévost, cậu mợ dành cho chúng tôi. Bà già Binh Ý đã chuẩn bị sẵn giường và chăn màn, để thêm nước uống và vài chiếc bánh bao bà đã để phần cho chúng tôi, dặn anh Nam: “Tí nữa ăn cho khỏi đói, nãy chắc chưa ăn no được mấy.”
Tôi lẳng lặng lên giường, nằm quay mặt vào tường, tự nhiên thấy mình yếu đuối, nước mắt cứ tuôn trào, chẳng hiểu vì sao nữa, bản thân tôi cũng không hiểu được mình nữa. Tôi cũng chẳng nghe thấy những gì anh thì thầm bên tai tôi, tuy giọng nói trìu mến của anh dần dần cũng làm vợi bớt nỗi cô quạnh của tôi.

(...)
Hồi cư về, phải tiêu tiền Đông Dương, chúng tôi ngại và tránh không muốn cậu mợ phải chi tiêu nhiều cho chúng tôi. Tôi thấy hổ thẹn về điều đó. Từ thời học sinh tôi đã quen sống tự túc.
Cô Đào đưa cho tôi mấy thước lụa Hà Đông trắng mẹ chồng tôi cho. Để khỏi đưa đi may, tốn tiền công, tôi mượn cô Đào một chiếc áo dài cô vẫn mặc làm mẫu, chỉ cần cắt dài hơn một chút vì tôi cao hơn, và tôi tự khâu tay lấy. Ba bốn ngày sau tôi đã may xong áo mặc để đi ra ngoài.
Để có đầy đủ giấy tờ hợp pháp của công dân, chúng tôi đi đăng ký giá thú tại tòa thị chính Hà Nội (ngày 4/10/1949). Nhân dịp này, cậu mợ tôi cho phép chúng tôi tổ chức một buổi ra mắt họ hàng, người thân và một số ít bạn bè cũ của chúng tôi. Tại buổi ra mắt này tôi đã gặp lại mấy người bạn cùng học trường y trước khi đi kháng chiến, nay hồi cư, người học năm thứ ba (Thuần [5]), người học năm thứ hai (Nhị, Thoa).
Bố chồng tôi đồng ý cho chúng tôi tiếp tục trở lại trường đại học như đã hứa. Cả hai chúng tôi đều rất quyết tâm. Đó chẳng phải lý do chính khiến chúng tôi chấp nhận hồi cư? Anh Nam không tiếp tục học thuốc nữa, quá lâu, nếu cả hai cùng theo đuổi. Anh chuyển sang trường Đại Học Khoa học (Faculté des Sciences), vào khoa Toán - Lý - Hoá (Mathematiques Physique et Chimie).
TRỞ LẠI ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI (1949 - 1952)
Mình tôi trở lại ngành y, cái “nghiệp” của tôi. Anh Nam cũng rất ủng hộ ý đồ đó. Tôi đặt mục tiêu đuổi kịp các bạn cùng lớp. Nhà trường yêu cầu tôi phải có văn bằng chứng chỉ PCB (Physique, Chimie, Biologie, tức Lý, Hoá, Sinh) và kiểm tra thẩm định học lực của năm thứ nhất, năm thứ hai, và học kỳ một của năm thứ ba vì lúc đó đã là đầu tháng 11 năm 1949. Tôi tự xét có khả năng thực hiện được, mạnh dạn nộp đơn thi vào năm thứ ba. Nhà trường chấp nhận với điều kiện tôi phải có chứng thực đã học hết kỳ PCB hoặc SPLN (tương đương với PCB) của năm 1944 - 1945, học kỳ ba bị gián đoạn do thời cuộc, và phải trúng tuyển kỳ thi tốt nghiệp PCB 1949. Sau đó kiểm tra thẩm định học lực năm thứ nhất, thứ hai và học kỳ 1 năm thứ ba trường y.
Về kỹ thuật thực hành trong 2 năm đầu (chủ yếu ở hai khoa nội và ngoại), tôi đã qua năm thứ nhất ở 2 khoa đó. Ra kháng chiến tôi đã tích luỹ được những thực tiễn lâm sàng không ít. Về lý thuyết, hai năm đầu chủ yếu tập trung vào giải phẫu và sinh lý học, ít nhất tôi cũng qua một năm thứ nhất chính quy trước ngày toàn quốc kháng chiến. Việc xác định tôi đã học hết học kỳ đầu của PCB-SPCN niên học 1944 - 1945 không mấy khó khăn, hồ sơ cũ thời đó trường vẫn còn lưu giữ đầy đủ.
Về phần lý thuyết các môn Giải phẫu học (Anatomie) và Sinh lý (Physiologie), tôi đã qua một năm thứ nhất chính quy. Những gì cần bổ khuyết, tôi mượn tài liệu của các bạn và của thư viện trường y. Tài liệu bằng tiếng Pháp, ngoại ngữ tôi thông thạo, chỉ cần đọc, học và nhớ. Tôi phải ôn lại và học thêm tất cả mớ kiến thức cơ bản đó trong vòng chưa đầy 2 tháng.
Tôi chui lên tầng tum của sân thượng (Nhà bố mẹ chồng tôi có 3 tầng và một tầng tum). Tôi học ngày học đêm, chỉ đến bữa ăn mới xuống dưới nhà. Mấy cô em tất nhiên không mấy bằng lòng hoặc mặc kệ. Có cô bảo bà già Binh Ý: “U nói với bà bảo mợ Nam xuống chuẩn bị cơm nước đi chứ!” Cậu tôi nghe thấy, nói ngay: “Cứ để yên cho mợ ấy học!” Thế là mợ tôi, bao giờ cũng nghe lời cậu, chẳng gọi tôi nữa. Tôi thầm cám ơn cậu tôi về sự rộng lượng thông cảm của ông.
Vượt vũ môn
___________
Tôi tốt nghiệp kỳ thi PCB năm 1949, đạt chứng chỉ thuộc loại ưu (Mention Bien). Hội đồng chấm thi gồm ba người: Fisher, Montagné và một người thứ ba ký tên không rõ. Chủ tịch hội đồng, duyệt văn bằng tốt nghiệp là Pierre Laurent, hiệu trưởng Đại học Khoa học.
Hội đồng chấm thi trường Y bao gồm ba người: giáo sư Huard [6] - hiệu trưởng, giám đốc bệnh viện Yersin, chủ nhiệm khoa ngoại, giáo sư Blondel [7] - chủ nhiệm khoa nội bệnh viện Bạch Mai, chủ nhiệm bộ môn bệnh lý, giáo sư Rivoalen [8] - chủ nhiệm khoa truyền nhiễm, chủ nhiệm bộ môn sinh lý. Tôi trả lời trôi chảy các câu hỏi vấn đáp của hội đồng. Không biết trước đây tôi đã học ở Lycée, các giáo sư tỏ vẻ ngạc nhiên thấy tôi từ vùng tự do về nhưng nói tiếng Pháp khá nhuần nhuyễn. Tôi được hội đồng thống nhất chấp nhận vào học năm thứ ba với lời khen ngợi của hiệu trưởng Huard. Đó là vào tháng 11 năm 1949.
Đầu năm 1950 có kỳ thi ngoại trú trường y. Lại một trận chiến đấu mới. Tôi rủ Thuần cùng lớp, bạn cũ của cô em gái lớn anh Nam ở trường Bưởi, và khá quen với gia đình, cùng học, cùng ôn, kiểm tra nhau để vượt vũ môn kỳ thi tuyển ngoại trú và chúng tôi đã đỗ.
Năm 1951 lại có kỳ thi tuyển nội trú các bệnh viện (Interne des hôpitaux), tất nhiên khó hơn. Chỉ những sinh viên ngoại trú mới được thi nội trú. Số sinh viên nội trú được tuyển có hạn, khoa nào khuyết nội trú thì mới có nhu cầu tuyển thêm. Hai khoa khó nhất để nhận vào là khoa ngoại và khoa nội. Lại một lần thử sức và phấn đấu mới. Tôi rất mong được trúng tuyển. Lý do: 1) Đó là sự đánh giá cao nhất về trình độ ở đại học y khoa trước khi sinh viên tốt nghiệp y khoa bác sỹ, mở đường cho việc đào tạo ở học vị cao hơn và cho công tác nghiên cứu y học; 2) Một khi đã trở thành sinh viên nội trú, lúc bấy giờ sinh viên được ăn ở ngay trong khuôn viên bệnh viện, đồng thời được nhận thêm một số tiền chi tiêu hàng tháng. Đỗ nội trú, tôi có thể hoàn toàn tự túc, không còn lệ thuộc kinh tế vào bố mẹ chồng, tuy ông bà vẫn luôn sẵn sàng hỗ trợ chúng tôi. Thuần và tôi, cả hai lại tiếp tục cày cuốc. Chúng tôi tương đối hợp nhau, dễ thông cảm nhau hơn là các bạn khác.
Thuần cũng đã có chồng, sống tại gia đình anh của chồng, họa sỹ, có xưởng sản xuất trang bị nội thất bằng gỗ, ở phố Jean Soler (Hàng Bông Thợ Nhuộm bây giờ) [9]. Chúng tôi hồi hộp đợi kết quả thi. Tôi trúng tuyển khoa nội trú nội khoa - ngoại khoa, Thuần vào khoa ung thư (Bệnh viện K).
Do bệnh viện K ở ngay Bệnh viện Phủ Doãn, Thuần ở chung phòng nội trú với tôi tại Bệnh viện Phủ Doãn. Căn phòng bên cạnh là của hai sinh viên nội trú nam, anh Nguyễn Thường Xuân và Trần Sĩ Đôn. Chúng tôi đặt cho anh Trần Sĩ Đôn biệt hiệu là Si Đốn, tuy anh có cái đầu to, rất thông minh, mổ giỏi. Hai anh sau này trở thành anh em đồng hao. Hai phòng sinh viên nội trú, một cho hai nữ, một cho hai nam, khá rộng rãi, thuộc gác hai của ngôi nhà hai tầng ở phía sau bệnh viện, nhìn ra phố Phủ Doãn (nay là phòng khám của bệnh viện Việt Đức). Ăn ở tại đây, chúng tôi hưởng tiêu chuẩn có người phục vụ ăn uống (chỉ đi lấy khẩu phần ăn ở bếp bệnh viện), dọn dẹp vệ sinh hàng ngày.
(Còn tiếp)
Chú giải của N.Đ.Đ.
_________________
[1] Hữu Ngọc (sinh năm 1918) - dịch giả và nhà Việt Nam học, nguyên giám đốc nhà xuất bản Ngoại văn và tổng biên tập tạp chí Vietnam Studies, thông thạo tiếng Pháp, tiếng Anh và tiếng Đức.
[2] Hồ Halais (phát âm A-le) được gọi theo tên của phố Halais, nay là phố Nguyễn Du.
[3] Trước đó gia đình nhà chồng của tác giả sống tại nhà 76 phố Quán Thánh.
[4] U già Binh Ý sau đó cũng đã tiếp tục chăm sóc con gái và con trai út (N.Đ.Đ.) của tác giả cho đến đầu những năm 1960. Như vậy, u già đã sống trong gia đình nhà chồng tác giả và gia đình của tác giả tổng cộng hơn 40 năm.
[5] Bà Nghiêm Thị Thuần (1923 - 2020) và tác giả là hai phụ nữ Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp bác sỹ tại Đại học Y khoa Hà Nội (1952).
[6] Pierre Huard (1901 - 1983) - bác sỹ phẫu thuật và nhà giải phẫu học người Pháp, sử gia về y học và nhân chủng học, chuyên gia hàng đầu về lịch sử y học, từng là hiệu trưởng Đại học Y khoa Hà Nội (1946 - 1954) (doyen de la Faculté de médecine et de pharmacie d'Hanoi), giáo sư Đại học Y khoa Rennes (1955 - 1963), hiệu trưởng Đại học Abidjan (1964 - 1966), giám đốc học tập của École Pratique des Hautes Études (1966-1973), giám đốc Unité de Formation et de Recherche Biomédicale des Saints-Pères tại Đại học Descartes(1970 - 1979) ở Paris. Là chủ tịch hội lịch sử y học Pháp, ông là người sáng lập Trung tâm châu Âu về lịch sử y học tại Đại học Louis Pasteur và viện Nghiên cứu Lịch sử Y học và Dược học tại Đại học René Descartes ở Strasbourg năm 1977.
[7] André Paul Augustin Blondel.
[8] Auguste Rivoalen (1898 - 1985) - giáo sư nội khoa tại Đại học Y khoa Hà Nội, kiêm trưởng phòng (1943-1945), rồi trưởng khoa (1945-1954) tại bệnh viện René Robin, tức bệnh viện Bạch Mai, từng là cố vấn văn hóa cho đại sứ quán Pháp về sứ mệnh văn hóa Pháp ở Việt Nam (1956-1957).
[9] Chồng bác sỹ Nghiêm Thị Thuần là họa sỹ Trịnh Hữu Định (1919 - 2020), em trai của họa sỹ Trịnh Hữu Ngọc (1912 - 1997). Họa sỹ Trịnh Hữu Ngọc Ngọc tốt nghiệp trường Mỹ thuật Đông Dương năm 1938, sau đó mở xưởng đồ gỗ MEMO Ébénisterie (1940 - 1954) tại phố Hàng Bông Thợ Nhuộm. Họa sỹ Trịnh Hữu Định sang Pháp học tại trường Nghệ thuật Trang Trí Paris năm 1953, sau đó trở về Sài Gòn vào đầu thập niên 1960, dạy vẽ tại Đại học Thủ Đức.