• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Có Hình ⚡️"NHỚ LẠI" - Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín | GIẢI PHÓNG THỦ ĐÔ (9-10/22 chương) ✍️

NHỚ LẠI
Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín (*)
(trích IX)

(*) Bác sỹ Vũ Thị Chín sinh năm 1924, tốt nghiệp bác sỹ năm 1952 tại Đại học Y khoa Hà Nội, tốt nghiệp chuyên khoa nhi năm 1954 tại Đại học Y khoa Paris, hiện sống tại Hà nội.
*****************************************************************
Ảnh: Bác sỹ Vũ Thị Chín và chồng, Nguyễn Đình Nam, tại công viên Montsouris ở Paris năm 1952.


Ở khu vực bờ trái sông còn có hai công trình lớn nữa không thể không được nhắc tới là:
1 - Viện Pháp quốc (Institut de France), nơi hội tụ của 5 viện hàn lâm có tên tuổi: Viện Hàn Lâm Pháp (Académie Française), Viện Hàn lâm Minh văn và Văn học (Académie des Inscriptions et Belles-Lettres), Viện Hàn lâm Khoa học Tự nhiên: Toán - Lý - Hóa (Académie des Sciences: Mathématiques, Physique et Chimie), Viện Hàn lâm Mỹ thuật (Académie des Beaux-Arts), viện Hàn lâm Khoa học Đạo lý và Chính trị (Académie des Siences Morales et Politiques);
2- Đài thiên văn (Observatoire), được xây dựng dưới thời Louis XIV và đã trở thành một trong những đài có tầm cỡ quốc tế về nghiên cứu thiên văn và quan sát vũ trụ.
Song vua Louis đã có lời để lại trong di chúc: “Trong tất cả những công trình trẫm đã cho xây dựng dưới triều đại của trẫm, không hề có gì hữu dụng đối với nhà nước hơn Nhà khách Hoàng gia Les Invalides (Hôtel Royal des Invalides) cho thương bệnh binh. Nơi đây Hoàng đế Napoléon I an nghỉ. Với mái vòm dát vàng Les Invalides nay là một trong những công trình nghệ thuật cổ điển hoàn mỹ nhất của Paris.
Một công lao khác của vua Louis XIV là đã cải tạo kho vũ khí lớn (Grand Arsenal) của Louis XIII thành Bệnh viện La Salpêtrière cho dân nghèo, cho những phụ nữ lầm lỗi, về già không nơi nương tựa, sau này và hiện nay là cho những bệnh nhân tâm thần, mất trí.
Để có một nhãn quan đầy đủ hơn về một Paris cổ , chúng tôi đã hơn một lần đến đảo Île de la Cité (Đảo đô thị); cạnh đảo Saint Louis (Île Saint Louis), giữa dòng sông Seine. Đảo có hình một con tàu lớn neo vào hai bờ sông bằng những cầu ngang sông rất đẹp và hiện đại (như Pont Neuf), mũi tàu là Quảng trường Vert Galant và đuôi tàu ở Quảng trường Île de France. Nhà thờ Notre-Dame de Paris tọa lạc ở giữa, với chóp tháp hình mũi tên cao vút, có tầm nhìn xa, dường như để quan sát canh gác quanh vùng. Nhà văn Anatole France đã nói về nhà thờ Notre-Dame “nặng nề như một con voi, thanh mảnh như một con côn trùng” (insecte), chắc ám chỉ chóp tháp.
Ai đã tham quan, hoặc đọc cuốn Notre-Dame de Paris của Victor Hugo, hẳn không thể không ngưỡng mộ tuyệt tác này của nghệ thuật Gothique. Điều đó đã xảy ra với tôi, từ hồi còn học Lycée, sau khi nhận quyển Notre-Dame de Paris, phần thưởng Prix d’Excellence (xuất sắc) cuối niên học năm thứ ba (classe de troisième). Sách khổ rộng 26 x 36cm, dầy hơn 200 trang, bìa cứng, mô tả khá rõ kiến trúc độc đáo trong và ngoài nhà thờ, để lại mãi trong tôi hình ảnh của hai nhân vật chính trong truyện: Esmeralda, cô gái du cư bohémienne, vừa duyên dáng, hồn nhiên, vừa nhí nhảnh, và Quasimodo, người gác chuông nhà thờ quái dị, ẩn giấu dưới thân hình dị dạng cả một tâm hồn và tình cảm siêu phàm, một tình nhân ái vô biên [1] . Nay tôi lại được tận mắt chiêm ngưỡng từ sân thềm đồ sộ của nhà thờ (parvis), nhìn sang Hôtel-Dieu (Nhà khách của Chúa), đến các cửa chính (portails), trong đó nguy nga nhất là tấm cửa mang chân dung Đức Mẹ Đồng Trinh, rồi đến các tháp tròn (tours) và cửa kính hình hoa hồng ở cánh ngang phía Bắc, hậu cung thanh thoát phía sau, và gác chuông. Mỗi lần đi thăm nhà thờ hoặc ban đêm, đứng trên bờ sông nhìn sang ngọn tháp, bóng dáng của Esmeralda dưới sân thềm và của Quasimodo lẩn quất giữa các bức tượng trên nóc nhà thờ và trong gác chuông lại thoắt hiện lên trong đầu tôi.
Bác sỹ Vũ Thị Chín trên cầu Westminster (London) với Big Ben ở hậu cảnh (1953).

Sự chuyển mình của Paris cổ sớm được thể hiện ở đảo Île de la Cité với sự hiện diện của tháp Eiffel. Khi tháp được khánh thành vào năm 1889, sau 12 năm xây dựng, tổng công trình sư Gustave Eiffel, mệnh danh “nhà ảo thuật của sắt” (Le magicien du fer), sau khi leo hết 1710 bậc thang của tháp và tung lá quốc kỳ Pháp, đã thốt lên: “Đây là lá cờ độc nhất có chiếc cần dài 300m!“ Được đặt trong khung cảnh xanh tươi, khu vực Champ de Mars, thiết kế theo kiểu Pháp, tháp Eiffel từ một đài thiên văn đã trở thành một đài truyền thanh và vô tuyến truyền hình bậc nhất thế giới, xứng đáng là ngọn đuốc của kinh đô Ánh Sáng, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Chúng tôi biết phía hữu ngạn sông Seine ít hơn, tuy nơi đây có nhiều cung điện nguy nga, như các điện Élysées, có khu tam giác vàng với nhiều dinh thự lịch sử thuộc loại nhất Paris, tập trung trong ba khu phố: Madeleine, Port Royal, Marais, và có những công trình rất hoành tráng, mới xây dựng trong quá trình đô thị hóa thành phố.
Đại lộ Champs Élysées là nơi giới thượng lưu, nhất là các Quý Bà, năng lui tới để thưởng lãm những tác phẩm kiến trúc nghệ thuật cổ kim độc nhất vô nhị, tiêu xài xả láng tiền của mà các nhà triệu và tỉ phủ đô-la sẵn sàng cống hiến để các bà đi “shopping” tại các cửa hiệu thời trang, vàng bạc đá quý và mỹ phẩm cao cấp, được bầy bán với giá trên trời.
Có một vài điểm tại đây lại khá quen thuộc với tôi. Đó là quảng trường Ngôi Sao (Place de l’Étoile), còn có tên là quảng trường Charles de Gaulle, và rừng Boulogne (bois de Boulogne) gần đó, do hàng ngày tôi phải đi qua để tới trung tâm Quốc Tế Trẻ em (CIE). Trong khi đợi xe bus, tôi có thể ngắm nhìn và quan sát hoạt động của dòng người và xe cộ vãng lai, trên các cánh của ngôi sao. Có buổi, thảo luận tổ ở CIE tan sớm, khi xuống xe bus ở Place de l’Étoile, tôi có thể đi tản bộ một lúc trên đại lộ Champs Élysées để nhìn phía ngoài của những cung điện và dinh thự ở đây. Cuối đại lộ này là Khải Hoàn Môn (Arc de Triomphe) do Hoàng đế Napoléon I cho xây dựng, thuộc loại vĩ đại nhất thế giới về chiều cao, rộng, và bề dày thực tế cũng như bề dày lịch sử. Dưới vòm chính của cổng được đặt phiến đá lát mộ cho người chiến sỹ vô danh.
Nếu khách du lịch, khi đi tua đến thủ đô Moskva, không thể không tới quảng trường Đỏ để ngắm nhìn điện Kremlin, đến Washington D.C. ở Hoa Kỳ, không thể bỏ qua Nhà Trắng, thì khi đến Paris, chắc có yêu cầu được biết Điện Élysée (Palais de l'Élysée). Cung điện này có thời từng là một dinh thự lịch sử dành cho bà hầu tước Mme de Pompadour, được vua Louis sủng ái, và nổi tiếng về hoạt động chính trị cũng như sự bảo trợ của bà đối với các văn nghệ sỹ, rồi cho Joséphine, quả phụ của tử tước Beaumarchais, có thời gian 5 năm làm hoàng hậu của Napoléon I. Từ giữa thế kỷ 19 Điện Elysée đã trở thành dinh thự của các đời tổng thống nước cộng hòa Pháp.
Giữa Arc de Triomphe và quảng trường La Concorde, trải dài vườn Champs-Élysées dọc con đường dạo Cours de la Reine (promenade du Cours de la Reine), xưa được Marie de Médicis cho trồng toàn những cây dẻ. Vườn Elysées (Jardins des Elysées), bao quanh Đại Cung điện (Grand Palais) và Tiểu Cung điện (Petit Palais), nơi tập trung và triển lãm nhiều sưu tập nghệ thuật quý hiếm, thậm chí cả những bảo tàng. Ngay từ bên ngoài Grand Palais, người ta đã bị cuốn hút bởi những cỗ xe tứ mã được tạc cùng với những con ngựa ở tư thế vừa hùng dũng vừa thanh thoát, chở người thắng trận oai phong, giang tay, ưỡn ngực, ngẩng cao đầu hướng nhìn Khải Hoàn Môn.
Tại quảng trường La Concorde (Place de la Concorde), có lúc mang tên Place de la Révolution, nơi vua Louis XVI và hoàng hậu Marie Antoinette bị hành quyết, nay có thể ngắm nhìn, cạnh hai vòi phun nước lớn, tháp bia đá nguyên khối Obélisque de Louxor, quà tặng của Ai Cập cho nước Pháp dưới thời vua Louis Philippe.

Ngoài quảng trường La Concorde, anh Nam cũng đã dẫn tôi tới quảng trường Vendôme (Place de Vendôme), nơi được dựng lừng lững cột trụ Austerlitz (colonne d’Austerlitz), cột trụ nổi tiếng của Đại quân (Grand Armée), cao 44m, được đúc bằng đồng của 1200 súng đại bác, chiến lợi phẩm. Trên đỉnh cột này có tượng Napoléon I.
Sự tấp nập trên các quảng trường này cũng như Đại lộ Champs- Elysées, với những hiệu kim hoàn tráng lệ, chỉ có thể sánh kịp các đại lộ đã trở thành những con đường huyết mạch xung quanh khu tam giác vàng Madeleine, Port Royal, Opéra, nơi có tòa nhà Ngân hàng Banque de France, và những trung tâm giải trí: Vòng quay les Tuileries (Manège des Tuileries), nhà hát kịch Comédie-Française, và nhà hát Opéra thuộc loại lớn nhất thế giới, bởi diện tích xây dựng và cũng điển hình do khối lượng tiền của phải đổ vào đó để thiết lập nó.
Khách tham quan muốn dành nhiều thời gian hơn cho bảo tàng le Louvre. Dù chỉ đến một lần, như cưỡi ngựa xem hoa, cũng đòi hỏi vài ba buổi mới đi được hết và cần có đôi mắt tinh nhanh, đôi chân dẻo dai, và một chút say mê nghệ thuật hoặc cảm xúc thẩm mỹ, nếu không cũng chỉ là trầm trồ theo đám đông mà không cảm thấu được hết giá trị mỹ thuật của tác phẩm và chiều sâu tư tưởng của các tác giả, thường là những bậc thầy. Kim tự tháp Pyramide lung linh toàn bằng kính, chưa có hồi chúng tôi ở Pháp, gần đây thường được những Việt kiều Pháp nói tới. Có người coi như một thành công lớn của kỹ thuật và công nghệ hiện đại, của đầu óc sáng tạo của các kiến trúc sư. Người khác lại chê trách là đã phá vỡ cảnh quan truyền thống của bảo tàng này, đã được mỗi triều đại để lại dấu ấn của mình.
Trong những làng ven nội, mà Paris đã thu hút vào khuôn viên của mình trong quá trình phát triển và đô thị hóa bên hữu ngạn sông, có hai nơi là đồi Montmartre (buttes Montmartre) và đồi Chaumont (buttes Chaumont). Anh Nam đã có lần dẫn tôi tới những nơi này. Montmartre thật duyên dáng với những ngôi nhà thật đẹp, không quá cao, những quán cà phê và quán ăn luôn đông khách du lịch ngày càng lấn chỗ đặt giá vẽ của các hoạ sỹ, sẵn sàng phác thảo một chân dung của khách hoặc của người bạn đi cùng để làm kỷ niệm, nhà thờ Sacré-Cœur (Basilique du Sacré-Cœur) phía xa, một màu trắng toát bao trùm đồi Montmartre, và một khu phố toàn những ngôi nhà nhỏ xinh xắn.
Còn công viên của đồi Chaumont quả là sự lột xác tuyệt vời của một vùng, vốn toàn những bãi cát, có tiếng là bất hảo như một xóm liều, thành một chốn gần như tiên cảnh dưới bàn tay thần kỳ của những nghệ sỹ danh tiếng.
Paris còn có ba nghĩa trang lớn làm nơi an nghỉ cho những người đã về cõi vĩnh hằng: ở phía Bắc là Montmartre, phía Nam là Montparnasse, và ở phía Đông là Père Lachaise, trên sườn một ngọn đồi. Nghĩa trang cuối cùng này được nhiều người nói tới. Chúng tôi đã tới tham quan và nhận thấy ở đây một môi trường tĩnh lặng, thoáng đãng như một công viên. Không ngờ, giữa trung tâm nơi đây lại có một lò hoả thiêu (crématórium).
Cuối cùng, địa điểm bờ phải sông Seine, tôi thường hay tới trước khi rời Paris, là cửa hàng Samaritaine, để mua sắm quần áo sơ sinh và tã lót, cùng một số quà lưu niệm để tặng bạn bè và người thân. Đó là một cửa hàng rất lớn mới mở, chẳng khác gì một bách hóa, tấp nập khách hàng, giá vừa phải, thích hợp cho những túi tiền thường thường bậc trung.
Xa hơn ra ngoại ô, anh Nam đã có lần đưa tôi đi tham quan cung điện và vườn thượng uyển Versailles, ngay từ thời Louis XIV đã được ưa chuộng hơn vườn Tuileries. Chúng tôi có dịp may mắn được dự lễ hội Nước (Fête des Eaux) ở cung điện Versailles nguy nga tráng lệ này. Thật là một màn diễn đặc sắc, ngoạn mục khó quên.
Song giữa Paris phồn hoa đô thị, khu Quartier Latin vẫn là nơi quen thuộc được chúng tôi yêu mến nhất. Thích thú nhất là những buổi tối trời không quá rét, khoác áo ra đường, quặt ngay đầu phố Racine, sang phố Saint Michel, cạnh hiệu sách Gibert Joseph, mua của ông bán hàng quen thuộc một gói hạt dẻ rang nóng (marrons chauds), rồi thong thả cùng nhau tản bộ trên những con đường trong khu phố Latin. Cũng có lúc chúng tôi cùng ghé vào quán cà phê Dupont hay quán cà phê Hai Ông Phỗng (Les Deux Magots) ở đầu phố Saint Germain, nơi các văn nghệ sỹ đương thời, trong đó có Jean-Paul Sartre, thường lui tới đàm đạo. Chỉ uống một tách cà phê thôi nhưng có thể ngồi hàng giờ tại các quán đó nhâm nhi nói chuyện, suy ngẫm hoặc nhìn khách lãng du qua lại.
Đi xa hơn, chúng tôi ra bờ sông Seine, ngắm nhà thờ Sacré-Cœur trắng xoá ban đêm, hoặc dạo qua các quầy của những ông bán sách (bouquinistes des quais de la Seine), tìm mua những cuốn sách ưa thích không thể kiếm được ở các cửa hàng chính hiệu. Trên đường về, lại có thể mua khoai tây rán (frites), 100F/gói (100 quan/gói) [2], nhai rả rích.
Những cuộc đi dạo êm đềm, tĩnh lặng đầy thi vị đó, để lại những kỷ niệm khó quên: từ hình ảnh người khách lim dim mắt, nhâm nhi tách cà phê đen phiêu diêu nhìn ra phố đêm, đến bóng một kẻ nghèo khổ co ro nằm trên bên miệng một hố ga (chauffage central) sưởi ấm, nghe tiếng gót giầy nện trên hè phố cổ, lẫn với tiếng rao âm ấm của ông hàng bán hạt dẻ: “Marrons chauds đây! Marrons chauds!” hoặc tiếng thúc giục của anh chàng bán khoai tây rán: “Frites 100F đây! Frites 100F ! Mau mau kẻo hết!” (...)
LONDON & CLACTON-ON-SEA
Rồi tôi có mang. Lúc đó tôi đã tốt nghiệp đạt bằng bổ túc Nhi Khoa và Dưỡng Nhi, qua các lớp tập huấn ở CIE, chỉ còn tập trung vào làm luận án và thi lấy bằng Trợ lý Đại học. Anh Nam cũng đã đạt các chứng chỉ và bằng về Anh văn, chỉ còn chuẩn bị tốt nghiệp cử nhân khoa học Toán - Lý (...)

Hè 1953, lúc tôi mang thai khoảng 2 tháng, anh Nam dự kiến đưa tôi đi nghỉ, đồng thời tham quan thêm một nước châu Âu. Chúng tôi chọn nước Ý với mục tiêu là Rome và Venise. Không may rơi vào đợt công nhân hỏa xa và hàng không biểu tình, bãi công, chúng tôi chuyển hướng sang Anh, chọn bãi biển Clacton-on-Sea, khá đẹp và gần London, chi phí không đắt. Trước khi tới đó nghỉ, có thể thăm London, xem cảnh quan các đường phố, di tích lịch sử, bảo tàng, công trình kiến trúc, công viên.
Đặt chân tới London, taxi đưa ngay chúng tôi tới một khách sạn sang trọng, tưởng chúng tôi là khách du lịch Nhật Bản hoặc Trung Đông sẵn tiền. Đến cửa khách sạn đã có ngay người mặc đồng phục chỉnh tề, vội vàng chạy ra mở cửa xe, cúi chào kính cẩn mời vào. Anh Nam nhanh trí nói đã nhầm khách sạn, và chỉ cho xe đi tiếp tới một địa chỉ đã được một bạn sinh viên lớp Anh văn giới thiệu, thuê một phòng tại nhà một góa phụ có phòng cho sinh viên hoặc gia đình ít người thuê ở ngắn ngày. Bữa ăn sáng được bà chuẩn bị với giá phải chăng, thường là trứng ốp lết (omelette) hay sur plat, bánh mỳ ăn với sữa, mứt hoa quả hoặc phết bơ. Các bữa khác chúng tôi ăn ngoài, trong khi đi tham quan bằng xe điện hai tầng hoặc métro. Với bản đồ thành phố trong tay, chúng tôi có thể lên kế hoạch tham quan hằng ngày. Trong vài ba ngày, chúng tôi đã thăm và chụp ảnh tại London Bridge, Big Ben, Marble Arch, Điện Westminster, nay là trụ sở của Quốc hội, trên bờ sông Thames, British Museum, London University, mục kích các phiên đổi gác của những kỵ binh cưỡi ngựa, đội mũ có lông ngù diễu hành trước Bảo tàng Birmingham, thăm mộ Karl Marx giản dị đơn sơ, xem đường phố Picadilly đèn điện nhấp nháy sáng trưng, đẹp nhất ban đêm, vào một cửa hàng ăn của người Anh dùng bữa trưa, xem cung cách ăn uống và ẩm thực của xứ sở sương mù, thực đơn đạm bạc hơn ở Pháp với cùng giá tiền. Sinh hoạt ở Anh vẫn đắt hơn ở Pháp. Khách lẳng lặng ăn, không nhìn ngó người xung quanh, lịch sự và lạnh lùng, phớt Ăng-lê. Một buổi tối, anh Nam mua vé dẫn tôi đi xem kịch ở Covent Garden. Cũng thái độ lãnh đạm, tuy vẫn lịch sự khi đón, tiễn khách và nhận tiền boa (pourboire).
Cuối cùng chúng tôi đã đến bãi tắm Clacton-on-Sea. Người đến tắm biển nghỉ tại đây (khu nghỉ Butlin) đông vừa phải. Bãi biển nhỏ, không nắng đẹp như những bãi biển dài rộng ở nước ta hoặc miền Nam nước Pháp, nhưng rất sạch. Có những ngôi nhà nghỉ nho nhỏ, một tầng cho khách thuê, đủ cho một gia đình có 2 vợ chồng thêm một đứa con, xung quanh có vườn hoa ngăn cách với nhà bên cạnh, đằng trước có hiên đặt được một bàn và vài chiếc ghế mây ngồi tựa. Ăn uống tự túc hoặc ở nhà ăn của khu nghỉ mát. Chúng tôi thường mua thức ăn về nhà, thỉnh thoảng mới ra nhà ăn công cộng. Anh Nam thường ra piscine bơi ngày 2 buổi, chỉ tắm biển buổi sáng, vì nước biển ở đây khá lạnh, tắm xong ngồi phơi nắng trên bãi biển cùng tôi cho tới trưa. Tuy mùa hè, nhưng ở xứ sở sương mù, trời cũng không nắng lắm, còn buổi chiều thì mau tối. Khoảng 4 giờ chiều, chúng tôi rời bãi biển, dạo chơi trên bờ biển hoặc thuê xe ba bánh đạp loanh quanh đến các quán nhỏ ăn hải sản, chủ yếu là hàu (huîtres), hoặc táo nhúng keo đường. Đặc sản ở đây nghèo nàn chỉ có thế. Hơn một tuần ở đây nghỉ ngơi là chính. Cạnh nhà nghỉ của chúng tôi cũng có một gia đình hai vợ chồng người Anh từ vùng ngoại ô London, ở tuổi trung niên, rất vui được trò chuyện với chúng tôi bằng tiếng Anh. Họ cho rằng anh Nam phát âm còn chuẩn hơn cả bọn họ quen nói tiếng Anh địa phương vùng ven nội, giống như người làng Bưởi nói tiếng nội thành thỉnh thoảng phát âm n thành l hoặc ngược lại. Chuyện! Anh ấy vừa đỗ loại xuất sắc về ngữ âm tại Viện ngôn ngữ đại học Sorbonne!
Chúng tôi kết thúc đợt nghỉ (Butlin’s holidays), phấn chấn khoẻ khoắn hơn (...) Trở về Pháp, anh Nam dẫn tôi đi khám thai lại. Thai nhi phát triển bình thường. Qua được ba tháng, không còn phải e ngại lắm về nguy cơ sảy thai (...) Sức khoẻ của tôi không có vấn đề gì. Chế độ ăn tại nhà ăn cho phụ nữ có thai bảo đảm về chất lượng. Công việc học tập của tôi cũng đỡ dồn dập căng thẳng, chỉ còn tập trung hoàn thành luận án tốt nghiệp.

THAM GIA PHONG TRÀO CỦA VIỆT KIỀU ỦNG HỘ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Anh Nam bận rộn hơn tôi, vì vừa học, vừa chăm sóc tôi, lại vừa tích cực tham gia phong trào của sinh viên và Việt kiều yêu nước ủng hộ cách mạng Việt Nam (...) Sau khi sang, anh đã được bà cô của anh, cô Tiếp, tức bà Đào Văn Châu, hội viên của hội Việt kiều yêu nước ở Paris giới thiệu tới đó sinh hoạt. Anh đã gặp anh Nguyễn Khắc Viện [3], lúc đó mới ở sana ra, vết thương cắt một bên lá phổi còn chưa lành sẹo hẳn. Với sự che giấu của một số đảng viên đảng ******** Pháp, anh Viện lúc đầu còn hoạt động bí mật trong công nhân và sinh viên Việt Nam ở Pháp, sau tới bán công khai, rồi công khai ở hội Việt Kiều. Anh Nam đã bắt liên lạc với chị em chị Nhất [4], sang đây từ sau vụ Trần Văn Ơn và tiếp tục hoạt động trong nhóm học sinh sinh viên cách mạng. Anh đã nhận được các tài liệu thông tin tuyên truyền của nhóm, khi thì do chị em chị Nhất chuyển, khi thì do chị Mỹ Văn (sau này là vợ anh Hoàng Nguyên), khi thì từ con gái của bà Nguyễn An Ninh. Qua chị Nhất, anh cũng đã gặp anh Trần Đức Thảo [5] mà anh rất mến mộ về tầm sâu rộng của tư tưởng triết học. Anh Thảo đã tặng anh Nam một vài tài liệu do anh biên soạn, La Pensée Phénoménologie, hồi đó mới in typo trên giấy rất xấu. Anh Nam còn bị cuốn hút vào các cuộc biểu tình tuần hành của sinh viên chống “Cuộc chiến tranh bẩn thỉu” (La sale guerre) ở Đông Dương. Trong các cuộc biểu tình này, lực lượng cảnh sát thường dùng dùi cui cao su vụt không tiếc tay và hơi cay để ngăn cản làn sóng sinh viên phản đối chiến tranh, ủng hộ cánh tả.
Tôi thường không tham gia các cuộc xuống đường tuần hành. Thỉnh thoảng tôi theo anh Nam đi nghe Jacques Duclos [6] diễn thuyết tại sân vận động mùa đông (Stade d’hiver), nếu tôi không nhớ nhầm địa điểm, vì cũng đã lâu rồi. Tôi rất khâm phục tài hùng biện của Duclos, song có lẽ do trình độ ấu trĩ của tôi về chính trị, tôi thấy những điều ông nêu lên thật xa vời và khó thực hiện. Tôi ưa thích hơn những cuộc gặp gỡ tại CLB La Mutualité, những lần được tới thăm một vài nhà trẻ do Syndicat tổ chức cho con cái công nhân, giúp họ phần nào giảm bớt khó khăn về đời sống. Ở đó chúng tôi được đọc báo Humanité, tôi có thể mượn đọc dễ dàng sách tâm lý giáo dục của H. Vallon [7], và nghe thuyết trình các hướng tiến bộ về chăm sóc bà mẹ và trẻ em. Tại đây tôi đã tham gia và được hướng dẫn thực hành về phương pháp “Đẻ không đau” của Lamaze [8] cho chính bác sỹ Lamaze và đồng ngiệp của ông chủ trì, tâm niệm khi sinh con sẽ áp dụng cho chính mình.
Tôi cũng bắt đầu tham gia sinh hoạt nhóm chuyên môn về nhi do bác sỹ Nguyễn Khắc Viện tổ chức, trao đổi về những hiểu biết và nghiên cứu mới về giáo dục và chăm sóc trẻ em. Tiếc rằng mới họp được vài ba lần thì tôi đã về nước. Anh Viện có tặng tôi cuốn sách đầu tay của anh hồi đó mới viết xong, cuốn “Lòng con trẻ” in bằng typo, cũng trên loại giấy xấu như mấy tài liệu của anh Trần Đức Thảo.
Tác phẩm của các anh, hai chúng tôi đều gìn giữ cẩn thận và sau này, khi các anh về nước, chúng tôi đã trân trọng kính tặng lại tác giả: Tác phẩm của ai trở về với người ấy, khi chính chủ nhân của chúng cũng không còn lưu được bản gốc.
Tháng 1/1954, tôi tốt nghiệp lĩnh bằng Trợ lý Đại học người nước ngoài (Assistant Étranger de l’Université de Paris - thực chất là cho Liên bang Đông Dương) về bệnh trẻ em và dưỡng nhi. Tôi được bổ nhiệm, nếu tôi chấp nhận, phụ trách một trung tâm bảo vệ bà mẹ và trẻ em ở Seine-et-Oise ngoại ô Paris (Centre de Protection Maternelle et Infantile Seine-et-Oise, viết tắt CPMI Seine-et-Oise)
Song tình hình trong nước với những thắng lợi giòn giã của quân ta và dân ta trên các mặt trận, tình hình chính trị, xã hội ở Pháp với ưu thế gia tăng của đảng xã hội, với triển vọng thắng thế của Mitterrand trong cuộc bầu cử sắp tới, báo hiệu sự thất bại của quân đội viễn chinh Pháp và thắng lợi tất yếu của cách mạng Việt Nam. Chính phủ Pháp bắt đầu có những quyết định cứng rắn đối với trí thức Việt kiều ở Paris. Ông Phạm Huy Thông [9] bị trục xuất khỏi nước Pháp.
Chúng tôi khấp khởi sắp được về đóng góp sức mình dù ít ỏi, phục vụ Tổ Quốc. Vì thế tôi đã từ chối không nhận việc ở Trung tâm CPMI Seine-et-Oise. Do tôi đã mang thai được bảy tháng và quy định của luật hàng không lúc đó cấm phụ nữ có thai trên bảy tháng không được đi máy bay, nên tôi không đợi để về cùng với anh Nam được vì kỳ thi tốt nghiệp cử nhân khoa học (Licencié es Sciences) của anh được tổ chức vào tháng 7/1954.
(Còn tiếp)
Chú giải:
________
(Các chú giải có ghi N.Đ.Đ. ở cuối là của Nguyễn Đình Đăng)
[1] Tôi rất thích cuốn sách đó, nên đêm 19/12/1946, khi tản cư khỏi Hà Nội, tôi đã mang theo, nhưng rồi cũng không tiếp tục giữ được trong kháng chiến.
[2] Tương đương 6000 VNĐ ngày nay. (N.Đ.Đ.)
[3] Nguyễn Khắc Viện (1913 - 1997) - bác sỹ nhi khoa, nhà hoạt động xã hội, nhà báo, đảng viên đảng ******** Pháp và ĐCS Việt Nam, sang Pháp học nhi khoa năm 1937, tốt nghiệp năm 1941, lãnh đạo phong trào Việt kiều yêu nước ở Pháp, bị Pháp trục xuất năm 1963, sáng lập và chủ biên Tạp chí đối ngoại Nghiên cứu Việt Nam bằng tiếng Pháp và tiếng Anh (Études Vietnamiennes, Vietnam Studies), giám đốc nhà xuất bản Ngoại văn, sáng lập và làm Giám đốc Trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em và tâm bệnh lý (trung tâm N-T) năm 1989, Grand Prix de la Francophonie của viện Hàn lâm Pháp năm 1992, huân chương Độc lập hạng nhất của CHXHCN Việt Nam năm 1997, giải thưởng Nhà nước năm 2000 (truy tặng). (N.Đ.Đ.)
[4] Nguyễn Thị Nhất (1924 - 2022), từng học về tâm lý trẻ em tại Pháp, về nước năm 1955, kết hôn với triết gia Trần Đức Thảo (xem chú giải [5]), rồi chia tay ông năm 1959, kết hôn với BS Nguyễn Khắc Viện năm 1967, kế thừa BS Nguyễn Khắc Viện làm giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Tâm Lý Trẻ Em N-T do BS Nguyễn Khắc Viện sáng lập. (N.Đ.Đ.)
[5] Trần Đức Thảo (1917 - 1993) - triết gia Marxist, học sinh xuất sắc của Lycée Albert Sarraut Hà Nội, sang Paris năm 1936 học tại École Normale Supérieure, người Việt đầu tiên đậu agrégé về triết học tại Pháp năm 1943, bị Pháp bắt giam năm 1945 do ủng hộ Việt Minh và chính phủ Hồ Chí Minh, rời Paris về chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp năm 1951, giáo sư triết học và là phó giám đốc Đại học Sư phạm Văn khoa, Chủ nhiệm khoa lịch sử Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1955 - 1956, bị trừng phạt do dính líu đến phong trào Nhân văn - Giai phẩm khi công bố hai bài báo có bàn đến một số vấn đề về tự do (1957 - 1958), giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2000 (truy tặng). (N.Đ.Đ.)
[6] Jacques Duclos (1896 - 1975) - chính trị gia ******** người Pháp, theo chủ nghĩa Stalin, đảng viên Quốc tế ********, ủy viên trung ương đảng ******** Pháp năm 1926, phó chủ tịch Quốc hội Pháp năm 1936. (N.Đ.Đ.)
[7] Henri Paul Hyacinthe Vallon (1879 - 1962) - triết gia và nhà tâm lý học người Pháp, tốt nghiệp agrégé về triết học tại École Normale Supérieure Paris năm 1902, tốt nghiệp bác sỹ năm 1908, tiến sỹ văn chương năm 1925, sáng lập phòng nghiên cứu tâm sinh lý trẻ em thuộc Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp năm 1927, chính trị gia Marxist, đảng viên ******** Pháp năm 1942, thư ký Giáo dục Quốc gia năm 1944. (N.Đ.Đ.)
[8] Fernand Lamaze (1891 - 1957) - bác sỹ sản khoa người Pháp, đề xuất phương pháp đẻ không đau (L’accouchement sans douleur, viết tắt ASD) hay phương pháp Lamaze. (N.Đ.Đ.)
[9] Phạm Huy Thông (1916 - 1988) - giáo sư sử học, tốt nghiệp cử nhân luật tại Viện Đại học Đông Dương năm 1937, sau đó sang Pháp du học, đậu tiến sỹ luật và thạc sỹ sử địa tại Pháp năm 1942, được Pháp phong giáo sư năm 1947, gia nhập đảng ******** Pháp năm 1949, bị Pháp trục xuất năm 1952 do các hoạt động trong tổ chức Việt kiều ở Pháp mà ông phụ trách, đảng viên đảng Lao động Việt Nam năm 1953, từng phê phán GS Trần Đức Thảo trong vụ Nhân Văn - Giai Phẩm tới mức đã bị chính cha mình mắng: "Tôi không ngờ anh đối xử với bạn anh như thế." (theo Hạ Anh, Một người nước Nam kỳ lạ, Vietnamnet, 21/11/2011), giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2000 (truy tặng), qua đời trong một vụ án mạng bí ẩn tại nhà riêng ở Hà Nội ngày 21/6/1988. (N.Đ.Đ.)


---------------------------------

NHỚ LẠI
Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín (*)
(trích X)

(*) Bác sỹ Vũ Thị Chín sinh năm 1924, tốt nghiệp bác sỹ năm 1952 tại Đại học Y khoa Hà Nội, tốt nghiệp chuyên khoa nhi năm 1954 tại Đại học Y khoa Paris, hiện sống tại Hà nội.
*****************************************************************
Nhà số 10 phố Crévost, nay là phố Thuyền Quang, hiện là trụ sở của Vietcombank.

Chuyến bay về Việt Nam yên ổn, song tới Sài Gòn hơi trễ. Tôi lỡ chuyến bay ra Hà Nội. Hãng Air France bố trí hành khách ở lại khách sạn Continental, đợi bay chuyến ngày hôm sau. Tôi gọi điện thoại cho vợ chồng cô Mai, em anh Nam, lúc đó làm việc ở Sài Gòn. Chú Đại đón tôi tới thăm cô chú. Cô chú đã có một cháu trai. Gia đình sống yên vui. Từ giã cô chú, tôi phải mượn tạm cô chú 100 đồng Đông Dương hẹn sẽ trả ngay sau khi về tới Hà Nội (điều tôi đã thực hiện đầy đủ như đã hứa), do khi rời Paris đã để lại tất cả tiền franc, và tiền Việt thì tất nhiên không có được hơn 10 đồng trong túi.
Ra đón tôi ở Hà Nội có bố chồng tôi và cô Đào, vui mừng thấy tôi khoẻ mạnh. Nhà 10 Crévost không mấy khác xưa. Vợ chồng chú thím Thụ vẫn ở Hải Phòng mở hiệu thuốc Tây, cô Đào vẫn đi làm ở hiệu thuốc bà Hoằng, cô Lê đã ra vùng tự do, cô Lương đang học nữ hộ sinh ở bệnh viện Bạch Mai và tiếp tục hoạt động trong nhóm học sinh thanh nên ủng hộ cách mạng. Cô quen với chị Hà Phương, đã có lúc chị ở nhà chúng tôi nhiều ngày. Sau này tôi mới biết chị là cán bộ phụ nữ hoạt động nội thành, đối tượng vận động của chị là y tá và nữ hộ sinh của bệnh viện Bạch Mai, và chị là vợ của anh Nghĩa, thành ủy viên. Sau ngày giải phóng thủ đô, chị đã giới thiệu tôi với chị Nguyễn Khoa Diệu Hồng.
Về Hà Nội còn hai tháng nữa mới tới ngày sinh, tôi tranh thủ đến làm việc lại tại bệnh viện Đặng Vũ Lạc. Tôi cũng muốn có một chút thu nhập để chuẩn bị cho cuộc sinh nở và tiếp tế cho anh Nam. Tôi định, sinh xong, nếu khoẻ mạnh, cũng sẽ chỉ nghỉ khoảng một tháng.
THẬP NIÊN 1954 - 1964
Sinh con đầu lòng
_______________
10 giờ tối ngày (...) 1954, tôi đang máy thêm chiếc áo sơ sinh, thì có dấu hiệu trở dạ. Lúc đó cô Đào đang ngồi cạnh tôi. Tôi thu xếp áo quần tã lót đã chuẩn bị sẵn. Cô Đào gọi cho tôi một xe xích lô và cùng tôi vào bệnh viện Đặng Vũ Lạc. Bà Lạc cho tôi vào buồng để thăm cho tôi ngay. Thai thuận, cổ tử cung mới hé mở. Tôi về giường nằm nghỉ, song cũng không nằm được. Tôi lại ngồi dậy, bám vào thành giường đi đi lại lại. Quá nửa đêm, cơn đau dồn dập hơn, có lúc tôi phải giữ chặt cột giường để nén cơn đau. Bà Lạc cho tôi trở lại phòng đẻ, khám lại và để tôi tiếp tục nằm trên bàn đẻ, theo dõi. Đau dồn. Ối đã vỡ. Thai thúc xuống, càng đau. Vận dụng phương pháp đẻ không đau của Lamaze, tôi bắt đầu thở theo nhịp chuyển dạ. Bà Lạc động viên tôi rặn. Cho tới 4 giờ sáng, cổ tử cung đã mở hết, thai vẫn chưa ra. Bà Lạc gọi điện mời bác sỹ Đinh Văn Thắng, chuyên gia hàng đầu về sản khoa, đến hỗ trợ. Ông tới ngay, và quyết định đặt forceps. Chóng vánh, ông đã kéo được thai ra. Rách phải khâu ba mũi. Đau xé thịt, nhưng sau khi đã sổ được thai ra, tôi thở phào nhẹ nhõm và hết những cơn đau dồn. Lúc đó là 5 giờ sáng ngày (...) 1954.
Cháu khóc ngay, cân nặng 3.8 kg, dài 50 cm. Mọi người trầm trồ: “Bằng đứa 1 tháng!” Bà Lạc ẵm cháu tới cho tôi nhìn: “Con trai đấy. Báo tin cho bố cháu mừng.” Đợi lấy rau xong, rà soát không bị sót rau, làm vệ sinh xong, kiểm tra sơ sinh một lần nữa, mẹ con tôi được đưa về phòng ở gác hai. Gửi hai mẹ con tôi lại cho bà Lạc và các cô y tá, cô Đào về nhà báo tin cho cậu mợ tôi.
Sáng (...), bác sỹ Diễn, giám đốc bệnh viện, đem hoa và một bộ quần áo sơ sinh màu xanh da trời đến tặng hai mẹ con tôi.
Trong ngày (...), gia đình vào thăm. Mệt nên tôi không nhớ có những ai. Bố mẹ chồng tôi mừng rỡ phấn khởi báo tin cho cụ bà Tú Thể, lúc đó đang ở nhà chú thím Hoằng, là cụ đã có chắt đích tôn. Nhận được điện ở nhà gửi sang, anh Nam đã đặt con tên là Minh [1], và đã có ngay một bài thơ mừng ngày vui đó [2].
THAY LỜI KẾT PHẦN I
___________________
Năm nay tôi 86 tuổi, nếu tính cả tuổi mụ là 87, đang thanh thản đi vào những năm cuối của cuộc đời, thầm nghĩ đã tương đối làm tròn nghĩa vụ với gia đình, xã hội và của một công dân.
Tôi đã làm hết sức mình. Với bất cứ ai, tôi không bao giờ có tư tưởng mong được đền đáp về những việc làm tôi coi là đương nhiên.
Tôi vừa được phẫu thuật mắt, thay cả hai thuỷ tinh thể bị đục gần toàn bộ. Mắt tôi đã lại sáng trong. Tôi đã nhìn thấy rõ hơn thế giới gần xa quanh tôi. Trong dịp này, tôi cũng đã nhìn lại tường tận hơn những sự kiện của một thời quá khứ xa xôi, xâu chuỗi chúng lại trong mối liên kết quan hệ nhân quả tự nhiên. Đã ba năm nay tôi không viết [3], nay cầm bút viết trở lại một hơi. Viết đã trở thành một thói quen, đã tưởng bỏ được, nhưng vẫn không thể. Chẳng để làm gì. Chẳng qua chỉ là cuộc thầm thì giữa mình với mình. Mai sau con cháu có ngẫu nhiên đọc được, cũng coi như một chuyện cổ tích. Hay, dở còn tuỳ, hoặc đó sẽ luôn là một thách đố.
Xuân Canh Dần 4/2010

Trong phần I của “Nhớ lại” tôi đã bút ký những điều dễ nhớ, vì hay và đẹp. Phần II sẽ đòi hỏi nhiều thời gian. Phần này khó nhớ do rắc rối phức tạp, không muốn nhớ, vì động chạm, gây tổn thất, đau thương. Đó là những điều người ta chỉ muốn lấp liếm, không nhớ, không nhắc tới nữa, chôn vùi đã khó rồi, khơi lại càng khó hơn, có ích gì, để làm gì cơ chứ? Hơn nửa đời người ở trong ngành y, tôi vẫn luôn nhớ lời thề Hippocrate:
“Được đặt chân vào các nhà, mắt tôi sẽ không nhòm ngó những gì xảy ra ở đó, tôi sẽ ngậm miệng không tiết lộ những bí mật đã được gửi gắm cho tôi (…) Hãy để đồng nghiệp phỉ nhổ tôi và đồng nghiệp khinh miệt tôi, nếu tôi không thực hiện lời thề này!”
Tôn trọng lời thề đó trong tự sự, coi như một sự tổng kết trong kiểm điểm mình vào cuối đời để lòng được thanh thản. Tôi cố gắng khoanh lại những vấn đề của riêng tôi, không liên quan, ảnh hưởng tới người khác. Không phải dễ. Trong cuộc đời có biết bao mối quan hệ chằng chịt.
Chỉ nêu hiện tượng, sự kiện thôi, đâu có đủ và cho thấy hết vấn đề, có khi lại dẫn tới sự đánh giá và kết luận lệch lạc. Mỗi người nhìn hiện tượng bằng con mắt của mình, và có nhận định với tâm thế riêng của mình.
Cần có đủ thời gian để nhìn nhận và suy ngẫm. Nói sao cho khách quan, trung thực, không thiên vị, không chỉ với người mà cả với mình, và nhất là chính mình.
Vậy xin cái “tôi” cho được khất lại phần II.
PHẦN II
THẬP NIÊN 1954-1964
Nuôi con những tháng đầu
_______________________
Sinh cháu Minh sau một tháng, tôi trở lại với công việc chuyên môn tại bệnh viện Đặng Vũ Lạc.
Tôi đã mượn được một người giúp chăm sóc cháu trong thời gian tôi đi làm. Đó là chị Thảo, một phụ nữ trung niên, đã ly hôn với chồng có vợ hai. Hai người đã có chung một con trai khoảng 4 - 5 tuổi. Trước kia, chị Thảo sống bằng nghề thợ may, nay gửi con ở quê (Hà Nam), còn chị lên Hà Nội, đi giúp việc các gia đình, tìm chỗ nương thân. Chị sạch sẽ, gọn gàng, ngăn nắp, thái độ đàng hoàng, có tinh thần trách nhiệm. Tôi hài lòng về chị, an tâm giao con cho chị chăm sóc và trông nom cửa nhà, trong thời gian đi làm.
Bệnh viện ở gần, đến giờ cho con bú, tôi vẫn về nhà được. Nhờ vậy, cháu Minh được nuôi bằng sữa mẹ trong 3 tháng đầu. Cháu phát triển tốt; tháng đầu tăng 1.2 kg, hai tháng sau, mỗi tháng thêm 1 kg. Ban ngày ngủ ngoan, thỉnh thoảng giật mình co người lại, rồi ngủ tiếp luôn. Song, chỉ nửa tháng sau khi sinh, cứ đầu tối, khi bắt đầu lặn mặt trời, là cháu cất tiếng khóc, khóc xa xả. Tôi bế lên cho bú, cháu chỉ nín được chốc lát rồi lại tiếp tục khóc oe..oe..oe.. Đêm khuya thanh vắng, càng nghe rõ tiếng khóc the thé của trẻ, phá tan bầu không khí im ắng của cả nhà. Cũng may là cậu mợ tôi đã cho mẹ con tôi dọn lên căn buồng phía ngoài ở tầng hai, mở cửa ngay ra cầu thang ngoài đi lên. Tuy nhiên, có những đêm tiếng khóc của cháu làm cả nhà cũng mất ngủ. Cô Đào, từ gác ba chạy xuống, nhân nhượng nói: "Cái thằng 'tò nghoe' này, sao khóc dai thế? Đưa cô bế nào!" Tôi cũng đã mỏi tay lắm rồi, chuyển cháu sang cho cô bế đỡ. Song cháu càng khóc già. Cô đành trao cháu cho chị Thảo. Cháu nằm gọn trong vòng tay chị Thảo và nín bặt. Chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Một là, khóc mãi, mệt, cháu quay sang ngủ yên; hai là do chị Thảo đã khéo ôm ấp trẻ trong vòng tay mềm mại của chị. Tuy trong những ngày tháng sau cháu vẫn tiếp tục khóc về đêm, nhưng có chị Thảo trợ giúp, tôi cũng được ngủ chút ít ban đêm để hôm sau có đủ sức đi làm. Tôi tự động viên và giải thích cho mọi người trong nhà, tỏ ra sốt ruột với tiếng khóc dai dẳng của "tò nghoe", là cháu khóc "dạ đề" (khóc đêm), theo kinh nghiệm dân gian là đủ 3 tháng 10 ngày, trẻ sẽ hết khóc. Nhờ vậy, tôi tránh được sức ép của một số người thân quen, thúc giục cho cháu thuốc an thần để ngủ yên.
Hết 3 tháng, tôi cho cháu tập ăn sam với sữa bò, pha nước cháo loãng, rồi đặc dần lên; lúc đầu, thay một rồi hai bữa bú mẹ bằng sữa bò. Hồi đó trên thị trường, thịnh hành nhất là sữa ‘’Con chim’’ (Nestlé), loại sữa đặc có đường, cũng chẳng tốt lắm, cho trẻ dưới 6 tháng, nhưng không có sự lựa chọn nào khác. Chị Thảo được hướng dẫn cách pha sữa, vệ sinh và đúng tỷ lệ. Chị thực hiện nghiêm chỉnh. Cháu Minh không bị rối loạn tiêu hóa, chấp nhận ăn dặm với các loại rau củ nấu nghiền cùng cháo để pha sữa, cho bú bình qua đầu vú cao su đục lỗ to.
Cháu tiếp tục phát triển tốt. Từ sau 3 tháng, cháu hết khóc dạ đề như dự đoán. Sau bữa ăn cuối về đêm, vào 22 giờ, là bữa sữa bò bú bình. No bụng, cháu ngủ yên đến tảng sáng. Nói chung, cháu mau ăn, chóng lớn, 5 tháng, cân nặng 7 kg. Vào 5 tháng chúng tôi tập cho cháu ăn bột xúc thìa. Thực ra, cháo nghiền rau củ pha lẫn sữa cho cháu ăn cũng đã như bột loãng. Cháu cũng ăn chuối cạo và uống nước bằng thìa. Tập cho cháu ăn bột mặn gặp khó khăn hơn, tuy buổi đầu cho ăn vừa ngọt vừa mặn, nhưng cháu cứ phun phì phì ra. Chị Thảo rất kiên trì, lúc đầu chỉ cho ăn được vài ba thìa sau tăng dần lên, cuối cùng cũng thành công, sau ít nhất nửa tháng tập luyện (...)
Chị Thảo đã có kinh nghiệm nuôi con một cách tự nhiên, nay được hướng dẫn chăm sóc trẻ vệ sinh, nên nuôi cháu Minh không để xảy ra sai sót gì. Cháu đã được tiêm chủng phòng bệnh đầy đủ, hầu như không bị ốm đau bệnh tật. Chị Thảo được thư thả hơn. Cô Đào, thay lời cậu mợ tôi, nói mẹ con tôi ăn riêng. Chị Thảo vui vẻ nấu ăn, ngoài việc chăm em bé. Chị cảm thấy được tự do, thoải mái hơn. Chị nấu ăn sạch sẽ, hợp khẩu vị. Tôi ăn uống cũng đơn giản. Nhờ đó tôi có được nhiều thời gian hơn dành cho công việc tại bệnh viện.
Tôi không còn chỉ làm ở phòng khám, mà đảm nhận theo dõi điều trị thêm một số bệnh nhân nội trú, chủ yếu là trẻ em, khi có yêu cầu của gia đình. Một số ca cấp cứu đã được giải quyết kịp thời, kết quả tốt, đem lại niềm vui cho gia đình và sự tín nhiệm với thày thuốc. Tôi trở thành, một lúc nào đó tôi cũng không hay, bác sỹ gia đình của bệnh nhi đó. Tiếng lành đồn xa, số lượng bệnh nhân của tôi tăng dần. Tôi không làm việc theo lương tháng nữa, mà theo năng suất (đây là tự nguyện của bệnh viện, không do tôi đề nghị). Tôi cảm kích sự quan tâm tế nhị từ phía bệnh viện, tuy tôi mới trở lại với công việc chưa được bao lâu. Khi đó, tôi cần có thêm thu nhập, để ngoài việc nuôi con, gửi tiền sang cho anh Nam cho tới khi anh tốt nghiệp và lĩnh xong bằng mới về được, đồng thời bắt đầu trả dần số tiền chú thím Thụ đã có lòng tốt cho chúng tôi vay trong thời gian chúng tôi đi du học. Tôi đã đi làm, để nợ mãi không tiện.
Các bạn học cũ trường Y, ra trường cùng khóa với tôi, đa số ở lại công tác tại các bệnh viện Hà Nội. Một số bạn thân và trường Y cũng muốn tôi trở lại. Song trong thâm tâm tôi lúc đó, tôi nghĩ mình có nghề tự do, cũng chẳng thích chi làm công chức cho Pháp, nên đã tìm cách thoái thác, viện lý do con hãy còn nhỏ.

Bác sỹ Vũ Thị Chín bên tượng Đại Phật ở Tokyo tháng 5/2010 (trong thời gian viết hồi ký Nhớ lại).

Tình hình ở nội thành vài tháng sau ngày tôi sinh cháu không mấy yên ổn. Quân Pháp thất trận ở nhiều nơi, vùng tự do mở rộng. Chính phủ Pháp ngày càng lệ thuộc vào Mỹ để có viện trợ về quân sự. Để tiếp tế cho binh lính Pháp, tổng chỉ huy quân đội Pháp đã đặt nhiều cầu hàng không từ những căn cứ quân sự của Mỹ ở Thái Bình Dương (...) Trong nội thành, chúng tôi chỉ thấy không khí nhốn nháo chuyển giao cho binh lính của chính phủ Bảo Đại tại những địa điểm quân Pháp đã rút (chủ yếu qua lời tường thuật của người nhà bệnh nhân từ các vùng tề chạy vào). Dân nội thành gọi bọn chúng là lính “pác-ti-zăng”(partisan). Bọn này, trong buổi giao thời, thừa dịp càn quét cướp bóc, kể cả một số nơi trong nội thành. Nạn trộm cắp và đầu cơ gia tăng. Để bù đắp quân số, chính phủ Bảo Đại tuyển quân, bắt lính. Sinh viên trường Y mới tốt nghiệp, một số bác sỹ khoa ngoại bị điều động vào quân đội, coi như phải thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Để đối phó, lực lượng kháng chiến đã tăng cường chiến tranh du kích ở vùng châu thổ sông Hồng để tập trung bộ đội chủ lực vào chiến dịch Điện Biên Phủ. Phục vụ cho chiến dịch này là nguồn nhân lực được cung cấp do nông dân, nam nữ thanh niên các làng xã, ngày ngày thồ bằng đủ các phương tiện, chuyển tải đạn dược, khí tài và tiếp tế lương thực cho mặt trận.
Cũng vào thời điểm đó, chinh phủ kháng chiến ban bố cải cách ruộng đất, động viên được cả một lực lượng to lớn của nông dân làm động lực chủ yếu của cách mạng và của cuộc kháng chiến lúc bấy giờ.
Tin đồn về giảm, xóa tô và chia ruộng đất cho nông dân ở vùng tự do lan truyền vào thành phố. Không ít nhà giàu, có ruộng đất ở quê, rục rịch di cư vào Nam. Một số bệnh nhân bị bệnh mãn tính thổ lộ dự định chuyển vào Sài Gòn, mong có thày có thuốc để được tiếp tục điều trị. Tuy thế, không khí làm việc tại bệnh viện Đặng Vũ Lạc vẫn yên tĩnh. Các bác sỹ trấn an người bệnh: “Bệnh viện và chúng tôi vẫn hoạt động, có sao đâu.” Các y tá và nhân viên khác cũng hùn vào nói thêm. Sau này, tôi được biết một số cán bộ nội thành đã được cài vào hoạt động bí mật trong hàng ngũ nhân viên của bệnh viện.
Chiến thắng Điện Biên Phủ
_______________________
(...) Chiều tối ngày 7 tháng 5, trong trận quyết chiến cuối cùng, lực lượng Việt Nam đã chiếm lĩnh sở chỉ huy của địch, bắt sống tướng de Castries [4] cùng toàn bộ Bộ Tham mưu của địch. Tất cả các cứ điểm của Pháp đều kéo cờ trắng đầu hàng bộ đội ta và tàn quân Pháp đều bị bắt làm tù binh. Nhiều trang sử sách, phim ảnh trong và ngoài nước đã ghi lại sự kiện trong đại này. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã buộc chính phủ Pháp phải chấp nhận chấm dứt chiến tranh.
Không khí náo loạn bắt đầu diễn ra trong nội thành. Nhiều gia đình đã, hoặc khẩn trương, thu xếp vào Nam. Nhưng không ít người quyết tâm ở lại. Cậu mợ tôi ở trong số những người này, thái độ vẫn bình thản. Năm 1946, khi toàn quốc kháng chiến, do bị mắc kẹt lại trong thành phố, nên cậu tôi cũng có ít nhiều kinh nghiệm sống tại vùng tạm chiếm vào thời buổi rối ren. Những người ở lại hồi hộp, hoan hỷ mừng đón tin chiến thắng Điện Biên Phủ. Những người đã có dự kiến ra đi, rốt ráo thu xếp nhà cửa, bàn giao tài sản cho họ hàng còn ở lại, đưa gia đình, con cái di cư.
Bác sĩ Hoằng đến thăm cậu mợ tôi, rất băn khoăn giữa đi và ở. Thím Hoằng, có hiệu thuốc Tây ở đầu phố Hàng Bài, nhất quyết ra đi. Chú thím bảo tôi cùng đi vào Nam mở phòng thăm bệnh hoặc bệnh viện trong đó. Khi biết tôi không có ý định đi, chú đề xuất với tôi nhận quản lý cơ ngơi phòng khám bệnh ở phố Gia Long (phố Bà Triệu bây giờ) và bệnh viện nhỏ ở phố Hàng Bài. Tôi cũng từ chối, cảm ơn lòng tốt của chú. Tôi không ham làm giàu, cũng chẳng thích dính líu về vấn đề kinh tế trong quan hệ gia đình. Tôi biết chú không được vui, nhưng cũng đành phải vậy thôi. Sau này chú đã điều đình với bác sỹ Đỗ Xuân Dục và được ông ấy chấp thuận. Chú buồn rầu nói, khi chia tay với gia đình chúng tôi: “Nếu chỉ có một mình, tôi có thể chống gậy đi ăn mày cũng không sao, nhưng ….’’ Chú im lặng, trầm ngâm không nói tiếp. Ba ông anh ruột của chú, Đan, Phong, Quang, cựu công chức thời Pháp thuộc đều ở lại miền Bắc. Chú ra đi, ở tuổi đã xấp xỉ 50, sẽ phải làm lại từ đầu.
Làn sóng di cư lan rộng trong những địa chủ phong kiến và các người công giáo, chủ yếu thuộc vùng Bùi Chu - Phát Diệm.
(Còn tiếp)
Chú giải:
_______
[1] Vì sinh ra vào buổi bình minh .
[2] Một lý do nữa, đã được giải thích trong bài thơ anh gửi về, trong đó có một số câu đã được nhắc lại trong bài “Ảnh người”, được anh sáng tác vào dịp kỷ niệm sinh nhật Hồ Chủ Tịch năm 1959:
"(...)
Phấn khởi khi sinh đứa bé đầu
Chọn tên, tôi chọn chẳng cần lâu.
Còn gì đẹp đẽ bằng tên Bác,
Là có Bình Minh xuống địa cầu."
(12/5/1959)
[3] Do phải tập trung chăm sóc chồng, lúc này đã nằm liệt giường và không còn tỉnh táo, trước khi ông qua đời vào năm 2009. (N.Đ.Đ.)
[4] Giống như ở ngôi làng nơi xuất xứ của họ này, cách phát âm chính xác của de Castries là “de castre” (đờ cax-t'r). Sự hiện diện của chữ “i” là từ một cách viết cũ mà người ta đã ngần ngại xác định trong một thời gian dài, và rốt cuộc đã giữ nguyên cách viết như ngày nay. Vì thế cách phiên âm "de Castries" thành "Đờ Ca-xtơ-ri" trong không ít bài viết ở ta là nhầm lẫn.
Tương tự như vậy, de Broglie được phát âm là "de breuil" (đờ brơi),
de Guise - "de gouise" (đờ gu-i-z),
d'Ormesson - "d'ormeusson" (đoóc-mơ-xông)
Staël - "stèl" (xte-l)
(N.Đ.Đ., theo Aliénor de Pompignan, «Broglie», «Guise»… Ces noms propres qu’on a trop longtemps écorchés, Le Figaro, 16/4/2022.)
______
 
Nguồn "Nguyễn Đình Đăng" https://nguyendinhdang.wordpress.com/2024/01/05/nho-lai/

Nguyễn Đình Đăng là một nhà vật lý, nhà nghiên cứu về lý thuyết vật lý hạt nhân tại Viện Vật lý hóa học Nhật Bản. Ông còn là một họa sĩ, hội viên của Hội Mỹ thuật Việt Nam, Hội Mỹ thuật Chủ thể Nhật Bản.
tranh1-7103-1487924704.jpg


Tổng Hợp Series
NHỚ LẠI
Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín

Chương 1-2: https://xamvn.fit/r/nho-lai-hoi-ky-cua-bac-sy-vu-thi-chin-giai-phong-thu-do-1-2-22-chuong.1300132/

Chương 3-4: https://xamvn.fit/r/nho-lai-hoi-ky-cua-bac-sy-vu-thi-chin-giai-phong-thu-do-3-4-22-chuong.1300141/

Chương 5-6: https://xamvn.nl/r/nho-lai-hoi-ky-cua-bac-sy-vu-thi-chin-giai-phong-thu-do-5-6-22-chuong.1300533/

Chương 7-8: https://xamvn.nl/r/nho-lai-hoi-ky-cua-bac-sy-vu-thi-chin-giai-phong-thu-do-7-8-22-chuong.1300772/

Chương 9-10 :https://xamvn.nl/r/nho-lai-hoi-ky-cua-bac-sy-vu-thi-chin-giai-phong-thu-do-9-10-22-chuong.1301996/
 
Top