Johnny Lê Nữu Vượng
Già làng


Vị trí địa chiến lược của Quần đảo Andaman và Nicobar ngày càng trở nên quan trọng đối với Ấn Độ. Tọa lạc tại ở vịnh Bengal và biển Andaman, bao gồm 572 hòn đảo (37 đảo trong số đó có người ở), nằm ở một trong những tuyến đường thương mại nhộn nhịp nhất trên thế giới, dài 450 hải lý trải dài từ Bắc xuống Nam, nằm gần lối vào phía Tây của eo biển Malacca - vốn là vùng biển lớn, hiểm lộ trên biển (chokepoints) của Ấn Độ Dương.
Về mặt địa lý, quần đảo Andaman và Nicobar kết nối Nam Á với Đông Nam Á. Mặc dù điểm cực Bắc của quần đảo chỉ cách Myanmar khoảng 22 hải lý, điểm cực Nam - Indira Point - chỉ cách Indonesia hải lý. Các đảo lớn ở Vịnh Benhao, Kênh Sáu độ (Six Degree) và kênh Mười độ (Ten Degree Channels) có hơn 60.000 tàu thương mại qua lại mỗi năm. Quần đảo Andaman và Nicobar chiếm khoảng 0,2% lãnh thổ của Ấn Độ nhưng chiếm 30% Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của quốc gia này.
Với vị trí địa lý quan trọng như vậy, chuỗi đảo này được xem như lớp chắn vật lý đảm bảo cho các tuyến vận tải biển (SLCs) hoạt động thông suốt ở chuỗi hiểm lộ trên biển (chokepoints) như: kênh Praparis ở phía Bắc, kênh 10 độ giữa quần đảo Andaman và nhóm đảo Nicobar và kênh 6 độ ở phía Nam. Trong khi hai tuyến đường biển đầu tiên không được sử dụng thường xuyên cho các tàu thương mại, thì ngược lại tất cả các tàu vượt qua Eo biển Malacca đều phải đi qua Kênh 6 độ. Vị trí của các quần đảo này cũng là căn cứ lý tưởng để theo dõi các hoạt động hải quân ở eo biển Malacca.
Do các đảo này nằm cách đất liền 1.500km, chúng giúp kết nối Ấn Độ với Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Ý nghĩa chiến lược của các quần đảo này được ghi nhận bởi Bộ Quốc phòng Ấn Độ khi quốc gia này đã thành lập một căn cứ quân sự ở đây vào tháng 10/2001

Độ dự kiến sẽ khai thác những thế mạnh về quân sự của những quần đảo này bằng các hoạt động sau:
(i) Thiết lập đội tàu chiến hải quân với các tàu đổ bộ Landing Platform Docks (LPDs) vào năm 2020.
(ii) Triển khai một biện pháp phòng ngừa thông qua thiết lập một hệ thống tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo
Ấn Độ sẽ triển khai nhiều hơn nữa các cảm biến điện tử, hệ thống nhận dạng và theo dõi tầm xa, tăng cường khả năng của lực lượng hải quân và cải tiến kỹ thuật, để cho phép tự động xác định, theo dõi các các tàu hoạt động ở khu vực này cũng như hình thành mạng lưới trung tâm hoạt động trung tâm để kiểm soát các hoạt động ở các hòn đảo trong quần đảo này.
Hiện nay, các nỗ lực của Ấn Độ nhằm đối phó với sự tăng cường hiện diện và gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc ở vùng biển Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được thể hiện qua sự hiện diện của Hạm đội phương Đông (Eastern Fleet) ở cảng phía Đông của Visakhapatnam (Ấn Độ). Mục tiêu của sự sắp xếp này, một mặt để thay đổi bộ mặt hạ tầng cơ sở hạ tầng quân sự vốn đang trên đà phát triển trên các hòn đảo. Nhưng quan trọng hơn, mục tiêu cuối cùng là hiện diện một đội tàu quân sự thường trú ở đây. Nếu các mục tiêu này đi vào hiện thực, sẽ giúp New Delhi có khả năng theo dõi, kiểm soát hoặc từ chối các hoạt động hàng hải của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương, làm cho hòn đảo trở thành một phần quan trọng trong “Chiến lược phong tỏa biển” (sea denial strategy) của Ấn Độ.
Chiến lược biển của Ấn Độ nhấn mạnh hai nội dung: phong tỏa biển (sea denial strategy) và kiểm soát biển (sea control). Lý thuyết tác chiến hải quân cho rằng lực lượng hải quân có thể chiếm ưu thế so với đối thủ bằng cách kiểm soát vùng biển gần bờ hoặc từ chối việc sự dụng các vùng biển này với đối phương. Kiểm soát biển là chiến lược được lựa chọn khi chủ thể có lực lượng chiếm ưu thế nhưng đòi hỏi một số lượng lớn từ sự hỗ trợ về khí tài hiện đại để đưa ra các mệnh lệnh ở khu vực duyên hải trong dài hạn. Ngược lại, một lực lượng yếu hơn tập trung tất cả khả năng để ngăn chặn đối phương (kẻ thù) sử dụng các vùng biển lân cận. Chiến lược phong tỏa biển cũng tương tự như chiến lược chống tiếp cận (anti-access) và chiến lược phong tỏa khu vực (area denial strategy). Quần đảo Andaman và Nicobar có tiềm năng tuyệt vời để triển khai chiến lược này.
Có khả năng Ấn Độ sẽ xây sựng các cơ sở hạ tầng cần thiết trên các hòn đảo, tạo ra các căn cứ quân sự có khả năng chống tiếp cận (anti-access) và vùng kiểm soát hàng hải đặc biệt phong tỏa (area-denial maritime exclusion zone) trong trường hợp có xung đột. Theo đó, trong ngắn hạn, các quần đảo này có khả năng là địa bàn diễn ra các chuyến thăm thường xuyên của các tàu sân bay và trong dài hạn là sự hiện diện của tàu ngầm hạt nhân của Hải quân Ấn Độ. Nó cũng có thể là căn cứ cho các bộ phận của Lực lượng đặc nhiệm (Army’s Special Forces), Trinh sát hải quân (Naval Commandos), một phi đội chiến đấu cơ SU-30 MKI và một phi đội máy bay tiêm kích Jaguar.
Ấn Độ cũng có thể lựa chọn biện pháp để xây dựng cơ sở hạ tầng trên các quần đảo này để tạo nên khu vực huấn luyện quân sự, xây dựng các sân bay có lộ trình đến Mỹ, Úc, New Zealand, Nhật Bản và một số nước Đông Nam Á.
Một điều đáng chú ý là tài liệu về Chiến lược an ninh của Ấn Độ trước đây đã đề cập, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kiểm soát biển và phong tỏa biển là những yêu cầu quan trọng đối với hải quân Ấn Độ. Trong đó, chiến lược phong tỏa biển của Ấn Độ được định hướng để hướng tới đối trọng Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc đang nỗ lực gây ảnh hưởng ở Ấn Độ Dương. Quần đảo Andaman và Nicobar đóng vai trò quan trọng đối với chiến lược này bằng cách đóng góp tích cực cho khả năng vượt trội của hải quân Ấn Độ ở vùng Đông Ấn Độ Dương cũng như ảnh hưởng của nó vượt qua Eo biển Malacca thông qua hợp tác với nhiều quốc gia khác như Indonesia, Australia, Việt Nam và Mỹ.
Tóm lại, có thể nói rằng các quần đảo Andaman và Nicobar cung cấp địa bàn, tạo lực đẩy cho hải quân Ấn Độ tiến vào Tây Thái Bình Dương và xa hơn nữa là chặn họng mọi tàu hàng hải Trung Quốc qua Mallaca