• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Tác phẩm " Tự Nhục " của Phan Bội Châu

Wololooo

Cái nồi có lắp
China
Trong tác phẩm "Tự phán", Phan Bội Châu từng tỏ ra rất thán phục một người kéo xe ở Tokyo đã không tham lam, tìm cách trả đồ mà ông bỏ quên. 100 năm trước người Nhật đã không ăn cắp mà xây dựng nên một nước Nhật giàu mạnh.
- Suy nghĩ về câu chuyện thời sự "tiếp viên Việt Nam bị tố mang đồ ăn cắp ở Nhật", tiến sĩ Đoàn Lê Giang (ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM) viết: Trong tác phẩm "Tự phán", Phan Bội Châu từng tỏ ra rất thán phục một người kéo xe ở Tokyo đã không tham lam, tìm cách trả đồ mà ông bỏ quên. "100 năm trước người Nhật đã không ăn cắp mà xây dựng nên một nước Nhật giàu mạnh. 100 năm sau người Việt Nam vẫn chưa hết được thói ăn cắp".

Đã qua hơn thế kỷ, những câu chuyện "soi mình" và góc nhìn "tự phê phán" với khát vọng về một dân tộc văn minh, không còn bị xấu mặt ở nước ngoài vẫn còn thời sự. Dưới đây là bài viết "tinh thần phê phán của Phan Bội Châu trong Việt Nam quốc sử khảo".


{keywords}
Sách của Phan Bội Châu

Trong Tự phán ( Phan Bội Châu niên biểu ) có đoạn kể lúc mới đến Nhật (1905), Phan Bội Châu gặp một người phu xe Nhật tốt bụng. Người này thấy Phan là dân ngoại quốc, lần đầu đến xứ người, đang lạ nước lạ cái, thì hết sức giúp đỡ, vui vẻ chở tới nơi đã định, tìm hộ người cần gặp, lại chỉ lấy giá xe đúng mức như mọi đám khác.
Nói về người, nhưng Phan không quên nói về mình.

Một nét tâm lý của chính Phan có liên quan trong dịp này được ông ghi nhận:Trong lúc chờ người phu xe lo việc, ông rất băn khoăn. Người phu ấy chạy xuôi chạy ngược suốt từ 2 giờ tới 5 giờ. Tốn công quá !

Và ông liên hệ tới cách sống bon chen vô cảm của những người phu xe trong nước.Sau những vụ này tương tự, họ ăn vạ bắt chẹt đủ đường.

Ông nghĩ bụng, “sợ nó cũng một nết như phu xe nước mình thì e cũng khốn nạn với vấn đề đòi tiền”.

Cách xử sự của người phu xe Nhật khiến Phan đi từ ngạc nhiên đến thán phục, ông tự nhủ “Than ôi ! Trí thức trình độ dân nước ta xem với tên phu xe Nhật bản,chẳng dám chết thẹn lắm hay sao !” (1)

Đọc xong đoạn này, nhiều người hẳn giật mình.

Lâu nay nói tới Phan Bội Châu, ta nghĩ ngay tới một ngọn cờ vẫy gọi lôi cuốn quốc dân hành động chống Pháp. Con người ông là của những sự việc hoành tráng. Nói như Phan Châu Trinh, ông “thích dùng quyền thuật, dám làm, nói lớn lối “. (2)

Gắn liền với tên tuổi ông là những lời hô hào thuyết phục kêu gọi khích lệ.Theo logic thông thường, ta đoán cái chuyện thói hư tật xấu của dân Việt là một khái niệm xa lạ với Phan. Có biết thì ông cũng bỏ qua để khỏi cản trở công việc!

Hóa ra chúng ta nhầm.

Đọc lại tập Cao đẳng quốc dân (1928) tìm thấy trong đó những đoạn hết sức thống thiết.

Chứng bệnh hay giả dối là chứng bệnh chung của người nước ta mà ở trong lại có một chứng đặc biệt là chứng ái quốc giả

Nào đám truy điệu,nào tiệc hoan nghênh, nào là kỷ niệm anh hùng, nào là sùng bái chí sĩ, chuông dồn trống giục, nam hát bắc hò, xem ở trong một đám lúc nhúc lao nhao, cũng đã có mấy phần người biết quyền nước đã mất thì tính mạng không còn, hồn nước có về thì giang sơn mới sống.

Nếu những tấm lòng ái quốc đó mà thật thà chắc chắn thì giống Tiên Rồng chẳng hạnh phúc lắm sao?

Nhưng tội tình thay, khốn khổ thay, người ưu thời mẫn thế chẳng bao nhiêu mà người rao danh thì đầy đường đầy ngõ.

Giọt nước mắt khóc nước vẫn ngày đêm chan chứa mà xem cho kỹ thì rặt nước mắt gừng;

tiếng chuông trống kêu hồn vẫn trong ngoài gióng giả mà nghe cho tới nơi thì rặt là chuông trò trống hội;

ngoài miệng thì ái quốc mà trong bụng vẫn là kim khánh mề đay;

trước mặt người thì ái quốc mà đến lúc đêm khuya thanh vắng thì tính toán những chuyện chó săn chim mồi.

Cha ôi! trời ôi! ái quốc gì? ái quốc thế ư? Đeo mặt nạ ái quốc để phỉnh chúng lừa đời, một mặt thời mua chuốc lấy tiếng chí sĩ chân nhân, một mặt thì ôm chặt lấy lốt ông tham bà đốc.(3)

Lúc này, tác giả đã về Huế an trí nên việc những đoạn trên xuất hiện dưới ngòi bút của Phan là dễ hiểu. Ông già bến Ngự thôi không còn là một nhà hoạt động sôi nổi mà trở lại vai trò một người trí thức. Và trong tâm trí của chúng ta, nó có vẻ là một cái gì lạc điệu, không phải một Phan Bội Châu chúng ta hằng nghĩ.

Quay trở lại những cuốn như Việt nam quốc sử khảo(1908) thì thấy thật ra cách nhìn cách suy nghĩ có tính cách phê phán đã đến với Phan ngay trong lúc hoạt động ở Nhật. Không thấy phương diện này trong tư tưởng Phan Bội Châu tức là làm nghèo ông đi rất nhiều.

Tinh thần chính trực “ nhìn thẳng vào sự thật”

Chương thứ năm trong Việt Nam quốc sử khảo mang tên Sự thịnh suy của dân quyền và dân trí của nước ta.

Tiết thứ tư của chương bàn kỹ về dân trí mà Phan khái quát chung bằng một từ “đáng thương“

(...) Vì vậy, giờ đây tôi xin kể những điều tai nghe mắt thấy để quốc dân cùng biết:

Hay nghi kỵ lẫn nhau, không làm nên việc gì cả, đó là điều rất ngu thứ nhất.

Tôn sùng những điều xa hoa vô ích, bỏ bễ những sự nghiệp đáng làm, đó là điều rất ngu thứ hai.

Chỉ biết lợi mình mà không biết hợp quần, đó là điều rất ngu thứ ba.

Thương tiếc của riêng, không tưởng đến việc ích chung, đó là điều rất ngu thứ tư.

Biết có thân mình nhà mìnhmà không biết có nước, đó là điều rất ngu thứ năm.

Dân được cường thịnh là nhờ có sự nghiệp công ích. Nay những việc đó, người nước ta đều không thể làm được.Hỏi vì sao không làm được, thì nói là vì không có tiền của. Sở dĩ không có tiền của là vì đã tiêu phí vào những việc vô ích xa hoa rồi. “ (5)

Nhìn chung cả tiết này, có thể thấy thói hư tật xấu mà Phan nêu ra chưa phải toàn diện. Trong phạm vi 15 trang ( Tr 222- 235) của một cuốn sách 140 trang (163- 305), ông chỉ tập trung vào những thói xấu có hại cho công cuộc vậnđộng cách mạng. Đó là cách sống rời rẽ sự nghi kỵ lẫn nhau, người nào cũng chỉ biết lợi riêng, không ai tin ai, không ai đoàn kết ai.

Tuy nhiên, trên đà suy nghĩ tự phán ông đã nhìn rộng ra để nói rằng xã hội ta chưa được tổ chức lại một cách hợp lý, cũng như trong sự vụ lợi, ông thấy rõ chúng ta còn dừng lại ở một tầm nhìn tầm nghĩ hạn hẹp, không sử dụng hết năng lực làm người của mình.

Một thói xấu cũng được Phan sớm để ý tới là sự xa hoa. Tại sao ? Để hiểu điều này phải trở lại với hoàn cảnh của Phan lúc đó : Không có thực lực, khôngcó tiền của.

Đọc Tự phán thấy ở Nhật có lúc các ông phải đi ăn mày. Trong khi đó thì trong nước nhiều người không biết dùng của cải vật chất vào việcgì.

Trong một văn bản được viết chủ yếu để tuyên truyền ông không quên nói cả chuyện hôn nhân, chuyện tang ma.

Nhìn vào những đám cưới phiền phức, ông thấy ở đó chúng ta bị những lề tục tự phát trói buộc, rồi cứ bày đàn mà theo nhau “ nhà giàu thì hao phí tiền của, nhà nghèo thì phải cầm bán ruộng đất sản nghiệp” “làm một việc hao tổn vô vị,thật quái gở thay’’.

Hoặc nhìn vào những đám tang trong lúc người trong cuộc đau đớn thì chung quanh ăn uống linh đình, ông bảo “sao mà nhẫn tâm thế, sao mà ngu ngốc thế”.

Đến như cái việc mà cho đến đầu thế kỷ XXI này, dân ta vẫn coi là một cái gì thiêng liêng, không ai dám mang ra bàn, Phan Bội Châu cũng đề cập tới theo cách riêng của mình.

Đó là câu chuyện đua nhau làm cỗ thật to gọi là thờ cúng tổ tiên.

Ông thấy ở cách làm đó một sự phô trương giả tạo. Cái lý của tác giả rất cụ thể

“ Chưa một ai chết rồi mà còn có thể ăn thịt uống rượu được… Bày biện cỗ bàn, giết thịt bò dê gà lợn để mời hàng xóm họ hàng khách khứa đến ăn uống no say mới thôi, như thế có phải là mượn tiếng người chết để làm sướng mồm người sống hay không ?

Thật là nhẫn tâm quá.

Huống chi lúc cha mẹ đang sống, một chén cơm một bát canh cũng không cho ăn ; đến khi chết rồi thì lạilàm lễ tam sinh tốn kém hàng vạn để báo hiếu ? Sao lại lừa dối người quáđến thế?

Tấm lòng và tầm vóc suy nghĩ

Cũng như khi hô hào kêu gọi, -- khi nhắc lại những thói xấu nói trên, Phan Bội Châu có cái giọng rất thống thiết.

Ông dùng đến những chữ rất nặng, những chữ mà người khác nói ra sẽ lập tức bị buộc tội là khinh rẻ dân tộc chẳng hạn như ngu, ngu muội ( lắp lại tới 7 lần ).

Nhiều đoạn sau khi kể thói xấu, lại thường kết bằng một câu hỏi “ Sao mà ngu thế ?” “thật là ngu quá không thể hiểu được”.

Nên nhớ những đoạn đang nói ở đây là trích ra từ trong một cuốn sử. Chúng ta biết rằng nền sử học ở ta đầu thế kỷ XX ít về số lượng mà đơn sơ về quanniệm, do đó chất lượng non yếu kém cỏi, không đáp ứng được nhu cầu tự nhận thức của dân tộc.

So với cả trước cả sau, trong cái vẻ còn luộm thuộm vụn vặt, Việt nam quốc sử khảo đã mở ra một quan niệm mới về cách viết sử.

Phải có cả sử phong tục tập quán. Phải sớm viết sử về tâm lý người dân thường. Phải có cả lịch sử sự giao lưu và tiếp nhận của ta với nước ngoài . Từ nhữngviệc Phan Bội Châu đã làm, người ta có thể rút ra những phương hướng làm sử như vậy.

Về việc sử dụng chuẩn mực khi phê phán, có đến mấy lần khi nêu ra thói hư tật xấu của người mình, Phan Bội Châu dùng đến những chữ như “quái gở thay “ “hoặc đặt câu hỏi “đạo làm người có nên như thế không? “.

Tức là khi xét thói hư tật xấu, ông xuất phát từ những nguyên lý nhân bản nói chung.

Tiêu chuẩn để ông xem xét rồi từ đó bảo cái này tốt cái kia xấu không phải là những tiêu chuẩn riêng của Việt Nam mà là những chuẩn mực chung của nhân loại.

Với cách suy nghĩ như thế, phải nói Phan Bội Châu đã đạt tới cốt cách của một nhà trí thức theo nghĩa hiện đại.

Mang so sánh dân mình với dân xứ khác là một điều nhiều người ngần ngại, vì rất dễ rơi vào dung tục thô thiển .

Nhưng Phan Bội Châu đã làm và làm một cách thuyết phục.

Sau khi kể khá kỹ ở Nhật người ta tiến hành tang ma hiếu hỷ đơn giản mà chân thành ra sao, ông quay lại phê phán lễ nghi cổ hủ của người mình.

Vấn đề không chỉ là Phan Bội Châu có một quan niệm thông thoáng đối với các vấn đề đời sống.

Mà dường như ông còn muốn nói người ta không được phép sống theo thói quen, cứ xưa làm sao nay làm vậy rồi bảo rằng như thế mới là tự tôn tự trọng, là có bản sắc riêng.

Trong khi không viện dẫn tính độc đáo để biện hộ cho cách sống phiền phức mang nặng hình thức của dân mình, ông giả thiết rằng tất cả các vấn đề của đời sống có thể làm khác như cái cách mà chúng ta vẫn làm.

Và trước tiên cách sống trình độ sống của cộng đồng luôn luôn phải được xem xét khảo sát đánh giá lại.

Có thế mới có cơ thoát khỏi những tình thế bế tắc mà chúng ta thường xuyên phải đối mặt
 
Sửa lần cuối:
Phải gọi ông là nhà tiên tri Phan Bội Châu thì đúng hơn :))
 
Trong tác phẩm "Tự phán", Phan Bội Châu từng tỏ ra rất thán phục một người kéo xe ở Tokyo đã không tham lam, tìm cách trả đồ mà ông bỏ quên. 100 năm trước người Nhật đã không ăn cắp mà xây dựng nên một nước Nhật giàu mạnh.
- Suy nghĩ về câu chuyện thời sự "tiếp viên Việt Nam bị tố mang đồ ăn cắp ở Nhật", tiến sĩ Đoàn Lê Giang (ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM) viết: Trong tác phẩm "Tự phán", Phan Bội Châu từng tỏ ra rất thán phục một người kéo xe ở Tokyo đã không tham lam, tìm cách trả đồ mà ông bỏ quên. "100 năm trước người Nhật đã không ăn cắp mà xây dựng nên một nước Nhật giàu mạnh. 100 năm sau người Việt Nam vẫn chưa hết được thói ăn cắp".

Đã qua hơn thế kỷ, những câu chuyện "soi mình" và góc nhìn "tự phê phán" với khát vọng về một dân tộc văn minh, không còn bị xấu mặt ở nước ngoài vẫn còn thời sự. Dưới đây là bài viết "tinh thần phê phán của Phan Bội Châu trong Việt Nam quốc sử khảo".


{keywords}
Sách của Phan Bội Châu

Trong Tự phán ( Phan Bội Châu niên biểu ) có đoạn kể lúc mới đến Nhật (1905), Phan Bội Châu gặp một người phu xe Nhật tốt bụng. Người này thấy Phan là dân ngoại quốc, lần đầu đến xứ người, đang lạ nước lạ cái, thì hết sức giúp đỡ, vui vẻ chở tới nơi đã định, tìm hộ người cần gặp, lại chỉ lấy giá xe đúng mức như mọi đám khác.
Nói về người, nhưng Phan không quên nói về mình.

Một nét tâm lý của chính Phan có liên quan trong dịp này được ông ghi nhận:Trong lúc chờ người phu xe lo việc, ông rất băn khoăn. Người phu ấy chạy xuôi chạy ngược suốt từ 2 giờ tới 5 giờ. Tốn công quá !

Và ông liên hệ tới cách sống bon chen vô cảm của những người phu xe trong nước.Sau những vụ này tương tự, họ ăn vạ bắt chẹt đủ đường.

Ông nghĩ bụng, “sợ nó cũng một nết như phu xe nước mình thì e cũng khốn nạn với vấn đề đòi tiền”.

Cách xử sự của người phu xe Nhật khiến Phan đi từ ngạc nhiên đến thán phục, ông tự nhủ “Than ôi ! Trí thức trình độ dân nước ta xem với tên phu xe Nhật bản,chẳng dám chết thẹn lắm hay sao !” (1)

Đọc xong đoạn này, nhiều người hẳn giật mình.

Lâu nay nói tới Phan Bội Châu, ta nghĩ ngay tới một ngọn cờ vẫy gọi lôi cuốn quốc dân hành động chống Pháp. Con người ông là của những sự việc hoành tráng. Nói như Phan Châu Trinh, ông “thích dùng quyền thuật, dám làm, nói lớn lối “. (2)

Gắn liền với tên tuổi ông là những lời hô hào thuyết phục kêu gọi khích lệ.Theo logic thông thường, ta đoán cái chuyện thói hư tật xấu của dân Việt là một khái niệm xa lạ với Phan. Có biết thì ông cũng bỏ qua để khỏi cản trở công việc!

Hóa ra chúng ta nhầm.

Đọc lại tập Cao đẳng quốc dân (1928) tìm thấy trong đó những đoạn hết sức thống thiết.

Chứng bệnh hay giả dối là chứng bệnh chung của người nước ta mà ở trong lại có một chứng đặc biệt là chứng ái quốc giả …

Nào đám truy điệu,nào tiệc hoan nghênh, nào là kỷ niệm anh hùng, nào là sùng bái chí sĩ, chuông dồn trống giục, nam hát bắc hò, xem ở trong một đám lúc nhúc lao nhao, cũng đã có mấy phần người biết quyền nước đã mất thì tính mạng không còn, hồn nước có về thì giang sơn mới sống.

Nếu những tấm lòng ái quốc đó mà thật thà chắc chắn thì giống Tiên Rồng chẳng hạnh phúc lắm sao?

Nhưng tội tình thay, khốn khổ thay, người ưu thời mẫn thế chẳng bao nhiêu mà người rao danh thì đầy đường đầy ngõ.

Giọt nước mắt khóc nước vẫn ngày đêm chan chứa mà xem cho kỹ thì rặt nước mắt gừng;

tiếng chuông trống kêu hồn vẫn trong ngoài gióng giả mà nghe cho tới nơi thì rặt là chuông trò trống hội;

ngoài miệng thì ái quốc mà trong bụng vẫn là kim khánh mề đay;

trước mặt người thì ái quốc mà đến lúc đêm khuya thanh vắng thì tính toán những chuyện chó săn chim mồi.

Cha ôi! trời ôi! ái quốc gì? ái quốc thế ư? Đeo mặt nạ ái quốc để phỉnh chúng lừa đời, một mặt thời mua chuốc lấy tiếng chí sĩ chân nhân, một mặt thì ôm chặt lấy lốt ông tham bà đốc.(3)

Lúc này, tác giả đã về Huế an trí nên việc những đoạn trên xuất hiện dưới ngòi bút của Phan là dễ hiểu. Ông già bến Ngự thôi không còn là một nhà hoạt động sôi nổi mà trở lại vai trò một người trí thức. Và trong tâm trí của chúng ta, nó có vẻ là một cái gì lạc điệu, không phải một Phan Bội Châu chúng ta hằng nghĩ.

Quay trở lại những cuốn như Việt nam quốc sử khảo(1908) thì thấy thật ra cách nhìn cách suy nghĩ có tính cách phê phán đã đến với Phan ngay trong lúc hoạt động ở Nhật. Không thấy phương diện này trong tư tưởng Phan Bội Châu tức là làm nghèo ông đi rất nhiều.

Tinh thần chính trực “ nhìn thẳng vào sự thật”

Chương thứ năm trong Việt Nam quốc sử khảo mang tên Sự thịnh suy của dân quyền và dân trí của nước ta.

Tiết thứ tư của chương bàn kỹ về dân trí mà Phan khái quát chung bằng một từ “đáng thương“

(...) Vì vậy, giờ đây tôi xin kể những điều tai nghe mắt thấy để quốc dân cùng biết:

Hay nghi kỵ lẫn nhau, không làm nên việc gì cả, đó là điều rất ngu thứ nhất.

Tôn sùng những điều xa hoa vô ích, bỏ bễ những sự nghiệp đáng làm, đó là điều rất ngu thứ hai.

Chỉ biết lợi mình mà không biết hợp quần, đó là điều rất ngu thứ ba.

Thương tiếc của riêng, không tưởng đến việc ích chung, đó là điều rất ngu thứ tư.

Biết có thân mình nhà mìnhmà không biết có nước, đó là điều rất ngu thứ năm.

Dân được cường thịnh là nhờ có sự nghiệp công ích. Nay những việc đó, người nước ta đều không thể làm được.Hỏi vì sao không làm được, thì nói là vì không có tiền của. Sở dĩ không có tiền của là vì đã tiêu phí vào những việc vô ích xa hoa rồi. “ (5)

Nhìn chung cả tiết này, có thể thấy thói hư tật xấu mà Phan nêu ra chưa phải toàn diện. Trong phạm vi 15 trang ( Tr 222- 235) của một cuốn sách 140 trang (163- 305), ông chỉ tập trung vào những thói xấu có hại cho công cuộc vậnđộng cách mạng. Đó là cách sống rời rẽ sự nghi kỵ lẫn nhau, người nào cũng chỉ biết lợi riêng, không ai tin ai, không ai đoàn kết ai.

Tuy nhiên, trên đà suy nghĩ tự phán ông đã nhìn rộng ra để nói rằng xã hội ta chưa được tổ chức lại một cách hợp lý, cũng như trong sự vụ lợi, ông thấy rõ chúng ta còn dừng lại ở một tầm nhìn tầm nghĩ hạn hẹp, không sử dụng hết năng lực làm người của mình.

Một thói xấu cũng được Phan sớm để ý tới là sự xa hoa. Tại sao ? Để hiểu điều này phải trở lại với hoàn cảnh của Phan lúc đó : Không có thực lực, khôngcó tiền của.

Đọc Tự phán thấy ở Nhật có lúc các ông phải đi ăn mày. Trong khi đó thì trong nước nhiều người không biết dùng của cải vật chất vào việcgì.

Trong một văn bản được viết chủ yếu để tuyên truyền ông không quên nói cả chuyện hôn nhân, chuyện tang ma.

Nhìn vào những đám cưới phiền phức, ông thấy ở đó chúng ta bị những lề tục tự phát trói buộc, rồi cứ bày đàn mà theo nhau “ nhà giàu thì hao phí tiền của, nhà nghèo thì phải cầm bán ruộng đất sản nghiệp” “làm một việc hao tổn vô vị,thật quái gở thay’’.

Hoặc nhìn vào những đám tang trong lúc người trong cuộc đau đớn thì chung quanh ăn uống linh đình, ông bảo “sao mà nhẫn tâm thế, sao mà ngu ngốc thế”.

Đến như cái việc mà cho đến đầu thế kỷ XXI này, dân ta vẫn coi là một cái gì thiêng liêng, không ai dám mang ra bàn, Phan Bội Châu cũng đề cập tới theo cách riêng của mình.

Đó là câu chuyện đua nhau làm cỗ thật to gọi là thờ cúng tổ tiên.

Ông thấy ở cách làm đó một sự phô trương giả tạo. Cái lý của tác giả rất cụ thể

“ Chưa một ai chết rồi mà còn có thể ăn thịt uống rượu được… Bày biện cỗ bàn, giết thịt bò dê gà lợn để mời hàng xóm họ hàng khách khứa đến ăn uống no say mới thôi, như thế có phải là mượn tiếng người chết để làm sướng mồm người sống hay không ?

Thật là nhẫn tâm quá.

Huống chi lúc cha mẹ đang sống, một chén cơm một bát canh cũng không cho ăn ; đến khi chết rồi thì lạilàm lễ tam sinh tốn kém hàng vạn để báo hiếu ? Sao lại lừa dối người quáđến thế?

Tấm lòng và tầm vóc suy nghĩ

Cũng như khi hô hào kêu gọi, -- khi nhắc lại những thói xấu nói trên, Phan Bội Châu có cái giọng rất thống thiết.

Ông dùng đến những chữ rất nặng, những chữ mà người khác nói ra sẽ lập tức bị buộc tội là khinh rẻ dân tộc chẳng hạn như ngu, ngu muội ( lắp lại tới 7 lần ).

Nhiều đoạn sau khi kể thói xấu, lại thường kết bằng một câu hỏi “ Sao mà ngu thế ?” “thật là ngu quá không thể hiểu được”.

Nên nhớ những đoạn đang nói ở đây là trích ra từ trong một cuốn sử. Chúng ta biết rằng nền sử học ở ta đầu thế kỷ XX ít về số lượng mà đơn sơ về quanniệm, do đó chất lượng non yếu kém cỏi, không đáp ứng được nhu cầu tự nhận thức của dân tộc.

So với cả trước cả sau, trong cái vẻ còn luộm thuộm vụn vặt, Việt nam quốc sử khảo đã mở ra một quan niệm mới về cách viết sử.

Phải có cả sử phong tục tập quán. Phải sớm viết sử về tâm lý người dân thường. Phải có cả lịch sử sự giao lưu và tiếp nhận của ta với nước ngoài . Từ nhữngviệc Phan Bội Châu đã làm, người ta có thể rút ra những phương hướng làm sử như vậy.

Về việc sử dụng chuẩn mực khi phê phán, có đến mấy lần khi nêu ra thói hư tật xấu của người mình, Phan Bội Châu dùng đến những chữ như “quái gở thay “ “hoặc đặt câu hỏi “đạo làm người có nên như thế không? “.

Tức là khi xét thói hư tật xấu, ông xuất phát từ những nguyên lý nhân bản nói chung.

Tiêu chuẩn để ông xem xét rồi từ đó bảo cái này tốt cái kia xấu không phải là những tiêu chuẩn riêng của Việt Nam mà là những chuẩn mực chung của nhân loại.

Với cách suy nghĩ như thế, phải nói Phan Bội Châu đã đạt tới cốt cách của một nhà trí thức theo nghĩa hiện đại.

Mang so sánh dân mình với dân xứ khác là một điều nhiều người ngần ngại, vì rất dễ rơi vào dung tục thô thiển .

Nhưng Phan Bội Châu đã làm và làm một cách thuyết phục.

Sau khi kể khá kỹ ở Nhật người ta tiến hành tang ma hiếu hỷ đơn giản mà chân thành ra sao, ông quay lại phê phán lễ nghi cổ hủ của người mình.

Vấn đề không chỉ là Phan Bội Châu có một quan niệm thông thoáng đối với các vấn đề đời sống.

Mà dường như ông còn muốn nói người ta không được phép sống theo thói quen, cứ xưa làm sao nay làm vậy rồi bảo rằng như thế mới là tự tôn tự trọng, là có bản sắc riêng.

Trong khi không viện dẫn tính độc đáo để biện hộ cho cách sống phiền phức mang nặng hình thức của dân mình, ông giả thiết rằng tất cả các vấn đề của đời sống có thể làm khác như cái cách mà chúng ta vẫn làm.

Và trước tiên cách sống trình độ sống của cộng đồng luôn luôn phải được xem xét khảo sát đánh giá lại.

Có thế mới có cơ thoát khỏi những tình thế bế tắc mà chúng ta thường xuyên phải đối mặt
Một người Anh đến Đằng Trong 1792 kể: họ rợ Giao Chỉ rất thích khăn mùi xoa, hay lấy trộm. Xem đàn bà là đồ vật.
Mua một con bò mà viên quan tặng luôn một con múi mít ngọt địt 18 tuổi.
Tính ra người Duồn mua bán với Tây Lông cũng uy tín đấy nhở.
Thực tế thì không. :sweet_kiss:
 
Thật đéo thể sai vào đâu đc :))
Chứng bệnh hay giả dối là chứng bệnh chung của người nước ta mà ở trong lại có một chứng đặc biệt là chứng ái quốc giả

Nào đám truy điệu,nào tiệc hoan nghênh, nào là kỷ niệm anh hùng, nào là sùng bái chí sĩ, chuông dồn trống giục, nam hát bắc hò, xem ở trong một đám lúc nhúc lao nhao, cũng đã có mấy phần người biết quyền nước đã mất thì tính mạng không còn, hồn nước có về thì giang sơn mới sống.

Nếu những tấm lòng ái quốc đó mà thật thà chắc chắn thì giống Tiên Rồng chẳng hạnh phúc lắm sao?

Nhưng tội tình thay, khốn khổ thay, người ưu thời mẫn thế chẳng bao nhiêu mà người rao danh thì đầy đường đầy ngõ.

Giọt nước mắt khóc nước vẫn ngày đêm chan chứa mà xem cho kỹ thì rặt nước mắt gừng;

tiếng chuông trống kêu hồn vẫn trong ngoài gióng giả mà nghe cho tới nơi thì rặt là chuông trò trống hội;

ngoài miệng thì ái quốc mà trong bụng vẫn là kim khánh mề đay;

trước mặt người thì ái quốc mà đến lúc đêm khuya thanh vắng thì tính toán những chuyện chó săn chim mồi.

Cha ôi! trời ôi! ái quốc gì? ái quốc thế ư? Đeo mặt nạ ái quốc để phỉnh chúng lừa đời, một mặt thời mua chuốc lấy tiếng chí sĩ chân nhân, một mặt thì ôm chặt lấy lốt ông tham bà đốc
 
Bodo sẽ bảo ĐM tml Châu tự nhục. Loại ăn hải sản chê mùi cá ao. Việc học rất quan trọng. Châu từ lần sau chỉ cần viết "Tôi bị ngu" là đủ. Châu cay à? Lên LHQ mà kêu. Châu cút con mẹ sang Cali mà sống. Khát nước à Châu?
:vozvn (13):
 
Bodo sẽ bảo ĐM tml Châu tự nhục. Loại ăn hải sản chê mùi cá ao. Việc học rất quan trọng. Châu từ lần sau chỉ cần viết "Tôi bị ngu" là đủ. Châu cay à? Lên LHQ mà kêu. Châu cút con mẹ sang Cali mà sống. Khát nước à Châu?
:vozvn (13):
Châu 3 sọc, Trinh khát nước
 
Bodo sẽ bảo ĐM tml Châu tự nhục. Loại ăn hải sản chê mùi cá ao. Việc học rất quan trọng. Châu từ lần sau chỉ cần viết "Tôi bị ngu" là đủ. Châu cay à? Lên LHQ mà kêu. Châu cút con mẹ sang Cali mà sống. Khát nước à Châu?
:vozvn (13):
Ăn ngay 331 liền :vozvn (7):
 
Bọn mày đọc tự phán hài lắm
Có đoạn Phan Bội Châu gặp Tôn Trung Sơn
Hai anh vong quốc bàn chuyện phục quốc ở Nhật Bản
Nghe hai anh bàn chuyện mà hết sức buồn cười
Anh nào cũng muốn anh kia hỗ trợ mình trước mình thắng lợi xong thì mới giúp đỡ phe kia.
 
Nghe nói pác hù ghét 2 ông này lắm
Bần cố lông sao mà hiểu tri thức được nên ghét là phải,qua pháp thì phải học hỏi cái tinh hoa của nó để giúp dân thì ko học mà đi học theo cái đảng đĩ CS pháp với chơi trò đu dây với cái đầu hướng về CS nhưng tuyên ngôn độc lập thì lại theo mỹ đế,đụ má nó lạ quá
 
Bọn mày đọc tự phán hài lắm
Có đoạn Phan Bội Châu gặp Tôn Trung Sơn
Hai anh vong quốc bàn chuyện phục quốc ở Nhật Bản
Nghe hai anh bàn chuyện mà hết sức buồn cười
Anh nào cũng muốn anh kia hỗ trợ mình trước mình thắng lợi xong thì mới giúp đỡ phe kia.
Cuối cùng thì Trung Quốc của Mao thành công một cái là cử ngay La quý Ba cùng các tùy viên sang Việt Nam.
Viện trợ liên tục mới thắng nổi Pháp.
 
Thế là sau này anh Châu Ngô lại chửi người ấy 1 câu rất là rát,,,, mà đéo ai cãi lại được =)))
<:-P
11.png
 
Cuối cùng thì Trung Quốc của Mao thành công một cái là cử ngay La quý Ba cùng các tùy viên sang Việt Nam.
Viện trợ liên tục mới thắng nổi Pháp.
Đây là đoạn đối thoại của hai tiền bối cách mạng Trung Quốc và Việt Nam.
Đọc khá là hài hước

GẶP TÔN - TRUNG - SƠN

Tôi đã giáp mặt ông Ân thừa Hiến, ông lại giới thiệu tôi với các lưu học sinh người tỉnh Vân Nam, như Dương chấn - Hồng, Triệu - Thân, Đường-kế Nghiêu, thảy bắt đầu quen nhau từ lúc đó. Ngày sau sở VÂN-NAM TẠP CHÍ thành lập, tôi cũng làm biên tập viên, chính là tạo nhân ở lúc đó. Lại cách vài ngày sau, Khuyển-dưỡng Nghị tiên- sinh có giấy gọi tôi tới nhà, giới thiệu tôi với Tôn - dật- Tiên tiên-sinh là nhà đại thủ lĩnh cách mạng đảng Trung-quốc. Tôn lúc đó mới ở Mỹ về Nhật Bản, hiện đương tổ chức hội Trung quốc Đồng minh, nên lưu lại Hoành Tân khá lâu Ông Khuyển-Dưỡng-Nghị nói với tôi rằng : « Quý quốc có độc lập nữa, tất sau Trung-quốc cách mạng thành công, đảng họ với các ngài đồng bệnh tương liên, ông nên gặp mặt người ấy làm địa bộ cho ngày sau.

Qua ngày sau tôi cầm danh thiếp ông Khuyển dưỡng- Nghị và giấy giới thiệu tới Trí hòa-Đường ở Hoành - Tân yết ông Tôn. Lúc đó đã 8 giờ đêm, ông Tôn đem giấy bút ra nói chuyện, Tôn vì đã đọc qua bản VIỆT - NAM VONG - QUỐC - SỬ, ông biết trong óc tôi chưa thoát khỏi quân chủ tư tưởng, nên ông hết sức bài bác đảng quân chủ lập hiến là hư ngụy, mà kết thúc thì cốt muốn đảng-nhân Việt-Nam gia nhập đảng cách mạng Trung quốc; hỗ đến lúc Trung-quốc cách mạng thành công thì đem cả tuyền lực kéo đắc hết các nước bị bảo hộ ở Á châu đồng thời được độc lập, mà nước thứ nhất là viện trợ cho Việt- Nam trước. Còn đến lời đáp của tôi thì cũng thừa nhận dân chủ cộng hòa là hoàn mỹ, mà chủ ý lại muốn Trung quốc cách mạng đảng trước trợ giúp cho Việt Nam, lúc Việt. Nem độc lập rồi thì xin lấy Bắc kỳ cho đảng Trung- quốc mượn làm căn cứ địa, sẽ tấn vào lưỡng Quảng mà lấy đến trung-nguyên.

Tôi với ông Tôn biện - bác dẳng nhau có hơn và giờ đồng hồ. Đến 11 giờ, tôi đứng dậy từ biệt, ông Tôn hẹn với tôi hội đàm lần thứ hai.

Qua ngày sau, tôi lại đến Trí hòa Đường, hội Tôn lần nữa, đem những ý hôm trước đã nói lại phẫu giải lần nữa. Nhưng kết quả hai bên đều nhận lầm cả. Kỳ thực thì tôi chưa biết nội dung Trung quốc cách mạng đảng ra thế nào, mà ông Tôn cũng chưa biết chân tướng Việt Nam cách mạng đảng ra làm sao. Hai bên ve vuốt nhau chỉ là một đám mộng tưởng mà thôi, nhưng về phần tinh thần vẫn là đằm thắm, Ngày sau đảng ta gặp khi cùng khốn, được
nhờ đảng họ giùm giúp cũng nhiều, chính môi giới từ hai hôm hội đàm đó. Đến lúc sau, Tôn tiên-sinh vì bệnh can nham, tạ thế ở Bắc Kinh
 

Có thể bạn quan tâm

Top