Vậy cho t hỏi xét nghiệm đó tên gì? Làm thế nào? Sensitive and specifice? Làm lâu là bao lâu nào? ARV gồm gi? Phác đồ bậc 1, 2, 3 là gì nào? Khi nào chuyển?

)))) sao t thích troll mấy thằng thích thể hiện nhỉ

))
Mày thì biết cái cặc gì.
Hiv là một retrovirus, mã di truyền là một đoạn ARN. Khi xâm nhập vào tế bào nó giải mã ngược thành ADN và xâm nhậm vào nhân vật chủ. Tại đấy nó mượn tế bào là cái lò sinh sản và nhân lên thông qua các quá trình sao và giải mã. HIV là thằng dị nhất trong họ đó vì tấn công vào lypho T qua thụ thể CD4. Khi các tế bào miễn dịch bị nhiễm bệnh, nó vừa làm giảm khả năng phòng thủ của cơ thể, vừa là một chỗ trú ẩn an toàn.
Nếu chẳng may có vài con HIV vào người, nhưng không lây nhiễm đc vào tế bào. Hoặc lây đc vào vài tế bào sắp bị thay thế. Về cơ bản mày chưa bị nhiễm. Điều này thường xảy ra khi lượng virus xâm nhập vào quá ít, dưới ngưỡng lây... và cũng mang tính hên xui.
Còn một khi các tế bào T dính chưởng, nhân đã có ADN của virus thì xác định là éo thể đảo ngược. Nên cơ bản sau khoảng chục ngày là có kết quả có bị HIV hay ko. Giai đoạn này cơ thể chưa có miễn dịch, nên phương pháp là PCR để nhân mã di truyền của virus lên để phát hiện.
Một thời gian sau (2-4 tuần) , virus nhân lên trong cơ thể mạnh mẽ. Nồng độ virut trong cơ thể rất cao và cơ thể đã có một chút kháng thể rồi, xét nghiệm combo kháng nguyên/kháng thể để xác định.
Sau thời kỳ chuyển đổi huyết thanh, nồng độ virus hiv trong cơ thể giảm xuống. virus chuyển sang giai đoạn đánh du kích. Chỉ còn kháng thể trong máu là không mất đi. Xét nghiệm thông thường tìm kháng thể là có kết quả. (sau khoảng 4-6 tuần là tương đối chắc chắn).
Thuốc chống HIV là ARV cơ bản có hai loại.
Loại I: NRTI và NNRTI đây là loại chống sự sao chép ngược của virut. Loại này đa phần có cấu trúc phân tử giống vật liệu di truyền của virus để đánh lừa, làm sai hỏng quá trình sao mã ngược của nó.
Loại II: Loại PI. Loại này là các chất ức chế men protease của virus. Nó là một phân tử có ái lực mạnh, khóa chặt và làm mất hoạt tính tâm hoạt động của các protease tối cần thiết trong quá trình nhân lên và hình thành virus mới (như HIV-1 protease và HIV-2 protease).
Các phác đồ điều trị có thể sử dụng loại I, loại II và phối hợp hợp lý loại I và II trong các giai đoạn điều trị.
đcm thằng ml làm bố mày gõ mỏi tay....