• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Tóm tắt tiểu sử Tất Đạt Đa - Thích Ca Mâu Ni

Thuở xưa, vào năm 624 (trước Tây lịch) tại thành Ca Tỳ La Vệ (nay thuộc phía Bắc - Ấn Độ, giáp với Nepal), có một vị vua tên là Tịnh Phạn. Ngài có hai người vợ, là hai chị em ruột: vợ cả là hoàng hậu Ma Da; vợ thứ tên là Ma Ha Ba Xà Ba Đề.

Lấy nhau đã lâu nhưng nhà vua và hoàng hậu vẫn không có con. Đức vua và hoàng hậu rất mong có con, nên họ cầu lễ khắp nơi, phát tâm làm việc thiện, bố thí cho dân nghèo và làm các việc phúc.

Tại thành Ca Tỳ La Vệ có vị vua tên là Tịnh Phạn, hoàng hậu là Ma Da
Tại thành Ca Tỳ La Vệ có vị vua tên là Tịnh Phạn, hoàng hậu là Ma Da

Một hôm, sau một buổi lễ bố thí cho người nghèo, hoàng hậu nằm mơ thấy một con voi trắng như tuyết xuất hiện, cưỡi mây từ trên trời bay xuống. Con voi có sáu ngà, vòi ngậm một bông sen rất đẹp; chui vào hông bên phải của hoàng hậu. Bà bỗng thấy một hương thơm kỳ lạ thoảng qua và bà tỉnh giấc.

Hoàng hậu kể cho đức vua Tịnh Phạn về giấc mơ. Nhà vua liền cho các nhà tiên tri tới để đoán về giấc mộng của hoàng hậu. Họ tiên đoán rằng, hoàng hậu sẽ thọ thai một hoàng tử vô cùng đặc biệt.

Hoàng hậu nằm mộng voi trắng sáu ngà, ngậm cành hoa sen từ trên trời bay xuống
Hoàng hậu nằm mộng voi trắng sáu ngà, ngậm cành hoa sen từ trên trời bay xuống

Quả nhiên, một thời gian sau hoàng hậu thụ thai. Trong thời gian mang thai, thân tâm hoàng hậu rất thơ thới và an lạc, tâm của hoàng hậu lúc nào cũng an vui, từ bi.

Theo tục lệ của đất nước, con gái bắt buộc phải về nhà mẹ đẻ để sinh nở; khi sắp đến ngày sinh, hoàng hậu cũng về quê mẹ. Trên đường về, đến một khu rừng rất đẹp (nay là vườn Lâm Tỳ Ni), hoàng hậu chuyển dạ. Bà xuống xe, vịn một tay lên cây hoa vô ưu và liền hạ sinh Thái tử.

Lúc Thái tử chào đời, chim ca hót líu lo, muôn hoa đua nở; mây trời tuyệt đẹp; trên trời vang lên những khúc nhạc rất hay chào đón sự đản sinh của Thái tử.

Khi vừa mới hạ sinh, Thái tử bỗng bước đi bảy bước, mỗi bước đều có hoa sen đỡ chân. Đến bước cuối cùng, Ngài một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, cất tiếng: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”.

Hoàng hậu hạ sinh Thái tử tại vườn Lâm Tỳ Ni
Hoàng hậu hạ sinh Thái tử tại vườn Lâm Tỳ Ni

Sau đó, các cung phi đưa Thái tử lên xe và rước về cung. Nghe tin, đức vua Tịnh Phạn mừng vui khôn xiết, lệnh cho dân chúng mở tiệc ăn mừng Thái tử ra đời.

Lời tiên đoán trở thành bậc vĩ nhân​

Sau khi đón Thái tử về cung, đức vua cho mời các vị tiên tri đoán tướng Thái tử. Đầu tiên là một vị đạo sĩ tu lâu năm ở núi Hy Mã Lạp Sơn, tên A Tư Đà.

Ngay khi vừa nhìn thấy Thái tử, ông đã lễ sụp xuống, ngạc nhiên vì vẻ đẹp của Thái tử với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp cùng nước da sáng vàng. Ông tâu với nhà vua rằng đây sẽ là bậc vĩ nhân: Nếu còn ở tại gia sẽ là bậc Chuyển luân Thánh vương; còn nếu đi xuất gia sẽ tu hành thành Phật, cứu độ cho tất cả chúng sinh.

Vẫn còn nghi ngờ về lời tiên đoán của đạo sĩ A Tư Đà, đức vua cho triệu năm vị tướng sư thuộc dòng dõi Bà La Môn vào cung để tiếp tục xem tướng cho Thái tử. Và cả năm vị tướng sư đều nói đây là bậc vĩ nhân đặc biệt nhất thế gian. Một vị tên là Kiều Trần Như khẳng định rằng, y khi Thái tử lớn lên, Ngài chắc chắn sẽ đi xuất gia. Nghe những lời này, đức vua Tịnh Phạn vô cùng bàng hoàng, lo lắng.

Đạo sĩ A Tư Đà xem tướng cho Thái tử và đưa ra lời tiên tri về cuộc đời của Ngài
Đạo sĩ A Tư Đà xem tướng cho Thái tử và đưa ra lời tiên tri về cuộc đời của Ngài

Sau khi các vị tướng sư đoán tướng, đức vua đặt tên cho Thái tử là Tất Đạt Đa, có nghĩa là thành tựu tất cả ước nguyện của mình. Cùng với đó, nhà vua bắt đầu lên kế hoạch để ngăn cản ý chí xuất gia của Thái tử sau này. Đức vua cho xây ba cung điện theo ba mùa: cung điện mùa nắng, cung điện mùa mưa và cung điện mùa đông. Vào mùa nắng, trong cung có hồ sen xanh; mùa mưa là hoa sen đỏ; còn mùa đông là hoa sen trắng. Trong cung đều có cung nữ phục vụ, hát ca cho Thái tử. Vua Tịnh Phạn muốn Thái tử được sống trong cảnh dục lạc sung sướng, không phải tiếp xúc với những sự khổ bên ngoài. Ngài nghĩ, chỉ có cách này mới có thể giúp Thái tử mãi mãi ở lại hoàng tộc.

Sau khi hạ sinh Thái tử 7 ngày, hoàng hậu Ma Da băng hà. Thái tử được dì ruột Ma Ha Ba Xà Ba Đề - cũng là người vợ thứ hai của Đức vua nhận nuôi. Bà hết lòng yêu thương Thái tử như chính con ruột của mình.

Tư chất của Thái tử​

Càng lớn, Thái tử càng biểu lộ nhiều đức tính khác người. Thái tử rất tinh anh, văn võ song toàn, tài trí hơn người; học ai thì cũng trong một thời gian ngắn đã học hết được kiến thức của thầy.

Một hôm, nhân ngày lễ Hạ Điền - ngày lễ cúng thần nông đầu mùa để cầu mong một mùa màng bội thu, Thái tử theo đức vua ra đồng. Trong không khí tươi vui, hoa lá tươi tốt, muôn chim hót vang, tiết xuân nắng ấm, Thái tử còn nhỏ nhưng không ham thích khung cảnh tưng bừng của buổi lễ. Ngài lặng lẽ quan sát cảnh vật, chim muông,...

Khi mọi người cày đất, những con giun ngoi lên, nằm quằn quại; những chú chim bay xuống để mổ giun; lại có một chú thợ săn giương cung để bắn chim. Chứng kiến cảnh đó, Thái tử trầm tư, nghĩ rằng thế gian này thật khổ đau, Ngài khởi lên sự thương xót chúng sinh; kẻ mạnh ăn hiếp kẻ yếu; chúng sinh ăn nuốt, ác hại lẫn nhau,...

Trong tư duy non trẻ của Ngài hiện lên nét suy tư về muôn loài. Ngài chọn một bóng cây, ngồi bắt chéo chân, lặng lẽ, lắng nghe hơi thở, định tâm và trú vào định sơ thiền. Khi đó, kỳ lạ thay khi mặt trời đã ngả xế, mà bóng đại thụ của cội hồng táo vẫn đứng yên, phủ bóng quanh Thái tử như một tản lọng vĩ đại. Trông Thái tử rất an nhiên, uy nghi như một tiểu đạo sĩ.

Nhà vua Tịnh Phạn thấy hình bóng Thái tử uy nghi, thoát tục, Ngài tự quỳ xuống và đảnh lễ con trai mình.

Thái tử ngồi thiền trong buổi lễ Hạ Điền
Thái tử ngồi thiền trong buổi lễ Hạ Điền

Lần khác, trong một cuộc thi bắn cung, các vị xạ thủ tài giỏi nhất cũng chưa bắn xuyên được ba lớp mâm đồng. Trong khi đó, Thái tử bắn một mũi tên xuyên qua bảy lớp mâm đồng.

Một con người tài giỏi là thế, nhưng Ngài còn là một người giàu lòng từ bi, thương người và yêu quý muôn loài; là một người vừa có tài vừa có đức.

Thái tử Tất Đạt Đa rất tinh anh, văn võ song toàn
Thái tử Tất Đạt Đa rất tinh anh, văn võ song toàn

Thời gian trôi qua, Thái tử lớn lên trong tình yêu thương của mọi người. Còn Đức vua Tịnh Phạn vẫn tiếp tục thực hiện kế hoạch ngăn cản Thái tử đi xuất gia. Ngài không cho Thái tử gặp cảnh khổ thế gian. Những ai bị bệnh, già, chết, đức vua ban lệnh không được phép ở cung thành. Thái tử có một cuộc sống sung sướng, hạnh phúc và xa hoa.
 

Cuộc hôn nhân của Thái tử​

Năm Thái tử 16 tuổi, đức vua Tịnh Phạn nhận ra con mình ngày càng ủ dột và lạ thường. Ngài vô cùng lo lắng. Vua Tịnh Phạn quyết định cưới vợ cho Thái tử.

Ngài chọn được công chúa Da Du Đà La - một người con gái dung sắc vẹn toàn, đức hạnh hơn người, phù hợp và xứng đôi với Thái tử Tất Đạt Đa. Và rồi, Thái tử kết hôn với công chúa Da Du Đà La, có một cuộc sống êm đềm, sung sướng trong hoàng cung.

Lo lắng về lời tiên tri của đạo sĩ A Tư Đà, vua Tịnh Phạn đã cho Thái tử Tất Đạt Đa kết hôn, sánh đôi cùng công chúa Da Du Đà La
Lo lắng về lời tiên tri của đạo sĩ A Tư Đà, vua Tịnh Phạn đã cho Thái tử Tất Đạt Đa kết hôn, sánh đôi cùng công chúa Da Du Đà La

Thái tử Tất Đạt Đa và chuyến thăm bốn cổng thành​

Trước lời tiên đoán của tiên nhân A Tư Đà, Đức vua Tịnh Phạn lo lắng Thái tử sẽ xuất gia nên đã ngăn cấm Ngài rời khỏi thành. Thấu hiểu mong nguyện của Thái tử, công chúa Da Du Đà La đã xin cho Ngài dạo chơi bốn cổng thành.

Một ngày nọ, Thái tử Tất Đạt Đa cùng cận hầu - tên là Xa Nặc dạo chơi ngoài hoàng cung. Ở cửa thành phía Bắc, Thái tử gặp một người với dáng vẻ lom khom, làn da nhăn nheo, râu tóc bạc phơ chống gậy đi qua. Ngài ngạc nhiên hỏi Xa Nặc. Khi biết đó là người già, sau này ai cũng già như vậy, Thái tử trầm tư suy nghĩ. Rồi Ngài cho xe ngựa trở về hoàng cung.

Lần thứ nhất, Thái tử gặp một ông già chống gậy
Lần thứ nhất, Thái tử gặp một ông già chống gậy

Vào một lần khác, Thái tử đến cửa thành phía Đông và thấy bên đường có một người nằm cạnh vũng máu đờm, ho sù sụ. Xa Nặc tâu với Thái tử, rằng đây là người bệnh lao phổi; khi chúng ta đang sống thì cơ thể tự nhiên sinh ra bệnh. Nếu bị bệnh thì sẽ rất đau đớn.

Điều này đã làm Thái tử Tất Đạt Đa tiếp tục suy tư. Ngài nhận ra sau này mình rồi cũng sẽ bị bệnh. Hai người lại trở về hoàng cung.

Lần thứ hai ra ngoài cổng thành, Thái tử gặp một người bệnh
Lần thứ hai ra ngoài cổng thành, Thái tử gặp một người bệnh

Một tuần sau, Thái tử đi đến cửa thành phía Nam. Tại đây, Thái tử chứng kiến một đám người mặc áo trắng, khiêng một cái cán phủ khăn trắng, khóc lóc thảm thiết. Khi hỏi Xa Nặc, Ngài mới biết đó là một đám tang đang đưa người chết đi hỏa thiêu bên bờ sông Hằng.
Thái tử theo đoàn người đến bờ sông, khi họ hạ cáng xuống và bỏ chiếc khăn trắng ra, Thái tử nhìn thấy một xác chết. Ngài lại hỏi Xa Nặc về cái chết. Chết là bỏ lại cha mẹ, anh em, vợ con; chết là rời bỏ cung vàng. Thái tử chưa bao giờ nghĩ, rồi một ngày mình cũng phải chết đi, nằm bất động như vậy.

Lần thứ ba ra khỏi cổng thành, Thái tử gặp người chết
Lần thứ ba ra khỏi cổng thành, Thái tử gặp người chết

Khi về hoàng cung, Thái tử trăn trở rất nhiều. Nhiều câu hỏi vẩn vơ trong tiềm thức, khiến Ngài cảm thấy bất an, không thể vui vẻ được. Khi thấy con mình tự nhiên buồn bã, trầm tư, Đức vua Tịnh Phạn lại càng tổ chức nhiều bữa tiệc, tạo nhiều trò vui. Nhưng dù cho thế nào thì nét mặt của thái tử vẫn u buồn.

Ba tuần sau đó, Thái tử quyết định tiếp tục đi đến cửa thành phía Tây. Từ xa, Ngài trông thấy một người mặc áo màu vàng đang ngồi dưới gốc cây. Thái tử liền đến hỏi thăm. Vị này giới thiệu mình là một tu sĩ, đang đi tu để dứt tất cả phiền não, thoát khỏi những đau khổ của cuộc đời.

Thái tử như gặp một điều gì đó chạm tới con tim, toàn thân người như chấn động. Khi trở về, Ngài bắt đầu nung nấu một quyết định cho mình, rằng sẽ trở thành một tu sĩ, bước đi trên con đường để thoát khổ.

Lần thứ tư, Thái tử gặp một người tu sĩ và bắt đầu ấp ủ chí nguyện xuất gia của mình
Lần thứ tư, Thái tử gặp một người tu sĩ và bắt đầu ấp ủ chí nguyện xuất gia của mình

Thái tử Tất Đạt Đa rời hoàng cung - vượt thành xuất gia​

Đến năm Thái tử Tất Đạt Đa 19 tuổi, công chúa Da Du Đà La mang thai và hạ sinh một người con trai. Thái tử rất yêu thương con; nhưng Ngài cũng biết rằng, nếu có con thì đó sẽ là một cản trở lớn cho con đường tu hành. Thái tử đã đặt tên cho con trai là La Hầu La - nghĩa là chướng ngại. Thái tử nhận ra, nếu không đi tu thì sợi dây ràng buộc sẽ ngày càng chặt lại. Cứ thế, tâm mong muốn xuất gia của Ngài càng mãnh liệt hơn; và Ngài quyết định phải rời đi.

Đêm ngày mùng 8 tháng 2, đức vua mở tiệc lớn trong hoàng cung. Sau bữa tiệc, Thái tử thấy cảnh cung nữ ngủ mê man trên sàn, phấn son nhòe đi trông càng bợt bạt. Thấy vậy, Ngài càng kinh sợ vì nhớ lại hình ảnh xác chết đã từng nhìn thấy khi đi dạo bốn cửa thành. Thái tử quyết phải ra đi.

Trước đó, công chúa Da Du Đà La - một người vợ thấu hiểu được chí xuất gia tìm cầu giải thoát của Thái tử, đã đoán được mong nguyện của Ngài. Nàng đã âm thầm cho Xa Nặc sắp xếp xe ngựa, yên cương; rồi quay về phòng nghỉ.

Thái tử lẳng lặng trở về phòng, nhìn vợ và con thơ lần cuối. Khi ấy, công chúa Da Du Đà La nằm quay mặt vào phía trong, giả vờ ngủ say, tạo cơ hội cho Thái tử dũng mãnh ra đi. Nàng tin tưởng chàng sẽ thành tựu được chí nguyện của mình.

Và rồi, trên con ngựa Kiền Trắc, Thái tử vượt thành, rời bỏ hoàng cung cùng Xa Nặc. Đến dòng sông A Nô Ma, Ngài dừng lại, cởi bỏ tất cả những gì thuộc về hoàng cung: trang phục, con ngựa Kiền Trắc,... nhờ Xa Nặc mang về và báo cho vua cha biết Ngài đã đi tu.

Thái tử cùng với Xa Nặc và con ngựa Kiền Trắc ra đi trong đêm
Thái tử cùng với Xa Nặc và con ngựa Kiền Trắc ra đi trong đêm

Cuối cùng, Thái tử Tất Đạt Đa đã từ giã hoàng cung, tài sản, vợ con, để đi tìm hạnh phúc tối thượng.
 
Sau khi dứt bỏ cuộc sống vương giả trong cung điện, Thái tử Tất Đạt Đa đã dày công tu hành và thành tựu đạo quả, trở thành vị Chính Đẳng, Chính Giác tối thượng khắp thế gian. Mặc dù nhiều lần bị ngoại đạo hãm hại nhưng vì lòng từ bi Ngài đi khắp nơi hóa độ và thuyết Pháp để cứu giúp chúng sinh ra khỏi khổ đau. Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, Ngài để lại cho chúng ta một kho tàng giáo Pháp vô cùng vi diệu và màu nhiệm.
Để cùng tìm hiểu về cuộc đời Đức Phật Thích Ca từ khi Ngài xuất gia cầu đạo cho đến khi Ngài nhập Niết Bàn, kính mời quý Phật tử cùng đón đọc bài viết “Tái hiện cuộc đời Đức Phật Thích Ca qua 37 bức tranh tại chính điện chùa Ba Vàng” dưới đây.

Phần 4. Thái tử tầm sư học đạo và tu khổ hạnh trước khi tìm ra chân lý​

Sau 5 năm tầm sư học đạo, Thái tử Tất Đạt Đa đi tìm tất cả những vị thầy danh tiếng dạy cho mình các phương pháp tu tập. Đến với vị thầy nào Thái tử cũng trở thành vị đệ tử xuất sắc nhất trong thời gian ngắn. Dù đã học hết những kiến thức của các vị thầy, nhưng Ngài chưa thỏa mãn, chưa thấy giác ngộ, chưa thấy được chân lý tuyệt đối.

#15 Ngài từ biệt tất cả những vị thầy trước đó đến tu theo lối khổ hạnh cùng năm anh em ông Kiều Trần Như. Có những ngày Thái tử ăn ngày một hạt đậu, một hạt vừng hay hạt lạc. Cho nên thân thể gầy mòn, hốc mắt trũng sâu. Ngài ép sát khổ hạnh đến như vậy nhưng cũng không thấy sáng kiến ra được chân lý, mà lại thấy cơ thể mệt mỏi.

thai-tu-tu-kho-hanh-cung-nam-anh-em-ong-kieu-tran-nhu-co-nhung-ngay-thai-tu-chi-an-mot-hat-dau-de-cam-hoi.jpg
Thái tử tu khổ hạnh cùng 5 anh em ông Kiều Trần Như, có những ngày Thái tử chỉ ăn một hạt đậu để cầm hơi

#16 Hôm ấy, khi cơ thể hết dinh dưỡng, Ngài ngã quỵ trên đất. Rất may, một cô gái trong làng đã mang sữa dê đến cúng cho Ngài. Uống sữa xong, Ngài tỉnh dần, sức khỏe hồi phục. Ngài thấy khổ hạnh không đem lại lợi ích và trí tuệ. Ngài cũng nhận thấy chỉ con đường trung đạo mới có thể dẫn đến giác ngộ chân lý. Ngài quyết định sống cuộc sống trung đạo, tức là vẫn phải có ăn uống để có sức khỏe, tâm trí sáng suốt.

co-gai-trong-lang-mang-bat-sua-de-cung-duong-khi-thay-thai-tu.jpg
Cô gái trong làng mang bát sữa dê cúng dường lên Thái tử

#17 Sau khi thọ xong bát sữa, Thái tử đến bên bờ Niranjana, thả chiếc bát xuống dòng sông Niranjana phát nguyện:“Ta nguyện đạt được giác ngộ rốt ráo, nếu lời nguyện của ta thành sự thật thì chiếc bát này sẽ trôi ngược dòng”. Khi lời nguyện vừa dứt, một luồng nước xoáy đã làm cho chiếc bát trôi ngược dòng.

thai-tu-den-ben-bo-song-tha-chiec-bat-xuong-dong-nuoc-va-phat-loi-nguyen.jpg
Thái tử đến bên bờ sông thả chiếc bát xuống dòng nước và phát lời nguyện

Phần 5: Tu hành dưới cội cây Bồ Đề và giác ngộ​

Sau khi Thái tử quyết định bỏ con đường tu khổ hạnh đi theo con đường trung đạo, năm anh em ông Kiều Trần Như cũng bỏ đi. Ngài chọn một gốc cây to, rộng để ngồi thiền dưới tán cây. Ngài dũng mãnh phát nguyện: “Dù máu huyết khô cạn, dù chỉ còn gân, xương và da; ta quyết không rời nệm cỏ này nếu ta chưa đắc thành quả Phật”.

#18 Khi Ngài ngồi dưới cội cây Bồ Đề, Ma vương kéo đến tìm cách phá không cho Ngài đạt đạo nhưng hoàn toàn thất bại. Ngài không chỉ chiến đấu với ngoại ma mà Ngài còn chiến đấu với nội ma là: Phiền não ma, Ngũ uẩn ma, Pháp hành ma, Tứ diệt ma, và Chư thiên ma.

ma-vuong-keo-den-tim-cach-pha-khong-cho-ngai-chung-thanh-dao-qua-nhung-deu-that-bai.jpg


Ma vương kéo đến tìm cách phá không cho Ngài chứng thành đạo quả nhưng đều thất bại

>>> Thiên ma Ba Tuần là ai? Tại sao Thiên ma Ba Tuần lại phá Phật thành đạo?

#19 Vào đêm thứ 49, khi sao Mai vừa mọc, Ngài thành tựu đạo quả, trở thành vị Chính Đẳng Chính Giác tối thượng khắp thế gian khi Ngài vừa 30 tuổi.
Sư Phụ chia sẻ: “Đến đêm 49, khi tâm hoàn toàn lắng trong, an định hoàn toàn, tất cả mọi phiền não trong tâm Ngài đều dứt trừ hết thì một cái tâm trong sáng, thuần tịnh như vậy, Ngài chợt thấu tỏ hết tất cả mọi lẽ huyền vi của vũ trụ này. Ngài thấy trời đất này ở đâu mà ra, con người từ đâu mà có, kiếp người tại sao lại phải già, phải bệnh, phải chết, tại sao người ta không trẻ mãi được. Và con người ta chết rồi còn hay hết, Ngài cũng biết, Ngài biết hết, chết rồi còn đi đâu. Ngài nói rằng: “Ta như người đứng ở trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường thấy người này đến ngã tư rẽ trái, người này đến ngã tư rẽ phải, người này đến ngã tư đi thẳng”. Ngài nhìn rõ. Chúng sinh ở cõi này chết rồi, bỏ thân này rồi tái sinh đi đâu, Ngài nhìn thấy rất rõ ràng. Ngài mới biết: “À, chân lý mình thấy đây rồi”, không còn một cái gì che mù trí tuệ của Ngài nữa, sáng tỏ hoàn toàn. Trí tuệ sáng tỏ hoàn toàn đấy gọi là giác ngộ, toàn giác, Đức Phật là người toàn giác”. Khi Đức Phật đắc đạo, Ngài phát sinh ra rất nhiều công năng diệu dụng mà trong kinh nói là lục thần thông. Ngài có thiên nhãn thông nhìn thấy khắp tất cả, xuyên qua tường vách, núi non. Thiên nhĩ thông nghe khắp tất cả mọi nơi, mọi thế giới, không có gì ngăn cản được. Rồi tha tâm thông biết tâm ý của người khác, rồi Phật có thần túc thông, là biến hóa. Ngài cũng có túc mạng thông, tức là biết được vô số kiếp về trước. Ngài có lậu tận thông, tức là sạch sẽ hết tất cả mọi cáu bẩn trong tâm. Tâm hoàn toàn thanh tịnh, gọi là cực tịnh, thanh tịnh quang minh ở tâm.

Vào đêm thứ 49 khi sao mai vừa mọc, Ngài thành tựu đạo quả, trở thành vị Chính Đẳng, Chính Giác tối thượng khắp tất cả thế gian

Vào đêm thứ 49 khi sao mai vừa mọc, Ngài thành tựu đạo quả, trở thành vị Chính Đẳng, Chính Giác tối thượng khắp tất cả thế gian

Phần 6: Cuộc đời Đức Phật Thích Ca trong quá trình giáo hóa​

#20 Sau khi chứng thành quả vị Phật, Ðức Thế Tôn chuyển bánh xe Pháp, thuyết giảng cho 5 anh em Kondanna (Kiều Trần Như) tại Lộc Uyển (vườn Nai), ở Sarnath gần Varanasi (Ba La Nại). Sư Phụ chỉ dạy: “Sau khi Đức Phật đắc quả thành Phật giác ngộ, Ngài đã đi tuyên giảng giáo lý, tuyên giảng con đường đạt đến chân lý. Ngài đã đi tuyên giảng, Ngài tiếp độ năm anh em Kiều Trần Như rồi xây dựng Tăng đoàn, làm cho Tăng đoàn lớn mạnh lên. Lúc ấy, ở Ấn Độ là có rất nhiều ngoại đạo khác nhau. Có đến chín mươi sáu tôn giáo, đạo giáo khác nhau. Nhưng mà Đức Phật ra đời thì gần như các tôn giáo, đạo giáo kia bị lu mờ đi hết, người ta về theo Đức Phật hết, đấy là điều đặc biệt”.

Sau khi giác ngộ dưới cội cây Bồ đề, Đức Phật chuyển bánh xe Pháp tại vườn Nai, Ngài độ cho 5 anh em ông Kiều Trần Như

Sau khi giác ngộ dưới cội cây Bồ đề, Đức Phật chuyển bánh xe Pháp tại vườn Nai, Ngài độ cho 5 anh em ông Kiều Trần Như
 
#21 Tại xứ Ưu Lâu Tần Loa có ba anh em thuộc dòng họ Kassapa tu theo đạo thờ thần lửa. Đức Phật biết ba người này có thể độ nên Ngài tìm cách đến để giáo hóa. Buổi tối ở lại qua đêm, ba anh em ông đạo sĩ sắp xếp để Đức Phật nghỉ tại bên trong hỏa viện. Khi nghỉ được một lát, có một con rắn rất lớn bò ra, phun phè phè các nọc độc về phía Đức Phật. Với đức tính hiền từ của Phật, độc long trở nên cảm mến và không phun độc ám hại Phật. Sau đó, ba anh em ông đạo sĩ cùng với đệ tử xin theo Phật tu hành.

duc-phat-nhiep-hoa-mang-xa-trong-den-tho-lua-cua-dao-si-uravela-kassapa-uu-lau-tan-loa-ca-diep.jpg
Đức Phật nhiếp hóa mãng xà trong đền thờ lửa của Đạo sĩ Uruvela Kassapa (Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp).

#22 Sau mùa an cư đầu tiên, Đức Phật dạy 60 đệ tử xuất gia đầu tiên: “Các con mỗi người mỗi ngả, hoằng dương giáo Pháp vì lợi ích thế gian”.

duc-phat-chi-day-60-vi-de-tu-xuat-gia-moi-nguoi-mot-nga-di-hoang-duong-giao-phap.jpg
Đức Phật chỉ dạy 60 vị đệ tử xuất gia mỗi người một ngả đi hoằng dương giáo Pháp

#23 Đức Phật về lại kinh thành thăm lại cố hương. Khi thấy con khất thực ngoài đường, vua Tịnh Phạn bất nhẫn, chạy đến trách hờn. Tuy nhiên, Đức Phật nắm tay cha thân mật, vừa đi vừa tâm sự với cha. Phật giảng cho vua nghe về những chân lý cao quý và con đường dẫn đến chấm dứt tất cả khổ đau.

duc-phat-dan-dau-tang-doan-tro-ve-tham-lai-que-nha-vua-cha-tinh-phan-nhin-thay-vo-cung-dau-xot.jpg
Đức Phật dẫn đầu Tăng đoàn trở về thăm lại quê nhà, vua cha Tịnh Phạn nhìn thấy Đức Phật vô cùng đau xót

#24 Khi Đức Phật rời cung thành thì La Hầu La xin đi theo Phật. Đức Phật dạy Tôn giả Sariputta (Xá Lợi Phất) xuất gia cho Rahula (La Hầu La) khiến vua Tịnh Phạn không vui. Đức vua yêu cầu từ nay không làm lễ xuất gia cho ai khi chưa được cha mẹ chấp thuận và Đức Phật đã đồng ý.

duc-phat-chi-day-ton-gia-xa-loi-phat-xua-gia-cho-la-hau-la.jpg
Đức Phật chỉ dạy Tôn giả Xá Lợi Phất xuất gia cho La Hầu La

#25 Ngài còn giải quyết tranh chấp giữa hai vương quốc Sakya và Koliya (quê nội và quê ngoại của Đức Phật). Hai bộ tộc Sakya và Koliya tranh chấp về nguồn nước của con sông Rohini, không bên nào chịu nhường bên nào. Đức Phật đã thị hiện đúng thời điểm để giảng hòa. Ngài khéo léo chỉ rõ cho cả hai bộ tộc thấy sự tạm bợ của vật chất, của phương tiện sinh nhai và chỉ ra cái cao quý của sinh mạng, của phẩm vị con người, của tình đoàn kết.

duc-phat-hoa-giai-cuoc-chanh-chap-nguon-nuoc-cua-mot-con-song-giua-vuong-quoc-sakya-va-koliya.jpg
Đức Phật hòa giải cuộc tranh chấp nguồn nước của một con sông giữa vương quốc Sakya và Koliya

#26 Sunita - thuộc giai cấp Chiên Đà La được Phật cho phép xuất gia. Sự kiện này làm chấn động cả xã hội vốn kỳ thị giai cấp bấy giờ.

sunita-thuoc-giai-cap-chien-da-la-duoc-phat-cho-phep-xuat-gia-su-kien-nay-lam-chan-dong-ca-xa-hoi-von-ki-thi-giai-cap-bay-gio.jpg
Sunita - thuộc giai cấp Chiên Đà La được Phật cho phép xuất gia. Sự kiện này làm chấn động cả xã hội vốn kỳ thị giai cấp bấy giờ

#27 Cư sĩ Anatha Hindka (Cấp Cô Độc) trải vàng mua đất của Thái tử Jeta (Kỳ Đà) để xây Kỳ Viên tịnh xá cúng Phật và Tăng chúng. Ông Cấp Cô Độc không chỉ được tôn kính vì hành động cúng dường khu vườn quý cho Phật, mà còn vì lòng tốt rất mực, sự mộ đạo rộng lớn và sự bảo hộ chư Tăng của ông.

ong-cap-co-doc-trai-vang-mua-dat-cua-thai-tu-ki-da-xay-ki-vien-tinh-xa-cung-giuong-duc-ohat-va-tang-doan.jpg
Ông Cấp Cô Độc trải vàng mua đất của Thái tử Kỳ Đà xây Kỳ Viên tịnh xá cúng dường Đức Phật và Tăng đoàn

#28 Với khát vọng lãnh đạo Tăng chúng, Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) lăn đá từ núi cao định ám hại Đức Phật. Khi lăn xuống gần tới chỗ Phật, tảng đá bị chặn lại bởi những mô đá khác nhưng sức va chạm mạnh làm nó bể một phần, văng ra vài mảnh nhỏ. Một mảnh đá văng trúng vào chân trái của Phật, làm chân Phật chảy máu.
 
de-ba-dat-da-lan-da-am-muu-ham-hai-phat-de-lanh-dao-tang-doan.jpg
Đề Bà Đạt Đa lăn đá âm mưu hãm hại Phật để lãnh đạo Tăng đoàn

#29 Để tiếp tục thực hiện âm mưu của mình, một buổi sáng nọ, Đề Bà Đạt Đa xúi giục vua A Xà Thế thả con voi say để hãm hại Phật. Con voi này có tiếng là hung dữ, được hoàng cung nuôi và canh giữ cẩn thận. Nó mà xổng ra khỏi chuồng thì nhất định sẽ có hàng trăm người chết vì nó. Khi thấy nó, dân chúng hai bên đường phố đều hoảng sợ. Con voi chạy tới còn cách Phật mươi bước thì bị Phật chế ngự. Nó bỗng đứng khựng lại, rồi quỳ mọp xuống trước Ngài, vòi, tai, đuôi đều cụp lại hết. Ngài tiến đến sờ đầu nó và bảo nó đứng lên. Rồi Ngài đích thân dắt nó đem trả về cho chuồng voi hoàng cung.

de-ba-dat-da-xui-duc-vua-a-xa-the-tha-voi-say-nham-ham-hai-phat.jpg
Đề Bà Đạt Đa xúi giục vua A Xà Thế thả voi say nhằm hãm hại Phật
#30 Bị ngoại đạo mua chuộc, nàng Cinca giả mang thai đến hội chúng vu cáo Đức Phật. Việc bại lộ, nàng xấu hổ bỏ đi. Sau đó, nàng chết vì đất sụp.

Đức Phật bị ngoại đạo vu cáo làm cho một người nữ mang thai

Đức Phật bị ngoại đạo vu cáo làm cho một người nữ mang thai

#31 Đức Phật cảm hóa Angulimala - kẻ cuồng sát giết người lấy ngón tay kết thành chuỗi. Sau đó, vị này xuất gia tu tập, trở thành Thánh Tăng.

duc-phat-do-cho-ong-angulimala-nguoi-bi-thay-ta-xui-duc-giet-1000-nguoi-de-duoc-sinh-thien.jpg
Đức Phật độ cho ông Angulimala - người bị thầy tà xúi giục giết 1000 người để được sinh thiên

#32 Vua Lưu Ly vì thâm thù với dòng họ Thích Ca nên kéo quân để tiêu diệt. Đức Phật ngồi tại biên giới can ngăn ba lần.
duc-phat-ba-lan-can-ngan-vua-ty-luu-ly-tan-sat-dong-h%E1%BB%8D-thich-ca.jpg
Đức Phật ba lần can ngăn vua Tỳ Lưu Ly tàn sát dòng họ Thích Ca

#33 Đức Phật đích thân chăm sóc Tỳ-kheo bị bệnh và dạy dỗ đại chúng về tinh thần tương trợ. Ngài tuyên bố với những Tỳ-kheo khác rằng: “Nếu có người săn sóc người bệnh là đã săn sóc Ta. Người trông nom người bệnh tức là đã trông nom Ta. Sở dĩ như thế là vì nay Ta đích thân coi sóc người tật bệnh”. Ngài cũng đưa việc chăm sóc người bệnh làm thành Giới luật.

dich-than-tu-tay-cham-soc-mot-vi-ty-kheo-bi-benh-va-duc-phat-day-dai-chung-ve-long-tuong-tro.jpg
Đích thân tự tay chăm sóc một vị Tỳ-kheo bị bệnh và Đức Phật dạy đại chúng về lòng tương trợ

#34 Đức Phật cho phép trồng cây Bồ Đề ở chùa Kỳ Viên để tứ chúng đến chiêm bái những lúc Ngài vắng mặt.

duc-phat-cho-phep-trong-cay-bo-de-tai-chua-ki-vien.jpg
Đức Phật cho phép trồng cây Bồ Đề tại chùa Kỳ Viên

#35 Đức Phật dạy các Tỳ-kheo: “Như hoa dại khéo kết, sẽ thành tràng hoa đẹp. Cũng vậy thân sinh tử, nhiều thiện sự tác thành”.

duc-phat-day-cac-ty-kheo-nhu-hoa-dai-kheo-ket-se-thanh-trang-hoa-dep-cung-vay-than-sinh-tu-nheu-thien-su-tac-thanh.jpg
Đức Phật dạy các Tỳ-kheo: “Như hoa dại khéo kết, sẽ thành tràng hoa đẹp. Cũng vậy thân sinh tử, nhiều thiện sự tác thành”

Phần 7: Cuộc đời Đức Phật Thích Ca khi Ngài nhập Niết bàn​

#36 Vào đêm Rằm tháng Hai hơn 2600 năm trước, tại rừng cây Sala, thôn Pava, xứ Câu Thi Na, Ngài độ ông Subhadda làm đệ tử xuất gia cuối cùng. Sau đó, Ngài nhập Niết bàn; cả đất trời rúng động vì mặt trời trí tuệ đã lặn xuống.

Đức Phật xuất gia cho vị để tử cuối cùng trước khi nhập Niết bàn

Đức Phật xuất gia cho vị để tử cuối cùng trước khi nhập Niết bàn

#37 Sau lễ Trà tỳ kim thân Phật, sứ giả các nước đến đòi sở hữu Xá Lợi Phật. Để hòa giải tranh chấp, Bà La Môn Dona phân Xá Lợi làm tám phần chia đều cho tám nước.

ba-la-mon-dola-dung-ra-phan-chia-xa-loi-kim-than-phat-thanh-tam-phan-chia-deu-cho-tam-nuoc.jpg
Bà La Môn Dona đứng ra phân chia Xá Lợi kim thân Phật thành tám phần chia đều cho tám nước

Đã hơn 2600 năm trôi qua nhưng gương sáng của Đức Phật vẫn như mặt trời chân lý soi rọi khắp thế giới. Đức Phật đã thuyết ra giáo lý chân thật giúp chúng sinh thoát khổ. Ngài đã sống cuộc đời gương mẫu, cao cả, không quản ngại gian nan vất vả trên mọi nẻo đường để giáo hóa và độ chúng sinh giải thoát khỏi khổ đau. Lòng thương của Đức Phật là vô lượng, ân đức ấy là vô biên. Đức Phật đã mở ra con đường chân lý tối thượng, mong rằng những người con Phật ngày nay và vô lượng kiếp về sau sẽ gắng công tu học để không phụ ân đức vĩ đại của Người.
 

Cuộc hôn nhân của Thái tử​

Năm Thái tử 16 tuổi, đức vua Tịnh Phạn nhận ra con mình ngày càng ủ dột và lạ thường. Ngài vô cùng lo lắng. Vua Tịnh Phạn quyết định cưới vợ cho Thái tử.

Ngài chọn được công chúa Da Du Đà La - một người con gái dung sắc vẹn toàn, đức hạnh hơn người, phù hợp và xứng đôi với Thái tử Tất Đạt Đa. Và rồi, Thái tử kết hôn với công chúa Da Du Đà La, có một cuộc sống êm đềm, sung sướng trong hoàng cung.

Lo lắng về lời tiên tri của đạo sĩ A Tư Đà, vua Tịnh Phạn đã cho Thái tử Tất Đạt Đa kết hôn, sánh đôi cùng công chúa Da Du Đà La
Lo lắng về lời tiên tri của đạo sĩ A Tư Đà, vua Tịnh Phạn đã cho Thái tử Tất Đạt Đa kết hôn, sánh đôi cùng công chúa Da Du Đà La

Thái tử Tất Đạt Đa và chuyến thăm bốn cổng thành​

Trước lời tiên đoán của tiên nhân A Tư Đà, Đức vua Tịnh Phạn lo lắng Thái tử sẽ xuất gia nên đã ngăn cấm Ngài rời khỏi thành. Thấu hiểu mong nguyện của Thái tử, công chúa Da Du Đà La đã xin cho Ngài dạo chơi bốn cổng thành.

Một ngày nọ, Thái tử Tất Đạt Đa cùng cận hầu - tên là Xa Nặc dạo chơi ngoài hoàng cung. Ở cửa thành phía Bắc, Thái tử gặp một người với dáng vẻ lom khom, làn da nhăn nheo, râu tóc bạc phơ chống gậy đi qua. Ngài ngạc nhiên hỏi Xa Nặc. Khi biết đó là người già, sau này ai cũng già như vậy, Thái tử trầm tư suy nghĩ. Rồi Ngài cho xe ngựa trở về hoàng cung.

Lần thứ nhất, Thái tử gặp một ông già chống gậy
Lần thứ nhất, Thái tử gặp một ông già chống gậy

Vào một lần khác, Thái tử đến cửa thành phía Đông và thấy bên đường có một người nằm cạnh vũng máu đờm, ho sù sụ. Xa Nặc tâu với Thái tử, rằng đây là người bệnh lao phổi; khi chúng ta đang sống thì cơ thể tự nhiên sinh ra bệnh. Nếu bị bệnh thì sẽ rất đau đớn.

Điều này đã làm Thái tử Tất Đạt Đa tiếp tục suy tư. Ngài nhận ra sau này mình rồi cũng sẽ bị bệnh. Hai người lại trở về hoàng cung.

Lần thứ hai ra ngoài cổng thành, Thái tử gặp một người bệnh
Lần thứ hai ra ngoài cổng thành, Thái tử gặp một người bệnh

Một tuần sau, Thái tử đi đến cửa thành phía Nam. Tại đây, Thái tử chứng kiến một đám người mặc áo trắng, khiêng một cái cán phủ khăn trắng, khóc lóc thảm thiết. Khi hỏi Xa Nặc, Ngài mới biết đó là một đám tang đang đưa người chết đi hỏa thiêu bên bờ sông Hằng.
Thái tử theo đoàn người đến bờ sông, khi họ hạ cáng xuống và bỏ chiếc khăn trắng ra, Thái tử nhìn thấy một xác chết. Ngài lại hỏi Xa Nặc về cái chết. Chết là bỏ lại cha mẹ, anh em, vợ con; chết là rời bỏ cung vàng. Thái tử chưa bao giờ nghĩ, rồi một ngày mình cũng phải chết đi, nằm bất động như vậy.

Lần thứ ba ra khỏi cổng thành, Thái tử gặp người chết
Lần thứ ba ra khỏi cổng thành, Thái tử gặp người chết

Khi về hoàng cung, Thái tử trăn trở rất nhiều. Nhiều câu hỏi vẩn vơ trong tiềm thức, khiến Ngài cảm thấy bất an, không thể vui vẻ được. Khi thấy con mình tự nhiên buồn bã, trầm tư, Đức vua Tịnh Phạn lại càng tổ chức nhiều bữa tiệc, tạo nhiều trò vui. Nhưng dù cho thế nào thì nét mặt của thái tử vẫn u buồn.

Ba tuần sau đó, Thái tử quyết định tiếp tục đi đến cửa thành phía Tây. Từ xa, Ngài trông thấy một người mặc áo màu vàng đang ngồi dưới gốc cây. Thái tử liền đến hỏi thăm. Vị này giới thiệu mình là một tu sĩ, đang đi tu để dứt tất cả phiền não, thoát khỏi những đau khổ của cuộc đời.

Thái tử như gặp một điều gì đó chạm tới con tim, toàn thân người như chấn động. Khi trở về, Ngài bắt đầu nung nấu một quyết định cho mình, rằng sẽ trở thành một tu sĩ, bước đi trên con đường để thoát khổ.

Lần thứ tư, Thái tử gặp một người tu sĩ và bắt đầu ấp ủ chí nguyện xuất gia của mình
Lần thứ tư, Thái tử gặp một người tu sĩ và bắt đầu ấp ủ chí nguyện xuất gia của mình

Thái tử Tất Đạt Đa rời hoàng cung - vượt thành xuất gia​

Đến năm Thái tử Tất Đạt Đa 19 tuổi, công chúa Da Du Đà La mang thai và hạ sinh một người con trai. Thái tử rất yêu thương con; nhưng Ngài cũng biết rằng, nếu có con thì đó sẽ là một cản trở lớn cho con đường tu hành. Thái tử đã đặt tên cho con trai là La Hầu La - nghĩa là chướng ngại. Thái tử nhận ra, nếu không đi tu thì sợi dây ràng buộc sẽ ngày càng chặt lại. Cứ thế, tâm mong muốn xuất gia của Ngài càng mãnh liệt hơn; và Ngài quyết định phải rời đi.

Đêm ngày mùng 8 tháng 2, đức vua mở tiệc lớn trong hoàng cung. Sau bữa tiệc, Thái tử thấy cảnh cung nữ ngủ mê man trên sàn, phấn son nhòe đi trông càng bợt bạt. Thấy vậy, Ngài càng kinh sợ vì nhớ lại hình ảnh xác chết đã từng nhìn thấy khi đi dạo bốn cửa thành. Thái tử quyết phải ra đi.

Trước đó, công chúa Da Du Đà La - một người vợ thấu hiểu được chí xuất gia tìm cầu giải thoát của Thái tử, đã đoán được mong nguyện của Ngài. Nàng đã âm thầm cho Xa Nặc sắp xếp xe ngựa, yên cương; rồi quay về phòng nghỉ.

Thái tử lẳng lặng trở về phòng, nhìn vợ và con thơ lần cuối. Khi ấy, công chúa Da Du Đà La nằm quay mặt vào phía trong, giả vờ ngủ say, tạo cơ hội cho Thái tử dũng mãnh ra đi. Nàng tin tưởng chàng sẽ thành tựu được chí nguyện của mình.

Và rồi, trên con ngựa Kiền Trắc, Thái tử vượt thành, rời bỏ hoàng cung cùng Xa Nặc. Đến dòng sông A Nô Ma, Ngài dừng lại, cởi bỏ tất cả những gì thuộc về hoàng cung: trang phục, con ngựa Kiền Trắc,... nhờ Xa Nặc mang về và báo cho vua cha biết Ngài đã đi tu.

Thái tử cùng với Xa Nặc và con ngựa Kiền Trắc ra đi trong đêm
Thái tử cùng với Xa Nặc và con ngựa Kiền Trắc ra đi trong đêm

Cuối cùng, Thái tử Tất Đạt Đa đã từ giã hoàng cung, tài sản, vợ con, để đi tìm hạnh phúc tối thượng.
Sao giống nội dung của Đường xưa mây trắng thế? Chùa Ba Vàng này ăn cắp bản quyền hử;))
 
Lúc nào tao rảnh tao phải đẻ ra 1 loại thần phật mới nô dịch lại tư tưởng bọn ấn độ vs bọn đóng đinh mới dc
 

Có thể bạn quan tâm

Top