
Trong nghiên cứu về Hồ Chí Minh, nhiều nhà nghiên cứu, tiêu biểu là Quinn-Judge trong cuốn “Hồ Chí Minh”, thường nhấn mạnh đến mối xung đột giữa Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) và Trần Phú ở giai đoạn mới thành lập Đảng ********, cho rằng đây là xung đột về tư tưởng: Trần Phú muốn đi theo con đường ******** chủ nghĩa (đấu tranh giai cấp) còn Nguyễn Ái Quốc muốn đi theo con đường dân tộc chủ nghĩa. Quan điểm này cũng được nhiều chính khách và học giả ở Việt Nam ủng hộ từ thập niên 1990s, sau khi khối ******** chủ nghĩa tan rã, như Võ Nguyên Giáp trong sách “Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam” năm 1993. Bằng chứng thường được sử dụng để chứng minh cho mối xung đột “tư tưởng” này là lá thư Trần Phú gửi Quốc tế ******** để phê phán Hồ Chí Minh. Tuy vậy, đọc lá thư này, ta thấy hai ông tuy có xung đột nhưng không phải là xung đột về tư tưởng “dân tộc” hay “giai cấp” mà chỉ là xung đột về lề lối làm việc, vị trí lãnh đạo và một số vấn đề khác.
Tên tài liệu: Thư Ban chấp hành trung ương Đông Dương gửi Quốc tế ********.
Nguyên bản tiếng Nga. Người dịch: Lại Nguyên Ân.
VÀI LƯU Ý CỦA NGƯỜI DỊCH
— Bản viết tiếng Nga không thật chuẩn,
— Nhiều chỗ đánh máy sai, thừa hoặc thiếu chữ, N.D. phải vừa dịch vừa đoán, ví dụ dấu cứng ъ hình như không có trên máy chữ nên người đánh máy dùng dấu ngoặc kép “ trên máy chữ để thay.
— Tên riêng, nhiều chỗ người dịch tạm đoán, vì trong văn bản viết khác nhau:
Ví dụ viết là NG. Ai Kok, rồi Kok, đến trang cuối viết là Kvak
Một số địa danh, ND cũng tạm đoán, ví dụ
viết Hoijai đoán Hongay (địa danh này chắc đoán đúng)
viết Khanua, đoán Khánh Hòa, không chắc đúng, vì đang nói việc ở Tonkin; nhưng ở Thái Nguyên, Bắc Kỳ, vốn cũng có mỏ than tên Khánh Hòa, có lẽ là đó chăng?
L.N.A.
Dưới đây là toàn văn bản dịch.
LƯU TRỮ
OF. 8133. (6) từ Pháp Tuyệt mật
11.VI.31
THƯ B.C.H. T.Ư. Đông Dương
17.IV.31
Các đồng chí thân mến,
Chúng tôi đã nhận được bức thư có tính huấn thị của các đồng chí. Trong bức thư này chúng tôi muốn nêu với các đồng chí, dù chỉ trong những nét chung nhất, tình hình trong đảng ta và BCH TƯ.
Trước tiên là vài lời về sự ra đời của đảng ta để có sự hình dung về điều kiện tổ chức ra nó, giúp các đồng chí dễ dàng hiểu rõ tình hình hiện tại. Vào giữa năm 1929, sau việc giải thể “đảng” thanh niên cách mạng Annam, đã diễn ra sự tập hợp một vài nhóm ********, những nhóm mà chí ít cũng có và có thể gọi là khuynh hướng ********, nhưng còn xa mới mang tính ******** về tư tưởng và tổ chức.
Quốc tế ******** [Comintern] ở Moskva đã nắm được các sự việc này. Không một nhóm nào trong số ấy được thừa nhận là hạt nhân tốt nhất mạnh nhất của đảng: nó [Comintern] đã ra quyết nghị xác lập điều kiện tổ chức đảng CS Đông Dương – tức là, nói cách khác, trước mặt chúng ta đặt ra nhiệm vụ tập hợp vào một tổ chức tất cả những nhân tố của các nhóm ấy và hợp nhất chúng trên cơ sở cương lĩnh chính trị được soạn thảo dựa vào quyết nghị và chỉ thị của Comintern. Tiếc rằng, quyết nghị ấy, được thông qua tháng Chạp 1929, vài tháng sau mới tới được Đông Dương, trong lúc ấy tại đây Ng. Ái Quốc đã chủ động tự mình hợp nhất các nhóm khác nhau. Nhưng sự hợp nhất ấy được thực hiện chỉ vì sự hoà bình giữa các nhóm và nhằm đình chỉ sự đấu tranh nội bộ. Mặt khác, những gì được đề ra bởi
[tr. 2=>]
Quốc và hội nghị hợp nhất lại mang đậm dấu ấn tư tưởng của các tổ chức cách mạng cũ. Vấn đề cơ bản là sự mâu thuẫn với đường lối ********. Chẳng hạn, đã tuyên bố áp dụng phương thức và sở hữu ruộng đất nhỏ của tư sản dân tộc; không có một chính sách giai cấp nào đối với việc tổ chức và lãnh đạo các công đoàn; cách hiểu về liên minh nông dân như là sự tập hợp cách mạng đối với cư dân nông thôn; hầu như tất cả các vấn đề nguyên tắc của vận động quần chúng và vấn đề lãnh đạo đều được đề xuất một cách vô nguyên tắc và mâu thuẫn mạnh mẽ với các nguyên tắc bolshevist. Công việc của hội nghị hợp nhất này mang trong nó dấu ấn nhất định của thời kỳ cộng tác giữa Gomindan [?] và đảng CS Trung Quốc, chủ yếu là chính sách của đảng CS Trung Quốc thiên hữu những năm 1925-27. Chúng tôi lưu ý các đồng chí tình hình ấy không phải để phê phán Quốc, mà chỉ để các đồng chí hiểu rõ đảng Đông Dương hợp nhất đã ra đời ra sao, và để cho thấy điều đó là tai hại ra sao đối với đảng ta hiện nay.
Hội nghị toàn thể lần thứ nhất Ban chấp hành trung ương, sau những khó khăn lớn, chỉ đến cuối tháng 10/1930 mới được triệu tập (điều này các đồng chí đã biết). Hầu như về toàn bộ đường lối, hội nghị này đã thể hiện lập trường phản đối cương lĩnh của hội nghị hợp nhất và thông qua quyết định cứng rắn về việc đưa quyết nghị tháng Chạp của Comintern vào đời sống, bởi vì hội nghị toàn thể BCH TƯ nhất trí thừa nhận rằng, việc thực hiện đường lối chính trị của Comintern thậm chí còn chưa được bắt đầu.
Quyết nghị của hội nghị toàn thể lần thứ nhất của chúng ta được gửi tới các đồng chí thông qua Quốc, do vậy, chúng tôi đã dịch nó ra tiếng Anh và tiếng Pháp. Chỉ sau hội nghị toàn thể thứ nhất này chúng ta mới có một BCH TƯ thật sự ở Đông Dương và mới bắt đầu công tác đảng thật sự.
[tr. 3 =>]
BCH TƯ quyết định xuất bản cơ quan ngôn luận trung ương mang tên “Ngọn cờ vô sản” như một cơ quan tuyên truyền cổ động, và một tạp chí cỡ nhỏ, có mục đích soi sáng các chính sách của Comintern và của đảng Đông Dương và triển khai việc tự phê bình tất cả những khuyết điểm, những lầm tưởng và những non yếu. Mặt khác, cũng ra những thông tri và chỉ thị về việc khôi phục các Ban chấp hành của các vùng miền, vốn đã bị giải thể theo yêu cầu của hội nghị hợp nhất.
Tất cả các số đã ra của cơ quan ngôn luận của chúng tôi, cũng như các thông tri đã gửi tới các đồng chí, chúng tôi đều lấy làm ngạc nhiên là, như trong thư các đồng chí viết gần đây nhất, các đồng chí không nhận được gì cả (Xin hãy hỏi Quốc).
Về sau chúng tôi quyết định liên lạc với BCH TƯ của các tổ chức địa phương, sự liên lạc không đến nỗi quá tệ. Chúng tôi đã lập ra bên cạnh BCH TƯ một ban tuyên truyền, đặt dưới sự kiểm tra của một ủy viên BCH TƯ rất khá về trình độ chính trị, và dưới sự chỉ đạo trực tiếp của một đồng chí khác, chỉ mới vừa đi học từ Moskva về (Giao nhỏ); chúng tôi cho rằng việc củng cố về tư tưởng là điều kiện đầu tiên đối với tổ chức của chúng ta.
Chúng tôi buộc tất cả tổ chức chúng ta phải giữ vững đường lối công tác kiên trì trong quần chúng và lãnh đạo cuộc tranh đấu thường ngày của quần chúng, và chỉ vừa đây chúng tôi đã có một loạt cuộc đình công của thợ thuyền (công nhân Co. Standart Oil và Franco-Asiatique de Petrol ở Nhà Bè, gần Saigon) và ở Hải Phòng, tranh đấu của nông dân chống địa tô cao (Nam Kỳ), của thợ làm nông trong vụ gặt gần đây, tranh đấu của nông dân chống các quyền uy trong cộng đồng, chống sự khủng bố liên miên. Thời gian gần đây sự tranh đấu bắt đầu có tính chất tự giác hơn, đồng thời, vẫn như trước đây, cuộc tranh đấu, nhất là tranh đấu của nông dân, ở phần lớn các trường hợp, do tâm trạng “Đi biểu tình! Đi biểu tình!” nhưng quần chúng, được lây nhiễm sự nhiệt tình, vẫn chưa tự biết họ đi biểu tình để chống ai và vì điều gì. Mặt khác, cũng đã ghi nhận được một vài nhân tố
[tr. 4 =>]
của tính tổ chức; sự cổ động và tuyên truyền đã trở nên có chiều sâu hơn trước; thực hành được việc tổ chức các nhóm tự vệ, tổ chức chống khủng bố; sự hiện diện của các nhóm tự vệ đã trở nên quyết định hơn và mang tính tổ chức hơn. Tình hình chung vẫn chưa thấy những thành quả rõ rệt, nhìn chung vẫn chưa thể thỏa mãn.
Đảng. Số lượng đảng viên tăng lên: sau hội nghị toàn thể BCH TƯ thứ nhất: 1600 (con số làm tròn); hiện tại: 2400, nhưng sự gia tăng này là kết quả của việc bổ sung thêm một lượng lớn nông dân, trong khi đó, số lượng đảng viên công nhân hoàn toàn chưa tăng thêm. Các chi bộ cơ sở sản xuất: gần 20, số lượng áng chừng, ba tháng sau: các chi bộ cơ sở sản xuất có tại nhà máy ciment, trạm điện, nhà máy dệt, xí nghiệp dệt thảm, tại các mỏ ở Hongay (Bắc Kỳ), tại nhà máy gỗ và diêm, tại các nhà máy cưa gỗ, tại đoạn đầu máy xe lửa (Benthey Amen), tại các xí nghiệp khai khoáng. Trong số này những chi bộ vững mạnh nhất cũng chỉ có không nhiều hơn 20 đảng viên. Nhìn chung một loạt chi bộ được tổ chức chỉ với số lượng rất ít: chừng 3 – 4 đảng viên. Nhưng điều đặc biệt hệ trọng là các chi bộ hầu như không bộc lộ sự sống, trình độ chính trị rất thấp, thiếu năng động.
Vẫn hầu như chưa có các chi bộ tại các xí nghiệp có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Cũng như tại các đồn điền.
Đoàn thanh niên. Đã có hướng dẫn về việc lập các chi đoàn bên cạnh mỗi BCH đảng và về việc lập các chi bộ thanh niên. Tuy vậy, công việc diễn ra rất chậm trễ, bởi vì vị trí đoàn thanh niên có rất ít giá trị trong đảng. Hiện tại chúng ta chỉ có một vài chi bộ.
Các công đoàn. Vẫn rất yếu. Số lượng thành viên 1500. Được tổ chức ở nơi có chi bộ đảng.