
(Chủ tịch Hồ Chí Minh [giữa] cùng một số lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam [trái] và đoàn Cố vấn Đảng ******** Trung Quốc [phải] ở chiến khu Việt Bắc, Việt Nam, đầu thập niên 1950s)
Lời giới thiệu của PGS. TS. Alex Thái Võ, Trung tâm Việt Nam học, Đại học Kỹ thuật Texas
Cải cách ruộng đất ở Việt Nam từ năm 1953 đến 1956 là một sự kiện lịch sử quan trọng đã gây nhiều tranh cải trong hơn nửa thế kỷ qua. Một trong những chủ đề tranh cãi gây cấn nhất là vai trò của cố vấn Trung Quốc trong việc ảnh hưởng giới lãnh đạo Việt Nam thi hành cải cách ruộng đất.

Cố vấn Trung Quốc La Quý Ba
Bản “Ý kiến sơ bộ về vận động quần chúng năm 1953” của La Quý Ba, người được Bắc Kinh cử sang Việt Nam để trực tiếp cố vấn cho giới lãnh đạo nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH), trong đó có Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trường Chinh, là một văn bản giá trị vì nó cho thấy những khía cạnh ít được biết đến của mối quan hệ Việt – Trung vào đầu những năm 1950.
Đây là một giai đoạn quan trọng khi VNDCCH, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng Lao Động Việt Nam, phụ thuộc nhiều vào mô hình cách mạng của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc (CHNDTQ) trong việc thực hiện các chính sách quân sự, kinh tế và xã hội của mình.
Các nhà nghiên cứu sử đã tranh luận rất nhiều về mối quan hệ mật thiết và cốt yếu giữa các đồng minh ******** này, nhưng họ tìm thấy rất ít bằng chứng tài liệu để chứng minh cho những luận điểm của họ. Bản khuyến nghị của La Quý Ba có thể không phải là tài liệu duy nhất hiện có thể truy cập được để chứng minh mối quan hệ quan trọng giữa hai nước đồng minh, nhưng bản khuyến nghị ấy đáng được xuất bản và tham khảo vì tầm quan trọng của những đề xuất của La Quý Ba trong việc định hình việc thực hiện cải cách ruộng đất của VNDCCH cũng như ảnh hưởng quan trọng của chương trình đó đối với Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và việc củng cố quyền lực của Đảng ******** Việt Nam.
Xem bản chụp vản bản tại đây.
***
Ngày 9-10-1952
Văn Phòng
Tổng Bí Thư
Số 241 VP/TBT

Kính gửi Bác,
Đồng chí Quý có gửi đến anh Thận bản “ý kiến sơ bộ về vận động quần chúng năm 1953,” vậy anh Thận gửi đến Bác để tham khảo.
Kính thư,
TL/ anh Thận.
Tuan
Ý KIẾN SƠ BỘ VỀ VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG NĂM 1953
(Để tham khảo.)
1) Phương châm:
Thẳng tay phát động quần chúng, đả kích thế lực phản động, làm sụt thế lực phong kiến thỏa mãn đòi hỏi của quần chúng cho đúng mức, tổ chức quần chúng tích cực tham gia sản xuất, tích cực tham gia kháng chiến.
2) Nội dung:
a) Tố cáo những Việt gian, ác bá, phản đối những Việt gian, ác bác chiếm giữ và thao túng, tham ô những ruộng đất và tài sản của đình chùa, nhà chung, hộ và phe giáp, tịch thu và phân phối ruộng đất và tài sản của Việt gian và ác bá để chia cho nông dân không có ruộng hay ít ruộng cày cấy.
b) Kiểm tra việc gảm tô và thoái tô. (Nếu kiểm tra ra những địa chủ không theo lệnh giảm tô sau sắc lệnh giảm tô của Chính phủ nhân dân đã công bố thì phải triệt để giảm tô, số tô đã thu quá mức thì phải trả lại cho nông dân.)
c) Thanh toán nợ cũ. (Tiền tức của nông dân nộp cho chủ nợ nếu đã gấp đôi số vốn thì không trả tức nữa mà chỉ trả vốn thôi; nếu số tức đã gấp ba số vốn thì không trả cả vốn lẫn tức nữa, sau khi đã thanh toán xong nợ cũ thì nông dân được thu hồi những văn tự và ruộng cầm, không phải chuộc lại nữa. Nhưng không bao gồm quan hệ vây nợ đi lại có tính chất thương nghiệp.) Phụ chú: chủ nợ là chỉ những địa chủ cho vay chứ không bao gồm quan hệ vay nợ giữa nông dân với nhau.
d) Phân phối những công điền, ruộng nhà, ruộng hộ, ruộng của Việt gian phân phối cho nông dân không có ruộng hay ít ruộng sử dụng một cách công bằng và hợp lý (nhất là đối với những gia đình quân nhân và tử sĩ không có ruộng hoặc ít ruộng).
e) Xóa bỏ những quy định không hợp lý có tính chất phong kiến về rừng núi, thủy lâm, đình chùa, do hội nghị đại biểu nông dân thảo luận và đặt ra quy định hợp lý, do chính quyền địa phương quản lý, hoặc do ủy ban địa phương nhờ nông hội quản lý.
f) Điều tra những ruộng man bao (sic), phản đối đun sự đóng góp cho nông dân. Bình định sản lượng một cách công bằng và hợp lý, sửa chữa những hiện tượng đóng góp quá nặng hoặc quá nhẹ trong việc đóng thuế nông nghiệp.

3) Mục đích và yêu cầu:
Mục đích và yêu cầu là để thực hiện ưu thế chính trị trong nông thôn, củng cố mặt trận thống nhất ở nông thôn, đoàn kết để tăng gia sản xuất, đoàn kết để kháng chiến.
4) Cần nắm vững những khâu chính dưới đây:
a) Cần phải có lập trường vững, thái độ rõ rệt, thấm nhuần phương châm thẳng tay phát động quần chúng, đề phòng và khắc phục những quan điểm tư tưởng không đúng đắn dưới đây, dó là điều kiện trước tiên để phát triển phong trào.
1/ Sợ thẳng tay phát động quần chúng thì sẽ chia rẽ mặt trận thống nhất làm sụt lực lượng kháng chiến. Cần phải biết rõ: chỉ có phát đồng được quần chúng, Đảng đựa vào quần chúng, thì mới có thể làm cho quần chúng phát huy được lực lượng lớn mạnh trong sản xuất và trong cuộc kháng chiến thì mới có thể đập tan âm mưu chia rẽ của địch; thì mới có lực lượng giữ vững cuộc trường kỳ kháng chiến và chuyển sang tổng phản công.
2/ E rằng sẽ làm cho những phần tử lớp trên trong mặt trận thống nhất hoang mang và sợ sệt. Cần phải biết rõ: miễn là nắm vững và thi hành đúng chính sách; sách lược vận dụng được đúng mức; công tác tuyên truyền làm được khá; thực sự phát động được quần chúng, thì đại đa số phần tử lớp trên không đến nổi xảy ra hoang mang và giao động, hoặc hiểu nhầm nhất thời, rút cục thì cũng sẽ ổn định. Còn đối với một số ít phần tử phản động, những người xấu xa của dân tộc ẩn núp trong mặt trận kháng chiến, sau khi quần chúng đã thực sự vùng dậy thì sẽ vạch được mặt nạ của chúng, vì do việc chúng sợ sệt giao động, thậm chí chạy theo địch do (sic), không có hại đến sự nghiệp kháng chiến, mà trái lại chỉ giảm bớt lực lượng phá hoại; đối với mặt trận kháng chiến mà nói, thì không những không bị sụt yếu đi mà trái lại càng củng cố thêm.
3/ E ngại sẽ làm cho giai cấp địa chủ chống lại, phân tán tài sản của họ, ảnh hưởng đến an ninh trật tự của xã hội ở vùng tự do, anh hưởng đến việc cung cấp vật chất cho bộ đội. Cần phải biết rõ: miễn là chúng ta biết nắm vững chính sách hiện này là “làm yếu thế lực phong kiến, chưa phải là tiêu diệt thể lực phong kiến” cho đúng; và biết nắm đúng sách lược “tranh thủ đa số, cô lập thiểu số, lợi dụng mâu thuẩn, đánh tan từng bọn”; biết nắm đúng phương châm sản xuất kết hợp với vận động quần chúng, và sau khi vận động kết thúc thì kịp thời chuyển sang sản xuất, như vậy sự chống cự của giai cấp địa chủ cũng sẽ không lan tràn được, sự chống cự của một số ít người cũng sẽ có thể kịp thời dập tắt. Dựa vào lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần tích cực sản xuất của quần chúng, sẽ cung cấp cho cuộc kháng chiến nguồn nhân lực, vật lực và tài lực vô tận.

Trong phong trào quần chúng, có thể gặp trường hợp thế lực của địa chủ phong kiến lợi dụng một vài thiên hướng quá “tả” trong phong trào, để kêu la ầm ỉ, tổ chức chống lại, thậm chí một số cán bộ ta tư tưởng không trong sạch, lập trường giai cấp không vững, thiếu quan điểm quần chúng, cũng có thể đứng trên lập trường của giai cấp địa chủ để chống cự, cần phải chuẩn bị tinh thần về điều đó và phải có biện pháp xử trí cho được ổn thoả. Đối với những lời kêu la có tính chất phản động của giai cấp địa chủ, phải căn cứ vào lý do mà bác lại, đối với những hành vi chống cự của địa chủ thì phải dựa vào sức mạnh của quần chúng mà đả kích; đối với những hành vi chống cự của một số cán bộ, ngoài việc tiến hành giáo dục đầy đủ trước, sau khi việc chống cự xảy ra thì phải theo tình hình mà thi hành kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước một cách nghiêm ngặt.
b) Theo đòi hỏi cấp bách của quần chúng đông đảo, với tinh thần củng cố và mở rộng mặt trận thống nhất ở thôn quê, đoàn kết để sản xuất, đoàn kết để kháng chiến, chính phủ trung ương cần phải quy định và ban bố chính sách và sắc lệnh cần thiết, nông hội thì cần phải đặt cương lĩnh đấu tranh. Việc đặt ra và ban bố những chính sách, sắc lệnh và cương lĩnh đấu tranh, sẽ có một tác dụng dựa lưng và làm hậu thuẫn cho nông dân. Các cán bộ làm dân vận và các cán bộ đảng, chính, quân, dân khác, đều phải lấy đó làm vũ khí mạnh để phát động quần chúng, giải quyết những thắc mắc trên tư tưởng của quần chúng, lãnh đạo quần chúng đấu tranh với thế lực phong kiến một cách có phân biệt, và giúp đỡ quần chúng giải quyết các vấn đề trong phạm vi chính sách pháp luật cho phép. Phương pháp dựa lưng và làm hậu thuẫn từ trên xuống dưới kếp hợp với phát động quần chúng từ dưới lên trên là một khâu quan trọng để quyết định cuộc vận động quần chúng thành công hay thất bại.