
So với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, số lượng bằng sáng chế và công trình nghiên cứu khoa học của Việt Nam còn thấp. Chất lượng thường bị đánh giá là chưa đáp ứng được kỳ vọng trong việc tạo ra giá trị thực tiễn.
"Phấn đấu đến năm 2030 phải có 100 phát minh, sáng chế, công trình khoa học trong bảng xếp hạng của khoa học thế giới; ít nhất 03 tạp chí khoa học của Việt Nam đạt trình độ khu vực và trên thế giới; đến năm 2045, đội ngũ trí thức Việt Nam đứng đầu khu vực, thuộc tốp đầu thế giới; có hàng trăm nhà khoa học có ảnh hưởng trên thế giới, đạt các giải thưởng quốc tế trên các lĩnh vực”, đó là yêu cầu của Tổng bí thư Tô Lâm tại cuộc gặp mặt giới trí thức và các nhà khoa học Việt Nam hôm 30/12/2024. Vậy làm sao để đạt được mục tiêu này?'

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã đặt ra mục tiêu rất cao:
Đến năm 2030: Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại và thu nhập trung bình cao; Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trở thành động lực chủ yếu cho phát triển kinh tế - xã hội; Xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam nằm trong top 30 thế giới; Kinh tế số chiếm khoảng 30% GDP, năng suất lao động tăng trung bình 7,5%/năm.
Đến năm 2045: trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao;Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được phát triển ở trình độ cao với hệ sinh thái đổi mới sáng tạo hiện đại; Nền kinh tế số phát triển mạnh, góp phần quan trọng vào sự thịnh vượng và bền vững quốc gia.

Mục tiêu rất cao này cho giới khoa học và công nghệ Việt Nam là một minh chứng rõ ràng cho tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước trong việc khẳng định vai trò của khoa học, công nghệ, và văn hóa trong công cuộc phát triển đất nước. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức lớn, đòi hỏi sự nỗ lực toàn diện từ các nhà khoa học, doanh nghiệp, chính phủ và cả xã hội.
Trước khi nói về việc làm thế nào để đạt được những chỉ tiêu mà Tổng bí thư đã nêu trên, chúng ta cùng nhau xem xét một bức tranh tổng thể Việt Nam đang nằm ở đâu trên bản đồ khoa học- công nghệ thế giới.
- Về bằng sáng chế:
Theo thống kê từ Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) thì Việt Nam, năm 2022, số lượng bằng sáng chế đăng ký quốc tế theo Hiệp ước Hợp tác Sáng chế (PCT) đạt khoảng 25-30 bằng sáng chế/năm. Trong khi đó, cùng năm, Singapore có hơn 1.200; Thái Lan: khoảng 160-200; Malaysia: khoảng 200-300 bằng sáng chế/năm.
Từ năm 2006 đến 2010, Việt Nam, với số dân khoảng 100 triệu, chỉ có 5 bằng sáng chế được đăng ký tại Mỹ, trung bình mỗi năm có 1 bằng sáng chế. Năm 2011, không có bằng sáng chế nào được đăng ký.
Trong khi đó, Singapore, năm 2011, với dân số khoảng 4,8 triệu người, có 647 bằng sáng chế đăng ký tại Mỹ, tương đương khoảng 134,8 bằng sáng chế trên một triệu dân. Malaysia: Với dân số khoảng 27,9 triệu người, có 161 bằng sáng chế đăng ký tại Mỹ trong năm 2011, tương đương khoảng 5,8 bằng sáng chế trên một triệu dân. Thái Lan: Với dân số khoảng 68,1 triệu người, có 53 bằng sáng chế đăng ký tại Mỹ cũng trong năm 2011, tương đương khoảng 0,8 bằng sáng chế trên một triệu dân.
Còn với các nước có nền khoa học, công nghệ phát triển cao hơn như Hàn Quốc thì năm 2011, có 12.262 bằng sáng chế đăng ký tại Mỹ. Với dân số khoảng 50 triệu người, tương đương khoảng 245,2 bằng sáng chế trên một triệu dân. Nhật Bản: cùng năm, có 46.139 bằng sáng chế đăng ký tại Mỹ. Với dân số khoảng 127 triệu người, tương đương khoảng 363,7 bằng sáng chế trên một triệu dân.
Điều đặc biệt đáng nói là càng ngày số lượng đơn xin đăng ký bằng sáng chế liên quan đến Trí tuệ nhân tạo (AI) của các nước tăng đột biến.

Từ năm 2006 đến 2010, Việt Nam, với số dân khoảng 100 triệu, chỉ có 5 bằng sáng chế được đăng ký tại Mỹ, trung bình mỗi năm có 1 bằng sáng chế.
Theo “Báo cáo tình hình cấp bằng AI tạo sinh”, trong 10 năm qua (2014 - 2023), số lượng đơn xin cấp bằng sáng chế liên quan đến AI tạo sinh toàn cầu đã lên tới 54.000, trong đó hơn 25% số bằng sáng chế được công bố vào cuối năm 2023.
Hầu hết các bằng sáng chế AI tạo sinh (GenAI) cho đến nay đều được nộp từ Trung Quốc, với hơn 38.000 (trong khoảng từ năm 2014 đến năm 2023). Con số này nhiều gấp 6 lần so với Mỹ, ở vị trí thứ hai, với 6.276 sáng chế. Hàn Quốc đứng thứ ba với 4.155 sáng chế, tiếp theo là Nhật Bản với 3.409 sáng chế. Ấn Độ, nơi có 1.350 bằng sáng chế GenAI được nộp, có tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm cao nhất ở mức 56%.
Còn đối với Việt Nam, hiện chưa có tài liệu nào đề cập đến số lượng đơn xin cấp bằng sáng chế liên quan đến lĩnh vực AI tạo sinh.
- Số lượng công trình nghiên cứu khoa học trên đầu người:
Trong giai đoạn 2001-2015, các nhà khoa học Việt Nam đã công bố 18.076 bài báo khoa học trên các tạp chí trong danh mục ISI (Institute of Scientific Information, Mỹ). Với dân số khoảng 100 triệu người, tương đương khoảng 0,2 bài báo trên một nghìn dân.
Trong cùng giai đoạn, Singapore công bố 7.605 bài báo khoa học. Với dân số khoảng 5,5 triệu người (năm 2015), tương đương khoảng 1,38 bài báo trên một nghìn dân. Malaysia công bố 11.681 bài báo khoa học. Với dân số khoảng 30 triệu người (năm 2015), tương đương khoảng 0,39 bài báo trên một nghìn dân. Thái Lan công bố 23.550 bài báo khoa học. Với dân số khoảng 68 triệu người (năm 2015), tương đương khoảng 0,35 bài báo trên một nghìn dân.
Như vậy, so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, số lượng bằng sáng chế và công trình nghiên cứu khoa học trên đầu người của Việt Nam còn thấp. Hơn nữa, chất lượng các công trình nghiên cứu khoa học và bằng sáng chế tại Việt Nam thường bị đánh giá là chưa đáp ứng được kỳ vọng trong việc tạo ra giá trị thực tiễn và tác động đến sản xuất, kinh doanh.
- Về các tạp chí khoa học có uy tín trên thế giới:
Việt Nam chúng ta hiện có khoảng 14 tạp chí được chỉ mục trong Scopus (cơ sở dữ liệu của các bài báo khoa học từ nhiều lĩnh vực khác nhau của Nhà xuất bản Elsevier- Hà Lan) và Web of Science (WoS- cơ sở dữ liệu trích dẫn khoa học uy tín và toàn diện, một công cụ không thể thiếu cho các nhà nghiên cứu, học giả và các cơ quan nghiên cứu trên toàn thế giới), tính đến năm 2024. Còn trong hệ thống ASEAN Citation Index (ACI), Việt Nam có 26 tạp chí được công nhận.

Hai tạp chí khoa học của Việt Nam JABES và JSAMD vào Q1 (Quartile 1), top 25% tạp chí tốt nhất thế giới . Ảnh chụp màn hình.
Nếu so sánh trong khu vực Đông Nam Á thì chúng ta thấy, Thái Lan dẫn đầu khu vực ASEAN với hơn 200 tạp chí được chỉ mục trong ACI và gần 50 tạp chí trong Scopus.
Malaysia có khoảng 40 tạp chí được chỉ mục trong Scopus; Indonesia sở hữu hơn 60 tạp chí được chỉ mục trong Scopus, nhờ chính sách hỗ trợ xuất bản khoa học và sự gia tăng nhanh chóng về chất lượng các tạp chí trong nước.
Singapore, dù số lượng tạp chí ít hơn, nhưng chất lượng các tạp chí của Singapore rất cao, với nhiều tạp chí trong danh mục WoS thuộc nhóm Q1 và Q2.
Còn nếu so sánh với các nước phát triển hàng đầu thế giới chúng ta thấy sự chênh lệch là cực kỳ lớn: Mỹ và Anh, các quốc gia dẫn đầu thế giới về số lượng tạp chí được chỉ mục, với hàng ngàn tạp chí uy tín trong cả Scopus và WoS. Các tạp chí từ các nước này thường chiếm phần lớn trong danh mục Q1.
Trung Quốc hiện đang vươn lên mạnh mẽ với hơn 7,000 tạp chí khoa học được chỉ mục trong Scopus. Ấn Độ có khoảng 600 tạp chí được chỉ mục trong Scopus, tập trung vào các lĩnh vực như y học, công nghệ và khoa học tự nhiên. Hàn Quốc và Nhật Bản cũng có hàng trăm tạp chí khoa học được công nhận, với trọng tâm lớn ở công nghệ và khoa học tự nhiên.