Phật tiểu thừa và đại thừa điều xuất phát từ Ấn độ, từ khi phật Thích ca nhập diệt có sự phân chia bộ phái gồm bảo thủ (tiểu thừa) thịnh hành ở nam Ấn, cấp tiến (đại thừa) thịnh hành ở bắc Ấn, kinh điển đại thừa được truyền bá rộng ở TQ vì tư tưởng Bồ tát hạnh phù hợp với Lão giáo, Khổng giáo và giới cầm quyền, do trước khi truyền vào thì TQ đã có một nền văn hóa triết học đồ sộ nên khi tiếp cận Phật giáo bọn triết gia TQ tiếp cận ngay trường phái tu nhập thế của Đại thừa bài bác tiểu thừa vì tư tưởng tu xuất thế xa lánh trần tục.
Kinh điển phật giáo lưu hành ở TQ NB HQ VN hiện nay cũng toàn dịch thuật từ kinh điển của Ấn Độ (ngoài trừ một số kinh sách về thiền tông do các thiền sư TQ kiến giải sau này), do các luận sư trường phái đại thừa Ấn Độ thuyết giảng, kinh điển phật giáo ở Ấn Độ tồn tại 2 dạng một là tiếng Pali (ngôn ngữ bình dân thời đức phật tại thế) phần lớn là kinh tiểu thừa, 2 là tiếng Sankrit(tiếng Phạn ngôn ngữ văn học) phần lớn là kinh đại thừa.
Thời đức phật thích ca chỉ thuyết giảng chứ ko có ghi chép, sau này ngài nhập diệt thì có ông Ananda một trong mười vị đại tử của phật đọc lại, sau nhiều lần kết tập thì được sau chép thành Tam tạng kinh điển gồm kinh luật và luận.
Phật giáo có tới 8 vạn 4000 pháp môn tùy theo căn cơ chúng sinh mà tu tập, nên pháp môn nào cũng được miễn cảm thấy phù hợp với các mày.