Michael Modler
Đầu tiên, đã sống ở Việt Nam vài năm, tôi sẽ không mô tả những người ở đây là “cần cù, siêng năng”. Việt Nam thực sự là một phần của Đông Á, giống như Hàn Quốc và Nhật Bản, vốn nổi tiếng (hay khét tiếng?) về đạo đức làm việc điên cuồng của họ. Nhưng, điểm tương đồng với những xã hội này chủ yếu nằm ở chỗ “đồng văn” (tức là triết học và giá trị Nho giáo, ảnh hưởng nghệ thuật từ Trung Quốc, v.v.). Nếu không tính đến những điểm tương đồng đó, các nước đó khá là khác nhau. Về lối sống, tôi có thể nói rằng Việt Nam thực sự gần gũi hơn với các nước Đông Nam Á như Thái Lan. Mọi người thích nhịp sống chậm và muốn dành nhiều thời gian cho gia đình. Tôi không mô tả người Việt Nam là lười biếng, nhưng hầu hết mọi người đều “làm việc để sống”. Họ thường không “sống vì công việc”.
Tại sao Việt Nam vẫn nghèo? Tôi có thể liệt kê ra mười lý do bên dưới.
- Chế độ quân chủ chuyên chế của Việt Nam noi gương Trung Quốc ảo tưởng trong việc chống lại mọi sự tiếp xúc và ảnh hưởng của phương Tây trong thế kỷ 19. Sự ngoan cố và ngây thơ này đã khiến đất nước ngày càng tụt hậu so với các nước tiên tiến nhất về xã hội, kinh tế và kỹ thuật. Trong khi các nước hiện đại hóa muộn (Nhật Bản, Nga, và ở một mức độ nào đó là Thái Lan) đang áp dụng nhiều cách làm của phương Tây để bảo toàn nền độc lập của mình, thì Trung Quốc và Việt Nam trở thành miếng mồi ngon dễ dàng cho các thế lực đế quốc hiếu chiến.
- Mấy tên thực dân nói chung thì là người xấu, nhưng mức độ xấu xa không giống nhau. Ví dụ, người Anh và người Nhật không phải lúc nào cũng là những nhà cai trị tế, nhưng họ đã thiết lập một nền tảng tốt cho quá trình hiện đại hóa trong tương lai ở Malaysia, Singapore, Hồng Kông và Đài Loan bằng cách phát triển các cơ sở công cộng và cơ sở hạ tầng. Việc Pháp đô hộ Việt Nam từ khoảng 1870–1945 hầu như chỉ tập trung vào khai thác nguyên liệu thô và ít đóng góp tích cực hơn cho sự phát triển của Việt Nam.
- Ba thập kỷ chiến tranh (1945–75) đã làm mất đi cơ hội lớn để tiếp tục phát triển kinh tế trong thời kỳ đầu hậu thuộc địa (đấy là nói gì đến sự tàn phá khủng khiếp của đất nước và thiệt hại to lớn về nhân mạng).
- Chế độ + sản chiến thắng đã đi theo mô hình kinh tế kiểu Xô Viết dựa trên kế hoạch hóa tập trung sau chiến tranh, dẫn đến nạn đói, cuộc thiên di quy mô của người dân (“thuyền nhân”) và toàn bộ nền thảm họa kinh tế từ 1975–1986.
- Cho đến năm 1989, phần lớn nguồn lực và sự chú ý của chánh phủ bị dồn sang việc chiếm đóng Campuchia cùng với một cuộc chiến biên giới ngắn ngủi và có tính hủy diệt lớn chống lại Trung Quốc. Do những xung đột này, Việt Nam bị tách biệt về mặt chính trị và kinh tế với các nước ASEAN và Trung Quốc, cũng như Hoa Kỳ, quốc gia đang áp dụng lệnh cấm vận thương mại cho VN. Một quá trình cải cách bắt đầu vào năm 1986, nhưng sự cởi mở thực sự đối với thương mại và đầu tư với các nước láng giềng và Mỹ đã không có tiến triển cho đến khoảng năm 1994. Lúc đó, nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu. Trong khi đó, nhiều người hàng xóm của VN đã có sẵn một số cơ sở hạ tầng công nghiệp vững chắc và đã tham gia chuỗi cung ứng sản xuất toàn cầu.
- Việt Nam đã có mức tăng trưởng chung tốt trong thời kỳ đổi mới (1994 đến nay). Điều này đã giúp Việt Nam thoát ra khỏi hàng ngũ các quốc gia nghèo nhất thế giới (chủ yếu là các nước châu Phi) và tiến gần hơn đến trình độ của Indonesia hoặc Philippines (vẫn nghèo, nhưng không đến nỗi quá tệ). Tuy nhiên, chính sách kinh tế vĩ mô đã được điều hành sai ở một số thời điểm. Điều này đã dẫn đến các giai đoạn lạm phát cao, nợ công cao, thâm hụt thương mại, biến động tiền tệ và bong bóng tài sản.
- Tiến độ chậm chạp của chánh phủ trong việc cải tổ các doanh nghiệp nhà nước (di sản từ mô hình Xô Viết) đã làm suy yếu những nỗ lực cải thiện năng suất. Ví dụ, Trung Quốc đã làm tốt hơn nhiều trong việc hợp lý hóa hoạt động của các Quốc doanh Doanh nghiệp, bán bớt các tổ chức không có lợi nhuận và bơm máu tươi vào các tổ chức còn lại bằng các đợt chào bán cổ phần lớn cho các nhà đầu tư bên ngoài. Tại Việt Nam, nhiều Quốc doanh Doanh nghiệp lớn nhất vẫn thuộc sở hữu của Chánh phủ, trong khi những doanh nghiệp khác vẫn tham gia vào các lĩnh vực không chính và không mang tính chiến lược như sản xuất bia, khách sạn, chế biến thực phẩm và thậm chí là bán kem cho khách du lịch!
- Cách tiếp cận của chánh phủ để phát triển cơ sở hạ tầng rất hỗn loạn và thiếu hệ thống. Thay vì tập trung vào một số dự án lớn sẽ mang lại “lợi nhuận” tổng thể nhất, các nguồn lực của Việt Nam đã bị phân tán với một số lượng lớn các dự án phát triển quy mô nhỏ mà không có nhiều giá trị kinh tế (sân bay nhỏ, cảng biển, đường bộ và nhà máy lọc dầu nằm xa hoạt động kinh tế). Điều này thường được cho là do quyền lực của khu vực công yếu kém, sự kiểm soát hạn chế của trung ương đối với các chánh quyền cấp tỉnh, và “tư duy xã hội chủ nghĩa” không muốn thấy Sài Gòn và các tỉnh lân cận phát triển quá nhanh so với phần còn lại của đất nước.
- Thị trường tài chính của Việt Nam vẫn còn rất nhỏ bé và sơ khai. Với thị trường chứng khoán vẫn nằm trong danh mục “ngoài rìa” (cùng với các nước như Bulgaria, Bangladesh và Nigeria). Một thị trường thứ cấp cho trái phiếu thậm chí không thực sự tồn tại. Kết quả là, phần lớn các quốc gia đầu tư tiềm năng đổ vào các tài sản có nhu cầu thấp, phi sản xuất, không sinh lời và đầu cơ (tiền gửi ngân hàng, ngoại tệ, vàng và bất động sản).
- Các vấn đề khác như chuyên quyền và tham nhũng tràn lan, hệ thống giáo dục đại học tồi tệ, “chảy máu chất xám”, v.v.
Nguồn:
Michael Modler's answer to Why is Vietnam still so poor while Vietnamese work so hard? - Quora