• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Có Hình Cách đây 46 năm : 7/2/1979 Đặng Đái Bình tuyên bố " dạy cho VN bài học" - 10 ngày sau nó đè đít thằng em oánh chát chát.

Làm gì đến nỗi tệ vậy
Chiến tranh Triều Tiên là phép thử đối với quan hệ Trung - Xô. Đề nghị hỗ trợ không quân, bảo vệ Chí nguyện quân từ trên bầu trời của Trung Quốc bị Liên Xô trì hoãn: "Liên Xô không thể có ngay lực lượng không quân đủ để bảo vệ những nơi mà Trung Quốc yêu cầu. Liên Xô có thể bảo vệ một số cụm công nghiệp của Trung Quốc và bảo vệ vùng biên giới Trung Quốc giáp Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, nhưng cần có thời gian chuẩn bị"[27]. Câu trả lời khiến Trung Quốc phải đối diện với một sự thật tàn nhẫn: Quân đội Trung Quốc sẽ phải chiến đấu mà không có sự đảm bảo từ trên không, phải thu hẹp phạm vi hoạt động, hạn chế hiệu quả chiến đấu, có khả năng thương vong cao. Mao Trạch Đông “không còn sự lựa chọn nào khác ngoài cố gắng nuốt trôi trái đắng của sự phản bội”[28]. Đó cũng là cơ sở để khẳng định “những mầm mống mâu thuẫn Trung - Xô trong tương lai đã được gieo từ những ngày đầu tiên hợp tác hai nước trong chiến tranh Triều Tiên”[29]. Trái với mong đợi của Trung Quốc, Liên Xô không cung cấp viện trợ quân sự không hoàn lại. Sau chiến tranh, Trung Quốc nợ Liên Xô 650 triệu đô la[30]- đó thực sự là gánh nặng đối với nền kinh tế Trung Quốc vốn lạc hậu, đang cần nguồn lực phát triển. Mặc dù Trung Quốc tham chiến chủ yếu bởi các tính toán chiến lược riêng, song các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn không thể gạt đi cảm giác bất mãn do hành động và thái độ của Liên Xô. Trung Quốc ra khỏi chiến tranh với nhận thức Liên Xô là một đồng minh không đáng tin cậy.
 
Làm gì đến nỗi tệ vậy
Chiến tranh Triều Tiên là phép thử đối với quan hệ Trung - Xô. Đề nghị hỗ trợ không quân, bảo vệ Chí nguyện quân từ trên bầu trời của Trung Quốc bị Liên Xô trì hoãn: "Liên Xô không thể có ngay lực lượng không quân đủ để bảo vệ những nơi mà Trung Quốc yêu cầu. Liên Xô có thể bảo vệ một số cụm công nghiệp của Trung Quốc và bảo vệ vùng biên giới Trung Quốc giáp Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, nhưng cần có thời gian chuẩn bị"[27]. Câu trả lời khiến Trung Quốc phải đối diện với một sự thật tàn nhẫn: Quân đội Trung Quốc sẽ phải chiến đấu mà không có sự đảm bảo từ trên không, phải thu hẹp phạm vi hoạt động, hạn chế hiệu quả chiến đấu, có khả năng thương vong cao. Mao Trạch Đông “không còn sự lựa chọn nào khác ngoài cố gắng nuốt trôi trái đắng của sự phản bội”[28]. Đó cũng là cơ sở để khẳng định “những mầm mống mâu thuẫn Trung - Xô trong tương lai đã được gieo từ những ngày đầu tiên hợp tác hai nước trong chiến tranh Triều Tiên”[29]. Trái với mong đợi của Trung Quốc, Liên Xô không cung cấp viện trợ quân sự không hoàn lại. Sau chiến tranh, Trung Quốc nợ Liên Xô 650 triệu đô la[30]- đó thực sự là gánh nặng đối với nền kinh tế Trung Quốc vốn lạc hậu, đang cần nguồn lực phát triển. Mặc dù Trung Quốc tham chiến chủ yếu bởi các tính toán chiến lược riêng, song các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn không thể gạt đi cảm giác bất mãn do hành động và thái độ của Liên Xô. Trung Quốc ra khỏi chiến tranh với nhận thức Liên Xô là một đồng minh không đáng tin cậy.

 
Nói chung cả hai anh em Tàu Tưởng và Tàu Mao đều bị Liên Xô lừa và lật lọng

Trước đó Tàu Tưởng đã bị Liên Xô lừa
Tưởng Giới Thạch quyết định thỏa hiệp, ông đề xuất ba vấn đề như sau:

Thứ nhất, bảo đảm sự nguyên vẹn chủ quyền của Trung Quốc đối với lãnh thổ vùng Đông Bắc; Trung Quốc và Liên Xô cùng sử dụng chung hai cảng Lữ Thuận và Đại Liên trong thời hạn 30 năm, quyền sở hữu cảng và đường sắt[5] thuộc về Trung Quốc. Thứ hai, dãy núi Antai[6] là một bộ phận của Tân Cương. Thứ ba, Liên Xô chỉ có thể viện trợ Quốc Dân Đảng, không được viện trợ đảng Cộng. sản Trung Quốc.

Để đổi lấy ba điều kiện đó, Tưởng Giới Thạch tỏ ý: “Chính phủ Trung Quốc mong rằng sau khi đánh bại Nhật và sau khi Chính phủ Liên Xô chấp nhận ba điều kiện nói trên, [chúng tôi] sẽ đồng ý Ngoại Mông Cổ độc lập.”

Trong hồi ký, Tưởng Kinh Quốc có nói rõ thêm về chỉ thị của bố mình: cái Tưởng Giới Thạch nói “đồng ý Ngoại Mông Cổ độc lập” thì phải được nhân dân Ngoại Mông Cổ bỏ phiếu tán thành và phải bỏ phiếu theo nguyên tắc của chủ nghĩa Tam Dân. Nếu kết quả bỏ phiếu của công dân Ngoại Mông Cổ nghiêng về phía đồng ý độc lập thì Chính phủ Quốc dân mới có thể thừa nhận Ngoại Mông Cổ độc lập. Dù thế nào đi nữa, bao giờ cũng phải giữ thể diện chứ.

Stalin đồng ý với các yêu cầu của Tưởng Giới Thạch.

Ngày 14 tháng 8 năm 1945, “Hiệp ước đồng minh hữu hảo Trung Quốc-Liên Xô” được ký kết tại Moskva. Tống Tử Văn từ chối ký và từ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Vương Thế Kiệt tiếp quản chức vụ này, thay mặt Trung Quốc ký Hiệp ước đó.

Hôm sau Nhật tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.

Hiệp ước đã được ký, mọi chuyện sau đó không thể nào cứu vãn được nữa. Ngày 20 tháng 10 năm 1945, Ngoại Mông Cổ tiến hành bỏ phiếu trưng cầu ý dân. Tưởng Giới Thạch cử Thứ trưởng thường trực Bộ Nội chính Lôi Pháp Chương sang “quan sát” cuộc bỏ phiếu. Tưởng Giới Thạch dặn Lôi Pháp Chương: “Chỉ quan sát thôi, không được can thiệp, cũng không nói bất cứ điều gì.”

Về sau Lôi Pháp Chương kể lại tình hình bỏ phiếu ông “quan sát” thấy: “Cuộc bỏ phiếu này được coi là hành động của nhân dân Ngoại Mông Cổ bày tỏ với thế giới nguyện vọng độc lập của họ. Trên thực tế cuộc bỏ phiếu đó đặt dưới sự giám sát của các cán bộ Chính phủ Ngoại Mông Cổ, dùng hình thức bỏ phiếu có ghi tên để thể hiện có tán thành độc lập hay không, vì thế nhân dân thực sự khó có thể được tự do bày tỏ ý chí của mình.”

Kết quả bỏ phiếu cho thấy tổng cộng có 490 nghìn cử tri, 98% tham gia bỏ phiếu, nhất trí tán thành Ngoại Mông Cổ độc lập. Ngày 5 tháng 1 năm 1946, Chính phủ Quốc dân tuyên bố thừa nhận Ngoại Mông Cổ độc lập.

Lần duy nhất Chính phủ Quốc Dân Đảng bỏ phiếu phản đối tại Liên Hợp Quốc

Năm 1949, Tưởng Giới Thạch thua trận chạy ra Đài Loan. Tưởng canh cánh trong lòng chuyện Stalin nuốt lời hứa “Không viện trợ Đảng Cộng. sản Trung Quốc”. Năm 1952, Tưởng Giới Thạch gửi đơn tố cáo tới Liên Hợp Quốc, lên án Liên Xô vi phạm hiệp ước, yêu cầu hủy bỏ “Hiệp ước đồng minh hữu hảo Trung Quốc-Liên Xô”. Liên Hợp Quốc xác nhận Liên Xô đã làm trái với quy định của Hiệp ước đó và phán quyết Hiệp ước này mất hiệu lực.

Năm 1953, tại Đại hội lần thứ VII của Quốc Dân Đảng, Tưởng Giới Thạch tuyên bố không thừa nhận Ngoại Mông Cổ độc lập và đau xót kiểm điểm: “Tuy rằng quyết sách thừa nhận Ngoại Mông Cổ độc lập đã được Trung ương Đảng chính thức nhất trí tán thành và thông qua nhưng cá nhân tôi vẫn muốn chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc này. Có điều là khi ấy tôi chỉ có thể đưa ra quyết sách như vậy về vấn đề Ngoại Mông Cổ nhằm bảo đảm kháng chiến thắng lợi, giành được cơ hội xây dựng đất nước. Đây là trách nhiệm của tôi, cũng là tội của tôi.”
 

Có thể bạn quan tâm

Top