• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Cải cách Vương an thạch: hại nước hại dân ?

DeptrainhatmienBac

Trưởng lão
Bài được dịch từ Zhihu, không thể hiện quan điểm của người dịch.

Tên gốc: 对于北方人来说,王安石变法才是祸国殃民
Tác giả: Ôn Bá Lăng (温伯陵)



Bài viết này được viết ra để trả lời một câu hỏi: Rốt cuộc Vương An Thạch và Tư Mã Quang tranh đấu vì cái gì? Việc này nói ra thì rất dài, nhưng ngọn nguồn rất rõ ràng.

Bắc Tống khác với các triều đại Hán, Đường, Minh ở một điểm, đó chính là dùng binh biến khoác hoàng bào, trực tiếp cướp lấy giang sơn Hậu Chu, thành lập quốc gia trong thời đại "kẻ có binh hùng tướng mạnh làm thiên tử".

Bối cảnh thời đại đó quyết định tổ hợp gene của triều Bắc Tống.

Bởi vì giang sơn của Triệu Khuông Dận được kế thừa từ Hậu Chu, cho nên để đại đoàn kết chính quyền, thì phải bảo lưu hệ thống quan văn từ trung ương đến địa phương, chỉ cần động vào một cái là đụng chạm đến miếng bánh của nhóm lợi ích, ngai vàng của họ Triệu sẽ không thể ngồi vững.

Chiến tranh cùng binh biến là điều diễn ra thường xuyên trong thời kỳ Ngũ đại Thập quốc, dẫn tới hệ quả là quyền lực củavõo tướng quá lớn. Triệu Khuông Dân vì hạ thấp nguy cơ phản kháng, nhất định phải giữ lại địa vị cho võ tướng, đồng thời lại ban cho họ lợi ích kinh tế phong phú.

Quan văn cùng võ tướng đều còn nguyên, đương nhiên địa chủ ở các địa phương cũng không thể đụng vào. Từ khi thành lập đến diệt vong, Bắc Tống chưa từng tiến hành một lần tái phân phối thổ địa, thành ra không hề tồn tại một tầng lớp trung nông với số lượng khổng lồ như các triều đại khác.

Bởi những đặc điểm kể trên, những tập đoàn lợi ích cướp đoạt đã tồn tại ngay từ khi nhà Bắc Tống thành lập. Hán, Đường, Minh tồn tại một trăm năm mới bước đến địa điểm đó, Bắc Tống một bước đã tới nơi. Giống như người khác 60 tuổi làm bảo vệ quèn, bạn 20 tuổi đã làm đội trưởng đội bảo vệ vậy, ít đi 40 năm đi đường vòng.

Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa kế vị, hấp thu những bài học từ kiêu binh hãn tướng của thời Ngũ đại Thập quốc, quyết định mở rộng khoa cử, trọng dụng văn nhân sĩ phu, hơn nữa cung cấp đãi ngộ vô cùng hậu hĩnh ở các phương diện đất đai, tiền tài,...

Cứ thế, tập đoàn lợi ích cướp đoạt ở Bắc Tống càng ngày càng bành trướng.

Đối với những kẻ cướp đoạt đến lợi ích, việc đầu tiên muốn làm và cần làm là tìm mọi cách giữ được lợi ích, tránh bất kỳ mọi nguy cơ biến động nào. Vì thế, Bắc Tống xây dựng lên một bầu không khí chính trị "ì ạch".

Nước lớn trỗi dậy? Không cần! Phân phối ruộng đất? Không cần! Cải cách chế độ? Không cần! Chỉ cần mọi người có thể sống như hiện tại ngày này qua tháng khác, tất cả đều Ok!

Nhưng vấn đề nằm ở chỗ, tập đoàn lợi ích cướp đoạt càng ngày càng đông, tất nhiên sẽ dẫn tới hệ quả kép là gia tăng gánh nặng lên người dân, cộng thêm tài chính quốc gia co rút vào. Nói dễ hiểu chính là lạm phát quan lại, quân đội nhũng nhiễu, chi phí sinh hoạt lạm phát.

Tới thời Tống Nhân Tông, số lượng quan viên tử 10.000 người tăng đột biến lên 24.000 người, dẫn tới "kẻ ăn lộc ngày càng đông, kẻ lao động ngày càng sụt". Quân số Cấm quân tăng lên tới tám mươi vạn (800.000), khái niệm "tám mươi vạn cấm quân giáo đầu" trong tiểu thuyết chính là sinh ra từ điều đó.
 
Sửa lần cuối:
Số lượng quan viên cùng cấm quân tăng đột biến, cộng thêm sự gia tăng chi phí trong các dịp ban thưởng lễ tết, dẫn tới kết quả "tài phú của thiên hạ vào kho hàng tỉ, chi phí trong một năm chi ra hơn cả tỉ".

Kiếm được nhiều, nhưng mức độ thâm hụt lại luôn tồn tại ở mức độ "ổn định".

Các văn nhân sĩ phu tiêu biểu là Phạm Trọng Yêm thấy được cứ để thế thì không được, tương lai bất ổn hiện lên trước mắt, cần thiết phải tiến hành cải cách ở một mức độ nhất định mới có thể kéo dài quốc tộ, tránh cho giang sơn biến đổi.

Bầu không khí chính trị chủ lưu thời Bắc Tống dần chuyển từ "thanh tịnh" sang "hữu vi". Biến pháp cải cách trở thành nhận thức chung của những sĩ phu có khát vọng.

Vì thế, "Khánh Lịch tân chính" do Phạm Trọng Yêm đề xướng dưới thời Tống Nhân Tông dù cho thất bại, nhưng lý tưởng vẫn được lan tỏa.

Năm 1063, Tống Nhân Tông qua đời, Tống Anh Tông quá độ mấy năm. Năm 1067, Tống Thần Tông kế vị, cái đầu non hưng phấn dị thường, tràn đầy ý chí cải cách để phát triển hùng cường.

Vào thời điểm này, Bắc Tống tồn tại hai con đường cải cách, với hai nhân vật đại diện là Tư Mã Quang và Vương An Thạch.

Không nhầm đâu, Tư Mã Quang không phải là phái bảo thủ, bản thân họ Tư Mã cũng chủ trương cải cách, chỉ là quan điểm khác biệt với Vương An Thạch.

Tư Mã Quang kiến nghị: Chi phí quá cao, ban thưởng không hạn chế, tông thất khổng lồ, chức quan nhiều mà vô dụng, quân lữ không tinh nhuệ, phải cố gắng thay đổi những tệ nạn đó.

Tóm lại, Tư Mã Quang đặt trọng tâm ở việc tinh giảm bộ máy quan lại cồng kềnh, hủy bỏ những ban thưởng không cần thiết, Hoàng gia tiết kiệm ngân sách, triều đình giảm bớt chi tiêu.

"Giảm bớt chi tiêu, hạ thấp thuế phú", để triều đình cùng bách tính có thể thở ra một hơi.

Ý tưởng của Tư Mã Quang có thể nhìn nhận ở góc độ: Nếu không thể một lần nữa phân phối lại thổ địa, vậy trên cơ sở không thay đổi cách phân chia lợi ích, tiến hành cải cách ôn hòa chậm rãi, được năm này qua tháng nọ, đến tận khi thật sự sụp đổ không thể cứu chữa thì thôi.

Còn kiến nghị của Vương An Thạch là: Nguồn lực cạn kiệt không phải việc cấp bách mới xuất hiện hôm nay, chỉ cần có người giỏi quản lý tài chính, lo gì không trù phú.

Tóm lại là có thể tiếp tục duy trì việc chi tiêu như hiện tại, mấu chốt nằm ở việc quốc gia thay đổi phương thức "quản lý tài chính", gia tăng nguồn thu để lấp đầy quốc khố.
 
Sửa lần cuối:
Viết những cái như thế này thực là hay
Tôi có phải người viết đâu, tôi chỉ là người copy trên Facebook bác. Tôi có để tên bài viết gốc với tên tác giả đầu bài. Nếu tôi đủ trình độ viết cái bài nghị luận như vậy, tôi đã bỏ chơi xam rồi bác. :ops:
Nhưng tôi nghĩ tác giả bài viết làm trong công ty liên quan đến kinh tế, dịch vụ, xuất nhập khẩu hay nếu không cũng là người kinh doanh. Đem kiến thức kinh tế, đối ngoại thế kỷ 21 áp dụng vào thời nhà tống. Chưa biết đúng sai ra sao nhưng bài viết cũng hay đấy. :embarrassed:
 
Vậy "quản lý tài chính" là làm cái gì?

Thực ra, quản lý tài chính theo quan điểm của Vương An Thạch chắc chắc không phải vận động nhân dân lao động thanh toán giai cấp địa chủ quan liêu, cũng không phải là thay đổi quan hệ sản xuất hay thúc đẩy, nâng cao sức sản xuất... Mà là quốc gia thay đổi biện pháp trưng thu, dùng tất cả mọi thủ đoạn để làm tiền.

Theo lời của Vương An Thạch: Thuế má bây giờ cũng không nặng nề như thời tiên vương, nhưng không đều, lại có hậu hoạn tóm thâu vậy.

Thấy chưa, ý của Vương An Thạch không phải bình quân ruộng đất, mà là bình quân thuế má.

Nếu lưỡi đao quản lý tài chính chém vào người địa chủ quan liêu, nói một câu xin lỗi là xong, nhưng nếu chém vào người bách tính, thì bách tính tự đi mà chịu.

Dù sao Vương An Thạch ta đây chỉ cần tiền, còn lại cứ theo đó mà làm.

Thế cho nên Tư Mã Quang và Vương An Thạch không phải tranh cãi việc có cải cách hay không, mà là cải cách cái gì, cải cách như thế nào. Đây là đấu tranh cho đường lối.

...

Lý luận của Tư Mã Quang và Vương An Thạch thực ra cũng khó có thể nói là ai đúng ai sai.

Tư Mã Quang muốn không đụng chạm đến nhóm lợi ích hiện tại, điều này không thể hoàn toàn thay đổi lề thói khó sửa của triều đình Bắc Tống, chỉ đơn giản là đem bệnh cấp tính điều trị thành bệnh mãn tính, trì hoãn ngày quy luật lịch sử quay vòng lại mà thôi.

Nhưng đụng chạm thì có thể thay đổi được vấn đề sao?

Cơ bản cũng không được.

Bắc Tống vào thời điểm đó đã lập quốc được gần trăm năm, nếu tính tập đoàn lợi ích cướp đoạt đã tồn tại từ đầu thời Ngũ đại Thập quốc, thì chu kỳ quy luật lịch sử đã đi được một trăm năm mươi năm. Có thể nói tập đoàn lợi ích cướp đoạt đã trở thành trụ cột của chính quyền Bắc Tống.

Nếu hoàn toàn đẩy ngã dựng lại, thì tập đoàn lợi ích cướp đoạt không ngần ngại thay thế Triệu quan gia mà tìm một người phát ngôn khác. Kết quả đơn giản là thiên hạ đại loạn, triều đại thay đổi, một ngày trôi qua, Bắc Tống thành dĩ vãng.

Quan điểm cải cách của Tư Mã Quang không phải tốt nhất, nhưng chí ít ra không tệ.

Còn quan điểm cải cách của Vương An Thạch chỉ chăm chăm vào chữ "tài", dùng quản lý tài chính để ức chế thâu tóm tư liệu sản xuất. Nhưng Vương An Thạch lấy cái gì để đảm bảo quản lý tài chính có thể đạt thành mục đích đó?

Ví dụ như phép thanh miêu (mạ non): Đến thời kỳ giáp hạt mỗi năm, quan phủ cho nông dân vay tiền, sau khi thu hoạch mùa màng (vụ thu) thì đem cả gốc lẫn lãi trả cho quan phủ. Lãi suất hàng năm là 20%, so tư nhân cho vay thấp hơn rất nhiều.

Chính sách thoạt tưởng là có lợi cho dân, nhưng quyền lực cho vay tài chính nằm trong tay quan phủ mà không hề có một cơ chế giám sát thích hợp nào. Kết quả chính là hủ bại và nợ nần chồng chất.

Rất nhiều địa phương mùa xuân cưỡng chế nông dân vay một lần, mùa thu đã cưỡng chế thu hồi tiền gốc cùng hai thành lãi, vừa thu xong lại cưỡng chế cho vay lần nữa, đến mùa xuân lại thu cả gốc lẫn lãi. Cứ thế, chỉ bằng một thao tác đơn giản, tiền lãi hàng năm từ 20% đã thành 40%.

Tức là cho vay mười đồng, Vương An Thạch quy định thu lãi hai đồng, quan phủ địa phương từ đó có thể thu về bốn đồng thậm chí còn nhiều hơn thế.

Tiền đó từ đâu ra? Đương nhiên là từ nông dân.

Nông dân không vay nặng lãi có được không?

Không được!

Vào thời kỳ giáp hạt, nông dân không vay tiền thì không thể sống nổi. Hơn nữa, quan phủ cũng có KPI, có chỉ tiêu cho vay và chỉ tiêu lợi nhuận, nếu không hoàn thành nhiệm vụ nhẹ bị bay mũ mà nặng thì cũng không bay đầu được. Cho nên, quan phủ sẽ chủ động cưỡng chế nông dân vay tiền với một câu: Tiền này chú cứ cầm, nửa năm sau đem cả gốc lẫn lãi đưa lại đây, cứ quyết định như thế đi!

Phép thanh miêu tóm lại chính là quan phủ cưỡng chế cho vay nặng lãi.

Về phương diện lao dịch, chính sách cũ của Bắc Tống là phép sai dịch, nghĩa là đến thời gian phải lao dịch theo quy định, người giàu có thể bỏ tiền, người nghèo có thể bỏ sức, có gì bỏ nấy, chưa kể số lượng lớn "hạ hộ" (hộ gia đình có tài sản riêng nhưng không có tư liệu sản xuất, thường đánh đồng với bần dân) có thể được miễn lao dịch.

Vương An Thạch cho rằng cưỡng chế người không có tiền đi làm lao dịch sẽ làm chậm trễ mùa vụ, bất lợi với sự phát triển kinh tế.

Do đó, Vương An Thạch đẩy ra phép miễn dịch (miễn trừ lao dịch), tất cả các hộ gia đình bất kể tài sản nhiều hay ít, thượng hộ hay hạ hộ, đều phải giao nộp tiền cho quan phủ, quan phủ dùng tiền đó để chiêu mộ lao động làm công trình, từ đó không ảnh hưởng đến mùa vụ.

Đối với người giàu mà nói, phép sai dịch hay phép miễn dịch chẳng có gì khác nhau, tóm lại vẫn là bỏ tiền ra mà thôi.

Nhưng đối với người nghèo mà nói, phép sai dịch có thể "lấy thân thay tiền", giờ thực thi phép miễn dịch, những hộ vốn được miễn lao dịch bây giờ cũng phải nôn tiền ra.

Mục tiêu của cách cách là "lấy chỗ thừa bù chỗ thiếu", mà người nghèo thừa chỉ có thân thể, thiếu chính là tiền. Giờ hay rồi, phép miễn dịch của Vương An Thạch lại làm ngược lại, đánh vào cái thiếu của người nghèo.

Phép bảo giáo là chế độ cưỡng chế trưng binh kết hợp binh nông hợp nhất. Nông dân đã phải bỏ tiền ra lại còn phải cưỡng chế nhập cũ, Tư Mã Quang phải nhận xét: Bỏ cày cấy, đi đánh trận, một thân làm hai việc.

Vấn đề mấu chốt nằm ở chỗ trung tâm của chính sách cải cách của Vương An Thạch nằm ở Tiền, nhưng chi đến trước khi nguồn bạc trắng của châu Mỹ chảy vào Trung Quốc thì lượng tiền lưu thông trên thị trường Trung Quốc luôn luôn không đủ. Chính vì thế nên nhà Đường mới phải dùng lụa gấm (quyên bạch) để làm vật thay thế cho tiền.

Dưới chính sách cải cách chú trọng tiền tệ của Vương An Thạch, gia trị của số lượng tiền vốn đã không đủ cho thị trường nhanh chóng nhảy lên theo cấp số nhân, có thể hình dùng là ngày trước một đồng tiền có thể mua được một cân gạo, giờ một đồng có thể mua được năm cân gạo. (Giảm phát???)

Hệ quả là để nộp đủ tiền do quan phủ quy định, người nông dân phải bán nhiều lương thực hơn nữa, thậm chí lương thực không đủ mà bán thì phải bán ruộng bán nhà, bán vợ bán con.

Trong quá trình này, quan phủ, quan viên, thương gia, phú hộ lại bắt đầu kiếm thêm một số tiền không nhỏ.

Xem nào, chính sách cải cách của Vương An Thạch có lẽ, thật là có lẽ, xuất phát điểm là tích cực, nhưng kết quả thực thi trên thực tế chính là: Vừa bắt nông dân bỏ tiền bỏ công sức, lại bắt nông dân mang ơn đội nghĩa, còn muốn nước giàu binh mạnh, tóm lại là hiến tiền lại hiến thân, hiến thanh xuân rồi hiến chung thân, hiến chung thân hiến cả con cháu.

Cách cách như thế không hiểu hơn gì so với chủ trương của Tư Mã Quang?

Rốt cuộc, mấy năm sau khi Vương An Thạch tiến hành cải cách, địa chủ cường hào bị cướp đoạt lợi ích kinh tế bất mãn, quan viên bị xa lánh với lý do cải cách bất mãn, nông dân bị tròng thêm vài tầng bóc lột bất mãn,... Nhưng nguồn thu tài chính của triều đình lại tăng trưởng chóng mặt, từ 683 vạn thạch năm Cảnh Đức thời Tống Chân Tông tăng lên 5.201 vạn thạch trong năm Hi Ninh thời Tống Thần Tông.

Nói cho cùng, cải cách Vương An Thạch thành công với mục tiêu "Nước tiến, dân lùi" trên cơ sở không phát triển sức sản xuất, không thay đổi quan hệ sản xuất.

...

Cũng là phe cải cách, tại sao lý niệm của Vương An Thạch và Tư Mã Quang lại hoàn toàn bất đồng? Vương An Thạch căn cứ vào đâu mà khẳng định đường lối cải cách của bản thân là hoàn toàn chính xác?

Đáp án rất đơn giản, cơ sở kinh tế và bầu không khí chính trị của hai miền nam bắc đã đắp nặn lên Vương An Thạch và Tư Mã Quang.

Thời Ngũ đại Thập quốc, trong các quân phiệt, Lý Khắc Dụng ở Thái Nguyên và Chu Ôn ở Khai Phong (Biện Kinh) có thực lực mạnh mẽ nhất. Năm 923, Lý Tồn Úc tiêu diệt Hậu Lương, tập đoàn Hà Đông hoàn toàn cầm đầu, từ đó về sau bất kể Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu hay Bắc Tống thành lập chung quy vẫn là tập đoàn Hà Đông thống trị.

Cho nên pháp chế chính trị nhà Bắc Tống có nguồn gốc từ Hà Đông tiết độ sứ Lý Khắc Dụng, về mặt chính trị là chính quyền phương bắc.

Nhìn từ cơ cấu nhân sự, quân chủ khai quốc Triệu Khuông Dận là người quận Trác (U Châu), công thần khai quốc Triệu Phổ là người huyện Kế (U Châu), Tể tướng Lã Mông Chính là người Lạc Dương (Hà Nam), Khấu Chuẩn là người Vị Nam (Thiểm Tây), Hàn Kỳ là người An Dương (Hà Nam), Phú Bật là người Lạc Dương (Hà Nam), Văn Ngạn Bác là người Giới Hưu (Sơn Tây), Tư Mã Quang là người huyện Hạ (Sơn Tây).

Tất cả đều là người phương bắc.
 
Nói cách khác, Bắc Tống ban đầu là chính quyền phương bắc do người phương bắc nắm quyền chủ đạo.

Nhưng kể từ khi Tống Thái Tông (Triệu Quang Nghĩa) mở rộng khoa cử, gia tăng số lượng đỗ công danh, người phương nam dần dần thông qua khoa cử để bước vào bộ máy chính trị, hơn nữa còn với mục đích mở rộng không gian sinh tồn của người phương nam trong bộ máy chính quyền Bắc Tống.

Trải qua trăm năm tích lũy, đến thời Tống Thần Tông, phương nam cử ra người đại diện là Vương An Thạch.

Vì thế, khi mới bắt đầu bước vào con đường chính trị, Vương An Thạch kết giao với Hàn Kỳ, Phú Bật, Văn Ngạn Bác, Tư Mã Quang,... một đám người phương bắc, đến khi năm quyền cải cách thì lập tức kéo lên một đống người phương nam. Đơn cử như Vương An Thạch người Phủ Châu (Giang Tây), Lã Huệ Khanh người Tuyền Châu (Phúc Kiến), Tăng Bố người Nam Phong (Giang Tây), Chương Đôn người Nam Bình (Phúc Kiến),...

Có thể nhận định, Vương An Thạch mượn tay người phương bắc để nắm giữ quyền lực, sau đó liên hiệp người phương nam tiến hành cải cách, dẫn tới Tư Mã Quang cầm đầu người phương bắc phản đối.

Tranh đấu giữa Vương An Thạch và Tư Mã Quang, mặt ngoài là tranh đấu về con đường cải cách, bên trong là tranh chấp quyền lực chính trị giữa người hai địa vực nam bắc.

Tranh chấp về con đường cải cách hay tranh chấp quyền lực chung quy là nhằm khống chế chính quyền để chế định những chính sách có lợi với phe mình.

Yếu tố quyết định điều đó nằm ở cơ sở kinh tế hai địa vực nam bắc Trung Quốc.

Thời Bắc Tống, tổng sản lượng kinh tế hai miền nam bắc cơ bản là 50-50, so với thời Hán bắc giàu nam nghèo, thời Minh bắc nghèo nam giàu thì cơ bản cân đối.

Nhưng tổng sản lượng kinh tế cân bằng không có nghĩa là hình thức kinh tế giống nhau.

Phương bắc Bắc Tống từ xưa đến nay vẫn là kinh tế nông nghiệp cá thể, mặt trời mọc ra đồng mặt trời lặn về nhà, lương thực trừ dùng để làm thực phẩm, làm hạt giống, nộp thuế thì về cơ bản không có nhiều nhu cầu trao đổi hàng hóa, lượng tiền lưu thông tương đối ít.

Cơ sở kinh tế như thế hiển nhiên thích hợp với quan điểm cải cách của Tư Mã Quang: Về mặt kinh tế hạ thấp chi tiêu tài chính, về mặt chính trị không thay đổi gì, lấy ổn định làm mục tiêu hàng đầu.

Phương nam Bắc Tống trải qua công cuộc khai phá của Lục Triều và Vãn Đường, nông nghiệp ở bản đã ổn định, cộng thêm mậu dịch đường sông cũng như hải ngoại, sản sinh ra tư tưởng "nông thương đều trọng", thị trường kinh tế phồn vinh, lượng lớn tiền tệ lưu thông.

Cơ sở kinh tế phương nam tương đối thích hợp quan điểm cải cách của Vương An Thạch: Lấy tiền làm vật môi giới, về mặt kinh tế giải phóng nhân lực, về mặt chính trị thúc đẩy giao dịch giữa quan phủ và dân chúng, cuối cùng thay đổi kết cấu xã hội trở thành sĩ công nông thương quay chung quanh đồng tiền.

Đứng ở lập trường của Tư Mã Quang và Vương An Thạch, mỗi người có con đường của riêng mình, nhưng Bắc Tống là một quốc gia thống nhất, không thể căn cứ cơ sở kinh tế bất đồng giữa hai miền mà thực thi một quốc gia hai chế độ được.

Cho nên dùng phương án cải cách như thế nào thì cần phải đấu tranh.

Tống Thần Tông lựa chọn phương án của Vương An Thạch, đem chính sách kinh tế trên lý thuyết vốn chỉ phù hợp với kinh tế phương nam áp đặt vào phương bắc, dẫn tới phương nam vui mừng, phương bắc oán thán ngập trời.

Văn nhân Bắc Tống là Thiệu Bá Ôn than: Dân Ngô Thục cho rằng mướn người lao dịch là tiện lợi, dân Tần Tấn cho rằng sai dịch là tiện lợi. Nghĩa là người phương bắc thích phép sai dịch cũ, còn người phương nam thích phép miễn dịch mới.

La Tùng Ngạn cho rằng: Phương pháp của An Thạch giống như phép hai thuế của Dương Viêm, người đông nam được lợi ích thực tế. Có nghĩa là chính sách của Vương An Thạch chỉ thực sự thích hợp với khu vực đông nam chứ không phải cả phương nam.

Trong bối cảnh đó, Vương An Thạch trở thành người phát ngôn của toàn bộ nên kinh tế phương nam, phe cải cách cấp tiến đều đi đến dưới trướng Vương An Thạch, còn Tư Mã Quang trở thành người phát ngôn của nền kinh tế phương bắc, phe cải cách ôn hòa ủng hộ Tư Mã Quang.

Xét cho cùng tranh đấu của Vương An Thạch và Tư Mã Quang chính là tranh chấp giữa hai hình thức kinh tế đại diện cho hai miền nam bắc.

...

Nhìn qua toàn bộ tiền trình lịch sử, từ Tần đến Đường, mạch đường chính của lịch sử Trung Quốc là tranh chấp giữa Quan Đông và Quan Tây, còn từ Tống đến Thanh là tranh chấp giữa phương bắc và phương nam.

Nếu loạn An Sử là dấu chấm hết cho tranh chấp đông tây, thì tranh chấp giữa Vương An Thạch và Tư Mã Quang là khởi đầu cho tranh chấp nam bắc.

Bắc Tống từ đó quay chung quanh cải cách Vương An Thạch mà sinh là Tân đảng và Cựu đảng, hai phe nối nhau nắm quyền. Tân đảng làm tể làm tướng lập tức thanh toán Cựu đảng, Cựu đảng lên thì lập tức thanh toán Tân đảng, mãi đến khi Nữ Chân xuôi nam hủy diệt Biện Kinh mới kết thúc tranh chấp kéo dài hơn sáu mươi năm.

Tương lai Nam Tống không hề tích cực bắc phạt, thậm chí đưa ra ngôn luận "người nam về nam, người bắc về bắc" chưa chắc đã không phải là hệ quả của tranh chấp Tân-Cựu đảng.

Nếu tranh đấu không có kết quả, chi bằng nam bắc mỗi người xây cái nhà khác, dùng hình thức kinh tế của mình, không cần quan tâm phe kia.

Sau đó, Chu Nguyên Chương từ nam ra bắc, tái tạo Trung Quốc, nhưng ngăn cách giữa phương nam với phương bắc vẫn vô cùng nghiêm trọng, phải đến khi Chu Nguyên Chương chia khoa cử làm hai bảng nam bắc, Chu Đệ dời đô đến phủ Thuận Thiên, khơi thông Đại Vận Hà, thì hai miền nam bắc mới thực sự khai thông về mặt kinh tế, một lần nữa ổn định căn cơ đại nhất thống.

Bất quá, về phương diện nhân sự, các các lão của nhà Minh vẫn dùng người phương nam là chính, mãi mới có một Nội các Thủ phụ người phương bắc là Trương Tứ Duy thì lại vươn lên nhờ thanh toán cải cách của Trương Cư Chính.

Tranh chấp giữa Trương Tứ Duy và Trương Cư Chính cũng có thể xem như tranh chấp Tư Mã Quang vs Vương An Thạch ver 2.0.

Tới những năm cuối thời Minh, bất kể là khởi nghĩa nông dân của Lý Tự Thành hay Trương Hiến Trung, vẫn là địa chủ phương bắc kết minh với Mãn Mông chinh phục phương nam, xét về mặt nào đó vẫn là kinh tế nông nghiệp cá thể phương bắc toàn diện thanh toán kinh tế tiền tệ phương nam.

Đến những năm cuối nhà Thanh, đảng cách mạng yêu cầu độc lập, Tây hóa nổi lên ở vùng duyên hải đông nam, còn phái Bảo hoàng lại tập trung ở nội địa phương bắc.

Nghìn năm lịch sử, chỉ có một chính quyền duy nhất thực sự cân bằng nam bắc, chính là nước Trung Quốc mới, lấy chế độ công hữu toàn dân làm cơ sở kinh tế, Đảng lãng tạo toàn diện về mặt chính trị.

Không có phân biệt đối xử, nhân tâm liền ổn định.

Bất quá, đến khi cải cách mở cửa, vùng duyên hải đông nam nhanh chóng phát triển, xí nghiệp quốc doanh cùng công nghiệp nặng vẫn tập trung ở phương bắc giữ thói quen khó sửa, dẫn tới hai miền nam bắc lại sản sinh cơ sở kinh tế khác biệt.

Cho nên người yêu cầu toàn cầu hóa tự do kinh tế phần lớn là người Tam giác Trường Giang và Tam giác Châu Giang, còn người tôn trong kinh tế có kế hoạch cũng như thể chế phần lớn là người phương bắc.

Gần đây, tình hình kiểm soát dịch bệnh bắt đầu lới lỏng, chính quyền Chiết Giang ngay lập tức tổ chức xí nghiệp xuất ngoại tìm đơn đặt hàng, còn các tỉnh phía bắc vẫn phân vân, nhỡ dịch bệnh bùng phát trở lại làm sao bây giờ?

Đằng sau những hành vi đó chung quy vẫn là cơ sở kinh tế quyết định hành động thực tế.

Vậy nên tranh chấp giữ Tư Mã Quang và Vương An Thạch còn lâu mới kết thúc, nó sẽ tiếp tục lấy trọng tâm cũ, hình thức mới để tiếp tục diễn biến.
 
Tới thời Tống Nhân Tông, số lượng quan viên tử 10.000 người tăng đột biến lên 24.000 người, dẫn tới "kẻ ăn lộc ngày càng đông, kẻ lao động ngày càng sụt". Quân số Cấm quân tăng lên tới tám mươi vạn (800.000), khái niệm "tám mươi vạn cấm quân giáo đầu" trong tiểu thuyết chính là sinh ra từ điều đó.
thấy hơi giống tình trạng của đông lào rồi đó, quân quá đông, ngân sách không chịu nổi
 
thấy hơi giống tình trạng của đông lào rồi đó, quân quá đông, ngân sách không chịu nổi
Giống chỗ nào, thời nhà Tống Trung Quốc giàu nhất thế giới ? Chưa kể chính trị Việt Nam giống phong kiến phân quyền hơn, nhà Tống thì tập quyền.
 
Tao thấy sách vở bên TQ lên douban có những giáo sư ở Bắc Đại hoặc nhóm c9 tinh hoa trung viết nó khảo cứu nghiên cứu những phát hiện mới gần đây. VN thì vẫn chưa thấy gì toàn xào đi đống sách dịch cũ rích
mấy thằng việt nam đến việc coi trông sách còn trông không nổi, để mất cả đống sách quý thì đòi hỏi gì nhiều
 
Tao thấy sách vở bên TQ lên douban có những giáo sư ở Bắc Đại hoặc nhóm c9 tinh hoa trung viết nó khảo cứu nghiên cứu những phát hiện mới gần đây. VN thì vẫn chưa thấy gì toàn xào đi đống sách dịch cũ rích
Sao giống được, tác giả bài viết trên dùng kiến thức kinh tế, đối ngoại, chính trị giải thích lịch sử. Việt Nam dùng kiến thức nho giáo của mấy ông nhà Nho giải thích lịch sử.
 
Hay lắm. Để mai tao đọc kĩ rồi bàn thêm, kiến thức từ bài viết có thể áp dụng được ở hiện tại được
 
Hay lắm. Để mai tao đọc kĩ rồi bàn thêm, kiến thức từ bài viết có thể áp dụng được ở hiện tại được
Đây là bài viết mà tác giả dùng kiến thức hiện đại lý giải mà, nên áp dụng được cũng đúng.
 
Giống chỗ nào, thời nhà Tống Trung Quốc giàu nhất thế giới ? Chưa kể chính trị Việt Nam giống phong kiến phân quyền hơn, nhà Tống thì tập quyền.
Phân quyền cái gì, vn quyền lực trong tay bộ chính trị, vớ vẩn
 
mấy thằng việt nam đến việc coi trông sách còn trông không nổi, để mất cả đống sách quý thì đòi hỏi gì nhiều
Đôi khi t sợ sự việc ko đơn giản vậy, bao năm đấm nhau cái TQ luôn mang về nước là sử liệu, giờ thời bình ko đấm đc nhau thì nó dùng tiền
 
Đây là bài viết mà tác giả dùng kiến thức hiện đại lý giải mà, nên áp dụng được cũng đúng.
Ko phải kiến thức hiện đại mà thời nào cũng vậy, chỉ là phong kiến thì tầng lớp quan lại, nhà giàu mới biết đến những kiến thức này. Vn sử thì ko ai dám phân tích nhưng sự hưng suy của các thời đại luôn gắn với các nhóm lợi ích
 
trung hoa cũng phân biệt bắc nam y hệt vn, điểm chung phía bắc kinh tế kém phát triển hơn phía nam, nên chính sách cũng phải hài hòa, lần duy nhất ở tq cả 2 miền kte tương đồng nhau là thời lão mao, toàn dân bao cấp, đói rã họng, nghèo như nhau
 
Phân quyền cái gì, vn quyền lực trong tay bộ chính trị, vớ vẩn
Quyền lực của ông tổng bên nước mình có phải tuyệt đối đâu, vẫn phải chia sẻ cho mấy ông khác thì khác gì phong kiến phân quyền.
Ko phải kiến thức hiện đại mà thời nào cũng vậy, chỉ là phong kiến thì tầng lớp quan lại, nhà giàu mới biết đến những kiến thức này. Vn sử thì ko ai dám phân tích nhưng sự hưng suy của các thời đại luôn gắn với các nhóm lợi ích
Tôi lại nghĩ, bắt đầu từ thời tống thì quyền lực của hoàng đế đã tập trung cao độ rồi. Không thể có chuyện có 1 ông nào đấy dám lật đổ hoàng đế đâu. Nhìn lại bắt đầu từ thời tống, có quyền thần nào dám lật đổ vua đâu.
 
Phân quyền cái gì, vn quyền lực trong tay bộ chính trị, vớ vẩn
Quyền lực của ông tổng bên nước mình có phải tuyệt đối đâu, vẫn phải chia sẻ cho mấy ông khác thì khác gì phong kiến phân quyền.
Ko phải kiến thức hiện đại mà thời nào cũng vậy, chỉ là phong kiến thì tầng lớp quan lại, nhà giàu mới biết đến những kiến thức này. Vn sử thì ko ai dám phân tích nhưng sự hưng suy của các thời đại luôn gắn với các nhóm lợi ích
Tôi lại nghĩ, bắt đầu từ thời tống thì quyền lực của hoàng đế đã tập trung cao độ rồi. Không thể có chuyện có 1 ông nào đấy dám lật đổ hoàng đế đâu. Nhìn lại bắt đầu từ thời tống, có quyền thần nào dám lật đổ vua đâu.
 
Top