T mới đọc đc cái ghi chép ngắn này của ông Châu. Kính Mời các cao tăng chùa Bì Đì giúp diễn giải luận thêm phật pháp để cho tôi đây có thêm góc nhìn độc đáo của quý tăng ạ.
Phần 1
====================
Hè năm ngoái tôi có dịp nghỉ ngơi tĩnh dưỡng một tuần ở Huyền Không Sơn Thượng. Đây là ghi chép của tôi trong thời gian ở trong tu viện. Ghi chép lan man, không có nội dung gì đặc biệt, nhưng tôi muốn chia sẻ với nhiều người vì thời gian sống trong tu viện đã thay đổi tôi phần nào, có lẽ theo hướng tốt hơn.
Huyền Không Sơn Thượng là một thiền viện nằm trong địa bàn của huyện Hương Trà. Tu viện nằm sâu trong rừng, trên độ cao vừa phải. Tu viện lúc đầu là nơi Minh Đức Triều Tâm Ảnh chọn làm nơi lánh xa thế nhân, khi đó là đồi trọc hoang vu. Sau này, nhiều sư trẻ xin về theo, trong đó có sư Chơn Tín. Lúc đầu thầy Tâm Ảnh không nhận họ, nhưng họ quyết ở lại giúp thầy trồng cây, làm ruộng ... Sau hai mươi mấy năm, xung quanh thiền viện đã hình thành một cánh rừng nguyên sinh. Ở trên cao là thông, phía dưới là keo, xung quang chùa và thiền viện có nhiều tre, trúc, bàng, lộc vừng và nhiều cây cảnh.
Anh Bi, anh Linh và anh Thuyết đưa tôi đến thiền viện chiều thứ hai 6/8/2018. Trên đường đi, anh Thuyết dừng xe ở phố buôn bán để anh Bi xuống mua cho tôi mấy gói mì đề phòng khi đói. Anh Bi chỉ kém anh Thuyết hai tuổi nhưng luôn gọi anh Thuyết là thầy. Anh Bi vốn là hiệu trưởng trường chuyên cấp hai Nguyễn Tri Phương là người có nhiều quan hệ và biết tổ chức sắp xếp công việc. Mọi việc lớn nhỏ của cộng đồng nhỏ các anh toán ở Huế đều do anh Bi sắp xếp. Anh Thuyết vì là thầy của anh Bi, và cũng là người có học vị cao nhất nên nghiễm nhiên là thủ lĩnh của nhóm. Lúc mới gặp, tôi không thích anh Thuyết lắm, có lẽ vì mái tóc nhuộm đen nháy của anh. Tôi có cảm tình với anh Hiếu ốm nhách hơn. Chơi với nhau lâu, tôi yêu quý tất cả các anh. Các anh luôn mong tôi vào Huế để các anh đưa đi chơi, đi ăn, uống ca phe nói chuyện toán. Dần dần tôi cũng thích chia sẻ thời gian của mình với các anh.
Trước khi đi, tôi có để số điện thoại của anh Thuyết cho mẹ tôi để mẹ liên lạc khi có việc gấp vì có thể mạng di động không phủ đến khu vực của thiền viện. Không bất ngờ lắm khi mẹ tôi gọi ngay cho anh Thuyết để dặn dò và nhờ anh mua cho tôi mấy thứ thuốc mà do vội tôi không mang đi. Mẹ tôi là như thế, một nỗi lo nho nhỏ trong đầu có thể làm bà bồn chồn, và phải giải quyết triệt để nó thì mới có thể nghĩ đến việc khác. Đặc biệt khi nỗi lo đó liên quan đến con trai của bà.
Thầy Chơn Tín đợi chúng tôi ở Am Mây Tía. Thầy Chơn Tín dáng vóc phương phi, ít cười, nhưng vẻ mặt toát ra sự khảng khái, chân thực. Thầy phổ biến cho tôi một số nội quy cho cuộc sống trong thiền viện. Ở đây, các sư tụng kinh hai lần mỗi ngày, một lần lúc 4:30 sáng khi vừa ngủ dạy, một lần lúc 6:00 chiều, xong rồi mọi người về am cốc của mình nghỉ ngơi. Chùa nấu cho ăn vào buổi sáng và buổi trưa. Ở đây các sư theo Phật giáo nam tông, có thủ tục đi xếp bát khất thực. Khi đi khất thực người ta cho ăn gì phải ăn nấy, cho nên các sư ăn mặn, không ăn chay. Thầy Chơn Tín đã để sẵn trong cốc nhiều mì gói, bánh quy, sữa đề phòng đói bụng vào buổi tối. Sau đó thầy phăng phăng xách cái va li nhỏ và đưa tôi về cốc.
Cốc là một ngôi nhà nhỏ, nằm trên vách núi. Các sư trẻ ở trong khu nhà chung. Các sư tu tập lâu ngày ở trong cốc như vậy. Cốc tôi ở gọi là Cốc Sư Thiện. Sư Chơn Hạnh, em trai của sư Chơn Tín nói với tôi rằng sư Thiện đã vào miền nam. Để đi lên Cốc Sư Thiện phải dò theo những bậc đá gập ghềnh mà các sư đẽo vào núi. Leo chừng ba mươi bước thì đến một tấm đá nhẵn thín, bắc ngang qua ao cá nhỏ uốn vòng quanh cốc. Ao nhỏ nhưng nước rất trong. Trong đó có ếch, nhái, rắn nước và những con cá nhỏ sống. Xung quanh ao, sư Thiện trồng nhiều cây dương xỉ, một loài cây tôi mà tôi ưa thích. Ở bên trái am còn có một bụi trúc vàng, thân trúc vàng óng, khoẻ mạnh. Chếch góc ao, có cả một cây chuối rất đẹp. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cả buồng chuối và hoa chuối. Thông thường ở các loài cây khác, hoa rụng thì mới kết quả. Cây chuối của sư Thiện mang một buồng chuối đã chín lắm, màu đã chuyển sang đen xì, vậy mà ở cuống của nó vẫn còn một bông hoa chuối rất tươi.
Cốc có hai phòng. Phòng trong là phòng ngủ, có cả điều hoà nhiệt độ. Phòng ngoài có một cái bàn đá màu trắng để thưởng trà và đọc sách. Ở góc phòng có một cái bàn nhỏ nơi thầy Chơn Tín đã xếp đủ sữa, nước, mì gói, bánh quy cho tôi đủ dùng cả tháng. Sau khi chia tay anh Bi, anh Linh và anh Thuyết, tôi đóng cửa và suy nghĩ mình sẽ làm gì với thời gian năm ngày ở trong thiền viện. Vào lúc đó, tôi để ý thấy ba quả thị mà thầy Chơn Tín để lại cho tôi ở trên cái bàn đá. Cầm một quả thị lên ngửi thấy hương thật thơm. Tâm trí tôi bỗng trở nên thanh thản lạ lùng. Tôi tự bảo mình thay vì việc đặt ra cho mình một thời gian biểu chặt chẽ, hay là tôi cứ ngồi đây ngắm ba quả thị, dõi theo quá trình biến đổi của nó. Bây giờ còn đang tươi tắn, thơm hương như thế, năm ngày nữa thì sẽ thế nào.
Chiều hôm đó, tôi đi bộ dọc theo con đường mòn vào sâu trong rừng trước giờ tụng kinh. Đi đường bị muỗi cắn khắp người mới sực nhớ ra rằng mình vào rừng ở mà quên không máng thuốc sức chỗng muỗi. Đường khó đi, thỉnh thoảng lại có cây đổ ngang đường. Ven đường có các cốc còn đang xây dở. Không quá lâu, con đường mòn đẫn đến một cái cốc khá khang trang, trồng nhiều hoa theo hàng lối. Ngại làm phiền, tôi không dám đi xuyên qua cái cốc đó để xem đường mòn còn tiếp tục hay không.
Trở lại sân chùa trước giờ rung chuông, tôi thấy một Tỳ kheo tươi tắn, đi cùng hai con chó đi đến chào. Sư tự giới thiệu mình là Chơn Hạnh, em trai của sư Chơn Tín. Chơn Hạnh hỏi tôi có thiếu gì trên cốc không. Tôi nói không hiểu sao trên đó không có màn, mà có nhiều muỗi quá. Chơn Hạnh nói muỗi rừng ra nhiều tầm 5-6 giờ, trước giờ tụng kinh. Sau giờ đó chúng về rừng, đêm không cắn người. Tôi nghe lạ quá vì muỗi ở Hà nội cắn người bất kể giờ giấc. Nhưng quả thật đêm đó tôi ngủ ngon, không bị muỗi cắn. Ngồi đọc sách ở trong cốc chỉ bị muỗi đến quấy vào đầu giờ sáng và cuối giờ chiều.
Chuông trên tháp gióng độ 10 phút thì một tỳ kheo bắt đầu thỉnh chuông trong chánh điện. Các tỳ kheo khác lục tục về chỗ mình ngồi. Tôi được xếp ngồi ở góc bên phải cùng các novice. Các sư đọc kinh pali chừng 15 phút rồi chuyển sang ngồi thiền. Tiếng tụng kinh pali của các tỳ kheo vảng vào đầu tôi như ngọn gió Tây nóng và khô thổi sạch đi những bụi bặm, ẩm ướt lưu cữu lâu ngày trên bề mặt của tâm hồn. Đèn phụt tắt khi các tỳ kheo đưng tụng kinh để thiền. Tôi cố bất động thân và tâm, tập trung theo dõi nhịp thở nhưng vì gối tê, lưng mỏi, tâm phiêu diêu, tôi cảm thấy mệt mỏi muốn đứng dạy chi sau 10 phút. Vì không muốn làm xáo trộn sự tập trung của các tỳ kheo, tôi cố chịu đau ngồi đến cùng. Tôi nhận ra rằng học thiền cơ bản là phải kiên nhẫn, chứ không cần nỗ lực gò ép mình quá đáng. Đến cuối tuần, tôi có thể ngồi được lâu hơn, không còn cảm giác đau mỏi như hôm đầu. Tâm vẫn khởi lên những suy nghĩ này nọ, nhưng nó cũng mau quay lại với nhịp thở hơn.
Buổi tụng kinh và thiền ở chánh thất kết thúc sau 7 giờ tối. Lúc đó ngoài trời đã tối đen. Lúc đấy tôi mới nhớ tới điều anh Bi nói lúc chia tay: đáng ra phải mang cho Châu cái đèn pin. Không đợt tôi hỏi, thầy Chơn Tín vào Am mây tía lấy cho tôi mượn một cái đèn pin. Nhờ vào nó tôi mới dò dẫm đi về cốc của mình.
Đêm ở trong rừng không hề yên tĩnh như ta nghĩ. Chỉ về đêm ta mới thấy rừng là nơi trú ngụ của trăm ngàn sinh linh. Ồn ào nhất là tiếng ễnh uông. Nó kêu như tiếng thanh tre gõ lên một dãy ống tre, từng đợt cách nhau chừng nửa phút. Bắt nhịp là một tiếng chim, hơi thảng thốt, nhưng vì rất đều đặn, nên không gây ra cảm giác bi ai. Con ễnh uông và con chim nhỏ hoà tấu với nhau như thế cho đến lúc toàn bộ dàn nhạc rừng oà lên cùng một lúc để rồi lại lặng đi ngay. Trong đêm rừng tối đen, ta chỉ còn thính giác để tiếp nhận các tín hiệu của rừng. Tâm hồn ta lắng xuống trong cảm giác dễ chịu đã được rừng tiếp nhận, dường như đã trở thành một phần hữu cơ của rừng.
====================
Phần 1
====================
Hè năm ngoái tôi có dịp nghỉ ngơi tĩnh dưỡng một tuần ở Huyền Không Sơn Thượng. Đây là ghi chép của tôi trong thời gian ở trong tu viện. Ghi chép lan man, không có nội dung gì đặc biệt, nhưng tôi muốn chia sẻ với nhiều người vì thời gian sống trong tu viện đã thay đổi tôi phần nào, có lẽ theo hướng tốt hơn.
Huyền Không Sơn Thượng là một thiền viện nằm trong địa bàn của huyện Hương Trà. Tu viện nằm sâu trong rừng, trên độ cao vừa phải. Tu viện lúc đầu là nơi Minh Đức Triều Tâm Ảnh chọn làm nơi lánh xa thế nhân, khi đó là đồi trọc hoang vu. Sau này, nhiều sư trẻ xin về theo, trong đó có sư Chơn Tín. Lúc đầu thầy Tâm Ảnh không nhận họ, nhưng họ quyết ở lại giúp thầy trồng cây, làm ruộng ... Sau hai mươi mấy năm, xung quanh thiền viện đã hình thành một cánh rừng nguyên sinh. Ở trên cao là thông, phía dưới là keo, xung quang chùa và thiền viện có nhiều tre, trúc, bàng, lộc vừng và nhiều cây cảnh.
Anh Bi, anh Linh và anh Thuyết đưa tôi đến thiền viện chiều thứ hai 6/8/2018. Trên đường đi, anh Thuyết dừng xe ở phố buôn bán để anh Bi xuống mua cho tôi mấy gói mì đề phòng khi đói. Anh Bi chỉ kém anh Thuyết hai tuổi nhưng luôn gọi anh Thuyết là thầy. Anh Bi vốn là hiệu trưởng trường chuyên cấp hai Nguyễn Tri Phương là người có nhiều quan hệ và biết tổ chức sắp xếp công việc. Mọi việc lớn nhỏ của cộng đồng nhỏ các anh toán ở Huế đều do anh Bi sắp xếp. Anh Thuyết vì là thầy của anh Bi, và cũng là người có học vị cao nhất nên nghiễm nhiên là thủ lĩnh của nhóm. Lúc mới gặp, tôi không thích anh Thuyết lắm, có lẽ vì mái tóc nhuộm đen nháy của anh. Tôi có cảm tình với anh Hiếu ốm nhách hơn. Chơi với nhau lâu, tôi yêu quý tất cả các anh. Các anh luôn mong tôi vào Huế để các anh đưa đi chơi, đi ăn, uống ca phe nói chuyện toán. Dần dần tôi cũng thích chia sẻ thời gian của mình với các anh.
Trước khi đi, tôi có để số điện thoại của anh Thuyết cho mẹ tôi để mẹ liên lạc khi có việc gấp vì có thể mạng di động không phủ đến khu vực của thiền viện. Không bất ngờ lắm khi mẹ tôi gọi ngay cho anh Thuyết để dặn dò và nhờ anh mua cho tôi mấy thứ thuốc mà do vội tôi không mang đi. Mẹ tôi là như thế, một nỗi lo nho nhỏ trong đầu có thể làm bà bồn chồn, và phải giải quyết triệt để nó thì mới có thể nghĩ đến việc khác. Đặc biệt khi nỗi lo đó liên quan đến con trai của bà.
Thầy Chơn Tín đợi chúng tôi ở Am Mây Tía. Thầy Chơn Tín dáng vóc phương phi, ít cười, nhưng vẻ mặt toát ra sự khảng khái, chân thực. Thầy phổ biến cho tôi một số nội quy cho cuộc sống trong thiền viện. Ở đây, các sư tụng kinh hai lần mỗi ngày, một lần lúc 4:30 sáng khi vừa ngủ dạy, một lần lúc 6:00 chiều, xong rồi mọi người về am cốc của mình nghỉ ngơi. Chùa nấu cho ăn vào buổi sáng và buổi trưa. Ở đây các sư theo Phật giáo nam tông, có thủ tục đi xếp bát khất thực. Khi đi khất thực người ta cho ăn gì phải ăn nấy, cho nên các sư ăn mặn, không ăn chay. Thầy Chơn Tín đã để sẵn trong cốc nhiều mì gói, bánh quy, sữa đề phòng đói bụng vào buổi tối. Sau đó thầy phăng phăng xách cái va li nhỏ và đưa tôi về cốc.
Cốc là một ngôi nhà nhỏ, nằm trên vách núi. Các sư trẻ ở trong khu nhà chung. Các sư tu tập lâu ngày ở trong cốc như vậy. Cốc tôi ở gọi là Cốc Sư Thiện. Sư Chơn Hạnh, em trai của sư Chơn Tín nói với tôi rằng sư Thiện đã vào miền nam. Để đi lên Cốc Sư Thiện phải dò theo những bậc đá gập ghềnh mà các sư đẽo vào núi. Leo chừng ba mươi bước thì đến một tấm đá nhẵn thín, bắc ngang qua ao cá nhỏ uốn vòng quanh cốc. Ao nhỏ nhưng nước rất trong. Trong đó có ếch, nhái, rắn nước và những con cá nhỏ sống. Xung quanh ao, sư Thiện trồng nhiều cây dương xỉ, một loài cây tôi mà tôi ưa thích. Ở bên trái am còn có một bụi trúc vàng, thân trúc vàng óng, khoẻ mạnh. Chếch góc ao, có cả một cây chuối rất đẹp. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cả buồng chuối và hoa chuối. Thông thường ở các loài cây khác, hoa rụng thì mới kết quả. Cây chuối của sư Thiện mang một buồng chuối đã chín lắm, màu đã chuyển sang đen xì, vậy mà ở cuống của nó vẫn còn một bông hoa chuối rất tươi.
Cốc có hai phòng. Phòng trong là phòng ngủ, có cả điều hoà nhiệt độ. Phòng ngoài có một cái bàn đá màu trắng để thưởng trà và đọc sách. Ở góc phòng có một cái bàn nhỏ nơi thầy Chơn Tín đã xếp đủ sữa, nước, mì gói, bánh quy cho tôi đủ dùng cả tháng. Sau khi chia tay anh Bi, anh Linh và anh Thuyết, tôi đóng cửa và suy nghĩ mình sẽ làm gì với thời gian năm ngày ở trong thiền viện. Vào lúc đó, tôi để ý thấy ba quả thị mà thầy Chơn Tín để lại cho tôi ở trên cái bàn đá. Cầm một quả thị lên ngửi thấy hương thật thơm. Tâm trí tôi bỗng trở nên thanh thản lạ lùng. Tôi tự bảo mình thay vì việc đặt ra cho mình một thời gian biểu chặt chẽ, hay là tôi cứ ngồi đây ngắm ba quả thị, dõi theo quá trình biến đổi của nó. Bây giờ còn đang tươi tắn, thơm hương như thế, năm ngày nữa thì sẽ thế nào.
Chiều hôm đó, tôi đi bộ dọc theo con đường mòn vào sâu trong rừng trước giờ tụng kinh. Đi đường bị muỗi cắn khắp người mới sực nhớ ra rằng mình vào rừng ở mà quên không máng thuốc sức chỗng muỗi. Đường khó đi, thỉnh thoảng lại có cây đổ ngang đường. Ven đường có các cốc còn đang xây dở. Không quá lâu, con đường mòn đẫn đến một cái cốc khá khang trang, trồng nhiều hoa theo hàng lối. Ngại làm phiền, tôi không dám đi xuyên qua cái cốc đó để xem đường mòn còn tiếp tục hay không.
Trở lại sân chùa trước giờ rung chuông, tôi thấy một Tỳ kheo tươi tắn, đi cùng hai con chó đi đến chào. Sư tự giới thiệu mình là Chơn Hạnh, em trai của sư Chơn Tín. Chơn Hạnh hỏi tôi có thiếu gì trên cốc không. Tôi nói không hiểu sao trên đó không có màn, mà có nhiều muỗi quá. Chơn Hạnh nói muỗi rừng ra nhiều tầm 5-6 giờ, trước giờ tụng kinh. Sau giờ đó chúng về rừng, đêm không cắn người. Tôi nghe lạ quá vì muỗi ở Hà nội cắn người bất kể giờ giấc. Nhưng quả thật đêm đó tôi ngủ ngon, không bị muỗi cắn. Ngồi đọc sách ở trong cốc chỉ bị muỗi đến quấy vào đầu giờ sáng và cuối giờ chiều.
Chuông trên tháp gióng độ 10 phút thì một tỳ kheo bắt đầu thỉnh chuông trong chánh điện. Các tỳ kheo khác lục tục về chỗ mình ngồi. Tôi được xếp ngồi ở góc bên phải cùng các novice. Các sư đọc kinh pali chừng 15 phút rồi chuyển sang ngồi thiền. Tiếng tụng kinh pali của các tỳ kheo vảng vào đầu tôi như ngọn gió Tây nóng và khô thổi sạch đi những bụi bặm, ẩm ướt lưu cữu lâu ngày trên bề mặt của tâm hồn. Đèn phụt tắt khi các tỳ kheo đưng tụng kinh để thiền. Tôi cố bất động thân và tâm, tập trung theo dõi nhịp thở nhưng vì gối tê, lưng mỏi, tâm phiêu diêu, tôi cảm thấy mệt mỏi muốn đứng dạy chi sau 10 phút. Vì không muốn làm xáo trộn sự tập trung của các tỳ kheo, tôi cố chịu đau ngồi đến cùng. Tôi nhận ra rằng học thiền cơ bản là phải kiên nhẫn, chứ không cần nỗ lực gò ép mình quá đáng. Đến cuối tuần, tôi có thể ngồi được lâu hơn, không còn cảm giác đau mỏi như hôm đầu. Tâm vẫn khởi lên những suy nghĩ này nọ, nhưng nó cũng mau quay lại với nhịp thở hơn.
Buổi tụng kinh và thiền ở chánh thất kết thúc sau 7 giờ tối. Lúc đó ngoài trời đã tối đen. Lúc đấy tôi mới nhớ tới điều anh Bi nói lúc chia tay: đáng ra phải mang cho Châu cái đèn pin. Không đợt tôi hỏi, thầy Chơn Tín vào Am mây tía lấy cho tôi mượn một cái đèn pin. Nhờ vào nó tôi mới dò dẫm đi về cốc của mình.
Đêm ở trong rừng không hề yên tĩnh như ta nghĩ. Chỉ về đêm ta mới thấy rừng là nơi trú ngụ của trăm ngàn sinh linh. Ồn ào nhất là tiếng ễnh uông. Nó kêu như tiếng thanh tre gõ lên một dãy ống tre, từng đợt cách nhau chừng nửa phút. Bắt nhịp là một tiếng chim, hơi thảng thốt, nhưng vì rất đều đặn, nên không gây ra cảm giác bi ai. Con ễnh uông và con chim nhỏ hoà tấu với nhau như thế cho đến lúc toàn bộ dàn nhạc rừng oà lên cùng một lúc để rồi lại lặng đi ngay. Trong đêm rừng tối đen, ta chỉ còn thính giác để tiếp nhận các tín hiệu của rừng. Tâm hồn ta lắng xuống trong cảm giác dễ chịu đã được rừng tiếp nhận, dường như đã trở thành một phần hữu cơ của rừng.
====================