Trước hết, Ngài cho biết là có hai lối sống cực đoan: một là
sống trong khoái lạc và một là
lối sống tự hành xác. Ngài bác bỏ cả hai cách sống đó, vì chúng đều không tốt cho con người. Có một lối ở giữa tránh được cả hai cực đoan đó là cái Trung Đạo mà Ngài chuẩn bị rao giảng.
“
Chỉ khi nào cái Ta trong các ngài được chế ngự để thoát khỏi nổi dục vọng, thì các ngài mới hết ham muốn dục lạc phàm tục. Và này, sự đáp ứng những nhu cầu thiên nhiên sẽ không làm ai ô uế cả. Hãy ăn uống đầy đủ cho những gì cơ thể các ngài cần."
Ngài tiếp tục giảng thêm về Đạo pháp của ngài chính là (1)
không quan tâm đến Thượng đế hay linh hồn, không quan tâm đến đời sống sau khi chết, không quan tâm đến các nghi thức và việc cúng tế. Trọng tâm của Đạo ngài là con người, và mối tương quan giữa con người với con người trong kiếp sống hiện tại trên thế gian. (2) tìm ra cách để trừ bỏ được sự khổ đau cho thế gian là mục đích độc nhất của Đạo ngài.
Ngài giảng về cách hành đạo là nếu mọi người đều theo đuổi
Giới đạo, Chính đạo và
Hạnh đạo thì mọi phiền não sẽ chấm dứt.
“Giới đạo dậy rằng ai ước muốn trở thành một người tốt cũng phải nhận mấy nguyên tắc sống căn bản làm nguyên tắc sống của mình.
– Không được làm bị thương hay sát hại;
– Không được trộm cắp hay gian lận của cải của người khác;
– Không được nói dối;
– Không được chìm đắm trong ham muốn;
– Không được lạm dụng các thức uống gây nghiện.
“Ai cũng phải nhờ vào các nguyên tắc này để kiểm soát mọi hành vi của mình. Và theo tôi thì những nguyên tắc này phải trở thành tiêu chuẩn sống của mọi người.”
“Khắp mọi nơi đều có những người sa ngã. Nhưng có hai loại sa ngã. Một là loại có
tiêu chuẩn sống, và một không có. Người không có tiêu chuẩn sống là người không biết rằng mình sa ngã. Và kết quả là hắn ta sẽ luôn luôn vẫn là kẻ sa ngã. Còn người có chuẩn sống là người sẽ cố gắng đứng dậy sau mỗi lần sa ngã. Tại sao? Vì anh ta biết rằng mình đã sa ngã. Đấy là sự khác biệt của có hay không có tiêu chuẩn sống trong việc tu tỉnh đời mình.
Vấn đề không phải là sự sa ngã, mà là sự thiếu vắng một tiêu chuẩn sống.”
Chính đạo gồm có tám điều gồm:
Chính kiến, Chính Tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mệnh, Chính tinh tấn, Chính niệm và Chính định
(1) Chính kiến tức là điều thứ nhất và quan trọng nhất của Chính đạo.
Ngài nói “quý vị phải thấy rằng đời là một ngục tối, và con người là tù nhân trong cái ngục tối đó. Cái ngục này thật là tối. Tối đến nỗi các tù nhân khó có thể nhìn thấy gì. Tù nhân cũng không nhận thức được rằng mình đang ở trong tù.”
“Quả thật, người ta không những đã trở thành đui mù vì đã bị sống trong u minh tăm tối quá lâu, mà người ta còn không tin được rằng có thể có một sự vật lạ lùng gọi là ánh sáng bao giờ. Trí tuệ là công cụ độc nhất để qua nó ánh sáng có thể đến với con người. Nhưng mà
trí tuệ của các cư dân trong ngục tối này không đủ để có thể là dụng cụ hoàn bị cho mục đích đó được. Nó chỉ cho một tí ánh sáng vào thôi. Chỉ vừa đủ để chứng tỏ cho những ai có
tí chút thị giác nhận thức được rằng quả thật có cái gọi là u minh tăm tối đó. Nhưng chỉ hiểu biết sáng tối như thế thì quả là còn thô thiển.”
Và Chính kiến “Là sự giải trừ Vô minh. Nó chống lại Tà kiến. Và Vô minh có nghĩa là không hiểu được các chân lý cao quý, nghĩa là không hiểu được sự hiện hữu của Khổ và cách diệt Khổ. Chính kiến làm được điều đó”.
Tác dụng của chính kiến là:
– Chính kiến là bác bỏ sự tin tưởng vào hiệu năng của các nghi thức và việc cúng tế.
– Chính kiến là bác bỏ quyền lực thần thánh của kinh sách.
– Chính kiến là phải từ bỏ mê tín và dị đoan.
– Chính kiến là phải từ bỏ tất cả các học thuyết chỉ biết luận bàn tranh cãi mà không được căn cứ vào sự thật hay trải nghiệm thực tế.
– Chính kiến đòi hỏi tâm và trí phải cởi mở.
(2) Chính Tư duy dậy rằng những mục tiêu, nguyện vọng và tham vọng đó phải cao thượng và đáng khâm phục, chứ không được thấp hèn và vô giá trị”.
(3) Chính Ngữ. Chính ngữ dậy rằng:
– Chỉ được nói thật,
– Không nên bịa đặt,
– Không nên nói xấu người khác,
– Phải kiềm chế sự vu khống,
– Không nên buông những lời giận dữ và thóa mạ đến người khác,
– Nên nói tốt và nhã nhặn với mọi người,
– Không nên chìm đắm vào những chuyện gẫu vu vơ, ngu ngốc, mà chỉ nên nói những gì hợp lý và đúng vào vấn đề.
“Như tôi đã giải thích, ta tuân thủ vào Chính ngữ không vì sợ hãi hay để hưởng phúc.
Không nên quan tâm chút nào đến việc các đấng bên trên đánh giá thế nào về hành vi của mình, hay đến bất cứ một sự thua thiệt nào mà Chính ngữ có thể gây ra cho mình. Nguyên tắc là tuân thủ Chính ngữ
không phải do sợ phạm vào các giới cấm từ bên trên, hay vì để được lợi ích cá nhân; mà tất cả đều phải do tự tâm”.
(4) Chính nghiệp chỉ cho ta cách cư xử tốt. Nó dậy rằng mọi hành vi đều phải căn cứ vào
sự tôn trọng cảm xúc và quyền lợi của người khác. Nguyên tắc của Chính nghiệp là hướng hoạt động hài hòa nhất với các nguyên tắc sống căn bản. Mọi việc chúng ta làm sẽ hài hòa với Chính nghiệp khi chúng đồng thuận với các nguyên tắc này.”
(5) Chính mệnh “Và ai cũng phải mưu sinh. Nhưng có nhiều cách để lập nghiệp, tốt có, xấu có. Nghề nghiệp xấu là loại gây thương tổn và bất công cho người khác. Lối sống tốt là tìm việc làm nào
không gây thương tổn và bất công cho ai.”
(6) Chính tinh tấn là hướng hết nỗ lực của mình vào việc
diệt vô minh tăm tối, để đến được và mở được cái cửa dẫn ra khỏi cái ngục tối đau thương kia. Chính tinh tấn có bốn mục đích:
– Một là để ngăn ngừa các trạng thái tâm trí đi ngược với Chính đạo.
– Hai là để trấn áp các trạng thái tâm trí xấu đó nếu chúng đã dấy lên.
– Ba là tạo ra những trạng thái tâm trí có thể giúp ta đáp ứng những đòi hỏi của Chính đạo.
– Bốn là để thúc đẩy sự gia tăng và phát triển hơn nữa các trạng thái tâm trí tốt lành đó, nếu chúng đã hiện hữu.”
(7) Chính niệm đòi hỏi sự chú tâm và thận trọng. Nó là sự luôn cảnh giác của tâm trí. Một cách định nghĩa khác của Chính niệm là sự canh chừng và bảo vệ tâm trí trước những đam mê tà mị.”
(8) Chính định “Này chư vị khất sỹ, có năm cái gông cùm, hay chướng ngại vật, luôn cản đường những ai muốn đạt Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mệnh, Chính tinh tấn, Chính niệm.”