Đâu cho mấy tml đơn cử như thằng ngu
@Cặc ngựa đéo biết gì cũng gáy sủa :
Quy định tại Điều 3
Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008 như sau:
Điều 3. Đối tượng chịu thuế
Hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng, trừ các đối tượng quy định tại Điều 5 của Luật này.
Như vậy, đối tượng chịu thuế GTGT theo quy định pháp luật hiện hành là “hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam…”
Theo quy định tại Điều 2, Điều 3
Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007 thì:
Điều 2. Đối tượng nộp thuế
- Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật này phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật này phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam.
…
Điều 3. Thu nhập chịu thuế
Thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân gồm các loại thu nhập sau đây, trừ thu nhập được miễn thuế quy định tại Điều 4 của Luật này:
1. Thu nhập từ kinh doanh, bao gồm:
a) Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ;
…
Theo quy định trên, đối tượng nộp thuế TNCN là “cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ”.
Ngoài ra,
Nghị định 80/2016/NĐ-CP sửa đổi một số điều của
Nghị định 101/2014/NĐ-CP quy định “Phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt sử dụng trong giao dịch thanh toán bao gồm: Séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng và các phương tiện thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”. Theo quy định này, các phương thức thanh toán như bitcoin và các loại tiền ảo tương tự là phương tiện thanh toán không hợp pháp.
Tại Khoản 6 Điều 27
Nghị định 96/2014/NĐ-CP cũng quy định “Phạt tiền từ 150 triệu đồng đến 200 triệu đồng đối với hành vi phát hành, cung ứng, sử dụng các phương tiện thanh toán không hợp pháp.”
Việc phát hành, cung ứng và sử dụng các phương tiện thanh toán không hợp pháp như đồng tiền ảo Bitcoin là hành vi bị cấm, do vậy ông
@bln1991 sẽ không thành lập được doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề này theo quy định pháp luật Việt Nam.
Khung pháp lý về tiền kỹ thuật số (tiền ảo) cũng như hành vi mua bán tiền ảo qua mạng Internet đang được hoàn thiện, hiện nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào xác định tiền kỹ thuật số, tiền ảo là hàng hóa và mua bán tiền kỹ thuật số (tiền ảo) là kinh doanh hàng hóa được pháp luật cho phép và phải chịu thuế.
Do vậy, trong thời điểm quy định pháp luật chưa điều chỉnh với hình thức kinh doanh, phương tiện thanh toán mới này thì việc mua, bán tiền ảo qua mạng internet chưa phải là đối tượng chịu thuế TNCN, thuế GTGT.