• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt

Khi đọc những câu hỏi “Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt Nam?”. Hoặc “Người Việt Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khó đồng hóa như vây?(1), nhiều người nghĩ chắc là ý kiến của những anh chàng người Việt nặng đầu óc dân tộc chủ nghĩa. Nhưng thật bất ngờ, những câu hỏi này và tương tự như vậy hiện là những chủ đề nóng của các diễn đàn tranh luận trên mạng Internet của người Trung Hoa, bằng tiếng Trung chứ không phải của người Việt.


FZVUYCMG.jpg

Tượng Thừa tướng Nam Việt Lữ Gia ở Linh Tiên Đạo Quán, Hoài Đức, HN.

Họ đã chất vấn nhau, đại loại thế này: Hơn một nghìn năm, trước khi nhà Tống lên ngôi, Giao Châu là thuộc Trung Hoa, dù chị em họ Trưng có nổi dậy cũng chỉ mấy năm là dẹp yên. Thế mà vì sao từ đời Tống trở đi các triều đại Trung Hoa không thể thu phục nổi Việt Nam. Hơn nữa, dân tộc Việt Nam, người Kinh ấy, từ đâu mà ra, hình thành từ lúc nào? Người Hán chúng ta từ cổ xưa đã có sức đồng hóa cực mạnh. Số dân tộc đã bị Hán tộc đồng hóa không đếm xuể. Tại sao chừng ấy năm đô hộ vậy mà không đồng hóa nổi Việt Nam… Nếu An Nam là thuộc Trung Quốc từ thời đó, liệu bây giờ quần đảo Nam Sa (VN gọi là Trường Sa) có thành vấn đề không? Việt Nam có còn chiếm được nhiều đảo ở Nam Sa như bây giờ không?

Là người Việt Nam, chắc ai cũng muốn chính mình tìm câu trả lời cho những câu hỏi thú vị đó.

Chúng ta từng nghe nói rằng, từ xa xưa một dải giang sơn mênh mông từ Nam sông Dương Tử trở về Nam là nơi các tộc dân Việt sinh sống và phát triển nền văn minh lúa nước rực rỡ. Thế rồi ngày nay, hầu hết đều trở thành lãnh thổ và giang sơn của người Hán, dùng Hán ngữ và văn hóa Hán. Quá trình đó người ta quen gọi là Hán hóa. Vì vậy nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt, và quá trình Hán hóa Bách Việt, là một cách ôn cố tri tân hữu ích. Đáng tiếc là thời xa xưa đó lịch sử chủ yếu ghi chép lại bằng Hán ngữ cổ ở Trung Hoa, không dễ tiếp cận với đa số hiện nay. Vì lẽ đó người viết bài này cố gắng tóm tắt những gì mà sử sách cổ còn ghi lại, kết hợp với những tài liệu khoa học đã công bố của một số học giả uy tín trên thế giới, ngõ hầu cung cấp một vài thông tin hữu ích, nhiều chiều, kể cả còn đang tranh cãi.

1. Bách Việt là ai và ở đâu?

Vào thời thượng cổ, từ đời nhà Thương 商朝 (khoảng 1600-1046 TCN), trong văn tự thì chỉ có một chữ Việt 戉 (nghĩa là cái rìu), cũng là tên chung cho tộc người ở phía Nam không phải là người Trung Hoa, do tộc người này sử dụng rìu (Việt) làm công cụ.

Về sau, vào thời Xuân Thu Chiến quốc 春秋 戰國 (722-221 TCN) bắt đầu trong văn tự có hai chữ Việt là 越 và 粤, đều chỉ bộ tộc Việt, dùng như nhau (Sách cổ viết là 越粵互通-Việt Việt Hỗ Thông), ta hay gọi 越 là Việt bộ tẩu 走 (đi, chạy) và Việt 粤 là Việt bộ mễ 米-(lúa) (2).

Trong Hán ngữ cận, hiện đại, hai chữ Việt này (có thể từ sau đời Minh) thì dùng có phân biệt rõ ràng. Chữ Việt bộ tẩu 越 là ghi tên tộc Việt của nước Việt có lãnh thổ ở vùng Bắc Triết Giang, ngày nay là vùng Thượng Hải, Ninh Ba, Thiệu Hưng (Cối Kê 會稽 xưa). Một loại ca kịch cổ ở vùng này vẫn còn tên là Việt Kịch 越剧. Chữ Việt bộ tẩu này cũng là tên của tộc Nam Việt (Triệu Đà) Âu Việt và Lạc Việt (Việt Nam ngày nay), Mân Việt (Phúc Kiến), Điền Việt (Vân Nam, Quảng Tây)… Chữ Việt 粤 bộ mễ 米 ngày nay dùng ghi tên cư dân vùng Quảng Đông, Hồng Kong, Ma Cao… những cư dân này sử dụng ngôn ngữ gọi là tiếng Quảng Đông (Cantonese). (Ai đến Quảng Châu đều thấy biển xe ô tô đều bắt đầu bằng chữ 粤 là vì vậy).

Bởi vì xưa có đến hàng trăm tộc Việt, cho nên sử sách gọi chung là Bách Việt 百越 hoặc 百粤. Tên gọi Bách Việt xuất hiện trong văn sách lần đầu tiên trong bộ Lã thị Xuân Thu 吕氏春秋 của Lã Bất Vi 呂不韋 (291–235 TCN) thời nhà Tần.

Trong lịch sử Trung Hoa, toàn bộ vùng đất Giang Nam (tên gọi vùng Nam Sông Dương Tử), rộng bảy tám ngàn dặm từ Giao Chỉ đến Cối Kê, từ trước thời Tần Hán đều là nơi cư ngụ của các tộc Bách Việt.

Thời nhà Hạ gọi là Vu Việt 于越, đời Thương gọi là Man Việt 蛮越 hoặc Nam Việt 南越, đời Chu gọi là Dương Việt 扬越, Kinh Việt 荆越, từ thời Chiến quốc gọi là Bách Việt百越.

Sách Lộ Sử của La Bí (1131 - 1189) người đời Tống viết (3): Việt thường, Lạc Việt, Âu Việt, Âu ngai, Thả âu, Tây âu, Cung nhân, Mục thâm, Tồi phu, Cầm nhân, Thương ngô, Việt khu, Quế quốc, Tổn tử, Sản lí (Tây Song Bản Nạp), Hải quý, Cửu khuẩn, Kê dư, Bắc đái, Phó cú, Khu ngô (Cú ngô)…, gọi là Bách Việt.

-------------------
CHÚ DẪN

1为什么经历了一千多年的统治,中国始终不能同化越南?“Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt Nam?”. http://bbs.tianya.cn/post-no05-226522-1.shtml

越南人(京族)为何难以同化 “ Người Việt Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khó đồng hóa như vây?” http://lt.cjdby.net/thread-1440161-1-1.html

2 Có học giả Việt đương thời theo tự dạng vội suy đoán rằng viết như vậy có lẽ chỉ tộc người vác rìu đi (chạy) săn và tộc người trồng lúa trong ruộng. Chứng tỏ thời bấy giờ tộc Việt thuộc văn minh săn bắn và trồng trọt. Có lẽ không phải đơn giản như vậy. Khảo sát lịch sử văn tự thì thấy rằng Việt 越 và Việt粵 âm đọc giống nhau, “Sử ký” viết là 越, “Hán thư” viết là 粤. Âm đọc 粤 là từ âm đọc của chữ Vu 于, người cổ đọc 越 là于. Vu 于 viết theo lối chữ triện 篆 là 亏, hài thanh là chữ vũ 雨-mưa, viết lên trên thành 雩. Trong “Hán Thư” còn tồn nhiều chữ cổ, nên chữ Việt 越 đều cải viết thành雩, sau theo lối chữ lệ 隶, chữ khải 楷 mới viết thành ra 粤, tức biến hóa hình chữ vũ 雨 đặt trên chữ Vu亏.

3 “路史” 罗泌 (1131—1189) 宋朝 : 越裳, 雒越, 瓯越瓯皑, 且瓯, 西瓯, 供人, 目深, 摧夫, 禽人, 苍梧, 越区, 桂国, 损子, 产里(西双版纳), 海癸, 九菌, 稽余, 北带,仆句, 区吴(句吳), 是谓百越。
 
Sửa lần cuối:
tao bất lực vì độ ngu của vịt tộc, đau đớn vì tộc vịt đánh đấm ngu độn.
Bản đồ dân số thời Hán. Với dân số đông đảo + cách xa trung nguyên mà lũ vịt tộc 1000 năm trăm trận trăm bại
qvTDkZn.png
Thời đó dân cực ít, đẻ chết đẻ chết sớm...thì mày muốn gì hơn.
Hán thì kéo quân qua thì cũng bị tiêu chảy, sốt, mệt mỏi...khoảng cách xa thế thì một trận đánh đi 2, 3 năm khéo về thì con vợ nó lấy chồng mới.
 
Thời đó dân cực ít, đẻ chết đẻ chết sớm...thì mày muốn gì hơn.
Hán thì kéo quân qua thì cũng bị tiêu chảy, sốt, mệt mỏi...khoảng cách xa thế thì một trận đánh đi 2, 3 năm khéo về thì con vợ nó lấy chồng mới.
m đang muốn nói điều gì
 
m đang muốn nói điều gì
Dân cả 2 bên thời đó cực ít.
Muốn mở một trận chiến đâu phải mấy chục vạn như phim tàu.
Nên muốn chiếm và đồng hóa rất khó.
Với lại miền park văn hóa lũy tre làng rất mạnh, đến giờ phát cỳ vẫn còn mắc kẹt tư duy ở tk18 là mày hiểu rồi.
 
Dân cả 2 bên thời đó cực ít.
Muốn mở một trận chiến đâu phải mấy chục vạn như phim tàu.
Nên muốn chiếm và đồng hóa rất khó.
Với lại miền park văn hóa lũy tre làng rất mạnh, đến giờ phát cỳ vẫn còn mắc kẹt tư duy ở tk18 là mày hiểu rồi.
tàu k ít dân đâu m. Top 1 top 2 thế giới về dân số thời đó đấy
 

phận làm culi nô lệ giao chỉ được dùng tử cung của mình để nuôi dương 1 đứa bé đại hán thượng đẳng là 1 vinh dự
nên quỳ xuống cảm tạ long tinh
 
Người Việt có chữ con nòng nọc du nhập từ Ấn Độ qua, sau khi bị Hán xâm lược đã xoá chữ Nòng Nọc
 
Quá trình Hán hoá mạnh nhất có lẽ bắt đầu từ thế kỷ thứ 6. Đây là giai đoạn Nho học mọc lên như nấm, đồng thời cũng là giai đoạn Phật giáo Bắc truyền được đưa vào VN.

Giai đoạn từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 10, VN trải qua nhiều giai đoạn chịu ảnh hưởng của văn hóa TQ. Thêm nữa, dưới ảnh hưởng của các triều đại Bắc thuộc và các triều đình độc lập có khuôn mẫu hành chính, giáo dục và văn hóa dựa trên hệ thống chữ Hán, nhiều giá trị ngoại lai từ TQ đã được đưa vào đời sống tâm linh của người Việt. Quá trình dịch thuật các kinh điển Phật giáo từ tiếng Phạn sang chữ Hán và việc biên soạn theo tiêu chuẩn văn hóa TQ đã mở ra cánh cửa cho việc tiếp nhận giáo lý và hình thức của Phật giáo Bắc tông, vốn ảnh hưởng rất nặng lên văn hoá với lối sống người VN tận ngàn năm sau.

Phật giáo tại VN trải qua nhiều giai đoạn biến đổi, trong đó quá trình "Hán hoá" Phật giáo đóng vai trò then chốt trong việc định hình bản sắc tôn giáo - văn hóa của dân tộc. Một trong những biểu hiện quan trọng của quá trình này là sự chuyển hướng từ Phật giáo Nam truyền ban đầu sang Bắc truyền, thể hiện qua việc tiếp thu và vận dụng các tư tưởng, hình thức, nghi thức và tổ chức của truyền thống Phật giáo của TQ.
 
Quá trình Hán hoá mạnh nhất có lẽ bắt đầu từ thế kỷ thứ 6. Đây là giai đoạn Nho học mọc lên như nấm, đồng thời cũng là giai đoạn Phật giáo Bắc truyền được đưa vào VN.

Giai đoạn từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 10, VN trải qua nhiều giai đoạn chịu ảnh hưởng của văn hóa TQ. Thêm nữa, dưới ảnh hưởng của các triều đại Bắc thuộc và các triều đình độc lập có khuôn mẫu hành chính, giáo dục và văn hóa dựa trên hệ thống chữ Hán, nhiều giá trị ngoại lai từ TQ đã được đưa vào đời sống tâm linh của người Việt. Quá trình dịch thuật các kinh điển Phật giáo từ tiếng Phạn sang chữ Hán và việc biên soạn theo tiêu chuẩn văn hóa TQ đã mở ra cánh cửa cho việc tiếp nhận giáo lý và hình thức của Phật giáo Bắc tông, vốn ảnh hưởng rất nặng lên văn hoá với lối sống người VN tận ngàn năm sau.

Phật giáo tại VN trải qua nhiều giai đoạn biến đổi, trong đó quá trình "Hán hoá" Phật giáo đóng vai trò then chốt trong việc định hình bản sắc tôn giáo - văn hóa của dân tộc. Một trong những biểu hiện quan trọng của quá trình này là sự chuyển hướng từ Phật giáo Nam truyền ban đầu sang Bắc truyền, thể hiện qua việc tiếp thu và vận dụng các tư tưởng, hình thức, nghi thức và tổ chức của truyền thống Phật giáo của TQ.
Kinh Phật dịch từ Phạn qua Hán theo lối dịch word by word nếu nói theo ngôn ngữ bây giờ.
 
Lịch sử Phật giáo VN gắn liền với lịch sử dân tộc. Ông nào không đồng ý thì tui chịu nhưng nó nằm đầy rẫy trong sách vở lịch sử. Nói thêm một vài yếu tố ảnh hưởng lên sự Hán hoá Phật giáo VN:

---
1. Yếu tố chính trị - xã hội
Ảnh hưởng của chế độ phong kiến TQ:

Trong suốt quá trình lịch sử, việc VN thường xuyên bị ảnh hưởng hoặc trực tiếp chịu sự thống trị của TQ đã buộc nền văn hóa - trong đó có cả tôn giáo - phải chịu sự đồng hóa theo khuôn mẫu Hán. Các triều đại TQ khi xâm lược VN đã mang theo bộ máy hành chính, giáo dục và tôn giáo của riêng mình, trong đó Phật giáo Bắc tông đã được truyền bá cùng với các giá trị của văn hóa Hán.

Sự ưu tiên của triều đình đối với văn hóa Hán: (chính bản thân người VN cũng đã tiếp nhận những giá trị này)
Các triều đại như Lý, Trần đã thực hiện chính sách "đồng hóa" nhằm củng cố quyền lực và thể hiện sự văn minh (thước đo ở đây là TQ) của quốc gia. Trong chính sách đó, việc áp dụng các chuẩn mực Hán - từ văn hóa, ngôn ngữ đến tôn giáo - được xem là yếu tố cần thiết. Phật giáo Bắc tông với hệ thống kinh điển được dịch thuật, các bài giảng, nghi lễ và thực hành tu hành đã trở thành "công cụ" hữu hiệu để gắn kết tinh thần nhân dân với hệ thống chính quyền trung ương.

2. Yếu tố văn hóa - tôn giáo
Sự hấp dẫn của hệ thống tư tưởng Bắc tông:

Phật giáo Bắc tông, đặc biệt là Thiền, chú trọng vào sự giác ngộ qua kinh nghiệm trực tiếp thông qua thiền định và thực hành tinh tấn, phù hợp với tâm lý của giới trí thức và tầng lớp quan lại (chúng ta có Phật hoàng Trần Nhân Tông là ví dụ rõ rệt). Phương pháp tu tập này không những mang tính thực tiễn mà còn đáp ứng được nhu cầu tâm linh của một xã hội đang tìm kiếm sự ổn định và đồng nhất dưới áp lực của những biến động chính trị (nếu để ý thì Nhật Bản cũng từng có giai đoạn chiến tranh liên miên và Thiền phát triển cực kỳ rực rỡ, ăn sâu vào tâm trí người Nhật).

Quá trình dịch thuật và biên soạn kinh điển: (đã nêu ở trên)
Các công trình dịch kinh từ tiếng Phạn sang chữ Hán đã tạo ra một kho tàng tri thức phong phú, giúp các vị sư, học giả và quan chức nắm bắt được các triết lý, phương pháp tu hành của Phật giáo theo cách tiếp cận của người TQ. Điều này dẫn đến việc hình thành các trường phái, hệ thống học thuật và thực hành tu hành được "chuẩn hóa" theo khuôn mẫu Bắc tông.

Sự giao thoa với tư tưởng Nho - Đạo:
Trong bối cảnh xã hội phong kiến, nơi Nho giáo được coi là tôn chỉ đạo đức của quốc gia, Phật giáo Bắc tông với những yếu tố nhân văn, chú trọng vào giáo dục và tu dưỡng đạo đức đã có khả năng tương thích và bổ trợ cho hệ thống giá trị truyền thống. Điều này tạo ra sự hấp dẫn đối với giới trí thức và tầng lớp hành chính, góp phần thúc đẩy quá trình đồng hóa.

3. Yếu tố truyền thông và giao lưu văn hóa
Vai trò của các trung tâm Phật giáo lớn ở Trung Hoa:

Các trung tâm tôn giáo đã có ảnh hưởng lan tỏa không chỉ trong lãnh thổ TQ mà còn đến các quốc gia láng giềng, trong đó có VN. Sự giao lưu tôn giáo qua biên giới đã tạo điều kiện cho các trào lưu, tư tưởng của Phật giáo Bắc tông được truyền bá mạnh mẽ đến VN.

Tác động của thương mại và du học:
Các hoạt động thương mại, trao đổi văn hóa giữa VN với TQ đã góp phần đưa các hiện vật tôn giáo, bản dịch kinh điển, hình thức nghi lễ và kiến trúc chùa chiền Bắc tông đến gần hơn với đời sống tinh thần của người Việt. Qua đó, người dân dần quen thuộc và chấp nhận các giá trị, hình thức của Phật giáo Bắc tông.
---

Nói ngắn gọn thì sự Hán hoá của Phật giáo VN rất giống với sự Hồi hoá của các nước như Malaysia, Indonesia hay trong lịch sử là quốc gia Champa. Khởi nguồn của sự Hồi hoá nằm ở tầng lớp trí thức, quan lại, vua chúa. Khi các tầng lớp này ở VN tiếp nhận Phật giáo Bắc truyền thì hiển nhiên chúng ta có sự nở rộ của các giá trị Hán ở các tầng lớp thấp hơn.
 
Lịch sử Phật giáo VN gắn liền với lịch sử dân tộc. Ông nào không đồng ý thì tui chịu nhưng nó nằm đầy rẫy trong sách vở lịch sử. Nói thêm một vài yếu tố ảnh hưởng lên sự Hán hoá Phật giáo VN:

---
1. Yếu tố chính trị - xã hội
Ảnh hưởng của chế độ phong kiến TQ:

Trong suốt quá trình lịch sử, việc VN thường xuyên bị ảnh hưởng hoặc trực tiếp chịu sự thống trị của TQ đã buộc nền văn hóa - trong đó có cả tôn giáo - phải chịu sự đồng hóa theo khuôn mẫu Hán. Các triều đại TQ khi xâm lược VN đã mang theo bộ máy hành chính, giáo dục và tôn giáo của riêng mình, trong đó Phật giáo Bắc tông đã được truyền bá cùng với các giá trị của văn hóa Hán.

Sự ưu tiên của triều đình đối với văn hóa Hán: (chính bản thân người VN cũng đã tiếp nhận những giá trị này)
Các triều đại như Lý, Trần đã thực hiện chính sách "đồng hóa" nhằm củng cố quyền lực và thể hiện sự văn minh (thước đo ở đây là TQ) của quốc gia. Trong chính sách đó, việc áp dụng các chuẩn mực Hán - từ văn hóa, ngôn ngữ đến tôn giáo - được xem là yếu tố cần thiết. Phật giáo Bắc tông với hệ thống kinh điển được dịch thuật, các bài giảng, nghi lễ và thực hành tu hành đã trở thành "công cụ" hữu hiệu để gắn kết tinh thần nhân dân với hệ thống chính quyền trung ương.

2. Yếu tố văn hóa - tôn giáo
Sự hấp dẫn của hệ thống tư tưởng Bắc tông:

Phật giáo Bắc tông, đặc biệt là Thiền, chú trọng vào sự giác ngộ qua kinh nghiệm trực tiếp thông qua thiền định và thực hành tinh tấn, phù hợp với tâm lý của giới trí thức và tầng lớp quan lại (chúng ta có Phật hoàng Trần Nhân Tông là ví dụ rõ rệt). Phương pháp tu tập này không những mang tính thực tiễn mà còn đáp ứng được nhu cầu tâm linh của một xã hội đang tìm kiếm sự ổn định và đồng nhất dưới áp lực của những biến động chính trị (nếu để ý thì Nhật Bản cũng từng có giai đoạn chiến tranh liên miên và Thiền phát triển cực kỳ rực rỡ, ăn sâu vào tâm trí người Nhật).

Quá trình dịch thuật và biên soạn kinh điển: (đã nêu ở trên)
Các công trình dịch kinh từ tiếng Phạn sang chữ Hán đã tạo ra một kho tàng tri thức phong phú, giúp các vị sư, học giả và quan chức nắm bắt được các triết lý, phương pháp tu hành của Phật giáo theo cách tiếp cận của người TQ. Điều này dẫn đến việc hình thành các trường phái, hệ thống học thuật và thực hành tu hành được "chuẩn hóa" theo khuôn mẫu Bắc tông.

Sự giao thoa với tư tưởng Nho - Đạo:
Trong bối cảnh xã hội phong kiến, nơi Nho giáo được coi là tôn chỉ đạo đức của quốc gia, Phật giáo Bắc tông với những yếu tố nhân văn, chú trọng vào giáo dục và tu dưỡng đạo đức đã có khả năng tương thích và bổ trợ cho hệ thống giá trị truyền thống. Điều này tạo ra sự hấp dẫn đối với giới trí thức và tầng lớp hành chính, góp phần thúc đẩy quá trình đồng hóa.

3. Yếu tố truyền thông và giao lưu văn hóa
Vai trò của các trung tâm Phật giáo lớn ở Trung Hoa:

Các trung tâm tôn giáo đã có ảnh hưởng lan tỏa không chỉ trong lãnh thổ TQ mà còn đến các quốc gia láng giềng, trong đó có VN. Sự giao lưu tôn giáo qua biên giới đã tạo điều kiện cho các trào lưu, tư tưởng của Phật giáo Bắc tông được truyền bá mạnh mẽ đến VN.

Tác động của thương mại và du học:
Các hoạt động thương mại, trao đổi văn hóa giữa VN với TQ đã góp phần đưa các hiện vật tôn giáo, bản dịch kinh điển, hình thức nghi lễ và kiến trúc chùa chiền Bắc tông đến gần hơn với đời sống tinh thần của người Việt. Qua đó, người dân dần quen thuộc và chấp nhận các giá trị, hình thức của Phật giáo Bắc tông.
---

Nói ngắn gọn thì sự Hán hoá của Phật giáo VN rất giống với sự Hồi hoá của các nước như Malaysia, Indonesia hay trong lịch sử là quốc gia Champa. Khởi nguồn của sự Hồi hoá nằm ở tầng lớp trí thức, quan lại, vua chúa. Khi các tầng lớp này ở VN tiếp nhận Phật giáo Bắc truyền thì hiển nhiên chúng ta có sự nở rộ của các giá trị Hán ở các tầng lớp thấp hơn.
Nhưng tiếc là cái PG gắn với lịch sử dân tộc mình là nhánh Mahayana.
 
Nhưng tiếc là cái PG gắn với lịch sử dân tộc mình là nhánh Mahayana.
Đối mặt với nhu cầu xây dựng một hệ thống tư tưởng thống nhất phục vụ cho công tác cai trị, Phật giáo Nam truyền bị xem nhẹ. Tầng lớp cai trị cho rằng Phật giáo Nam truyền là "quá nhân từ".

Tôn giáo ở một khía cạnh nào đó vẫn là công cụ kiểm soát của nhà cầm quyền. Phật giáo Bắc truyền, ngược lại, với khả năng hệ thống hóa giáo lý, tổ chức các trung tâm tu học và kết hợp giá trị Nho - Đạo, đã trở thành công cụ lý tưởng cho triều đình phong kiến. Nó không chỉ giúp củng cố hệ thống giáo dục, mà còn được sử dụng để kiểm soát tinh thần quần chúng thông qua việc tổ chức nghi thức, lễ nghi quy chuẩn, qua đó củng cố quyền lực của nhà cầm quyền.
 
Tao chỉ muốn biết Hùng Vương là những ông nào hay chỉ là mấy lão sử gia bốc phét cho có quốc thống. Có 18 đời vua Hùng, những ông xa quá ko tính nhưng ông vua Hùng thứ 18 là ông gần nhất, theo lịch sử thì đánh nhau với Thục Phán - An Dương Vương rồi thua trận, sau đó Thục Phán thành lập nước Âu Lạc. Thục Phán là nhân vật có thật trong lịch sử mà đối thủ của ông ta - vua Hùng thứ 18 lại ko thấy ghi chép nào cụ thể. Tên thật là gì, năm sinh năm mất, có những thành tích hay đóng góp gì trong cuộc đời?
Tao đoán Hùng vương thực chất chỉ là 1 ông tộc trưởng bộ lạc cầm đầu 1 đám man di, mọi rợ, chứ đéo phải vua chúa gì. Tao phân tích đúng ko chúng mày?
@atlas05
 
Tao chỉ muốn biết Hùng Vương là những ông nào hay chỉ là mấy lão sử gia bốc phét cho có quốc thống. Có 18 đời vua Hùng, những ông xa quá ko tính nhưng ông vua Hùng thứ 18 là ông gần nhất, theo lịch sử thì đánh nhau với Thục Phán - An Dương Vương rồi thua trận, sau đó Thục Phán thành lập nước Âu Lạc. Thục Phán là nhân vật có thật trong lịch sử mà đối thủ của ông ta - vua Hùng thứ 18 lại ko thấy ghi chép nào cụ thể. Tên thật là gì, năm sinh năm mất, có những thành tích hay đóng góp gì trong cuộc đời?
Tao đoán Hùng vương thực chất chỉ là 1 ông tộc trưởng bộ lạc cầm đầu 1 đám man di, mọi rợ, chứ đéo phải vua chúa gì. Tao phân tích đúng ko chúng mày?
@atlas05
Hùng Vương chính là thủ lĩnh bộ lạc.
Nó giống như tù trưởng của người ê đê trước khi pháp đến
Nhà Nguyễn gọi những ông này là thủy vương hỏa vương.
Thì khi Trung Quốc sáp nhập vùng lãnh thổ Việt Nam đời Hán thì nó gọi tù trưởng các bộ lạc ở Việt Nam là Hùng vương
Ban đầu nó gọi là Lạc vương
Thế kỷ thứ 9 thứ 10 nó mới chuyển sang Hùng Vương.
Con số 18 là con số tưởng tượng.
Nó là 9×2 mà 9 là con số tận cùng cao nhất ngày xưa
Khái niệm 18 đời Hùng Vương hình như đến thời Trần mới xuất hiện thì phải.
 
Tao chỉ muốn biết Hùng Vương là những ông nào hay chỉ là mấy lão sử gia bốc phét cho có quốc thống. Có 18 đời vua Hùng, những ông xa quá ko tính nhưng ông vua Hùng thứ 18 là ông gần nhất, theo lịch sử thì đánh nhau với Thục Phán - An Dương Vương rồi thua trận, sau đó Thục Phán thành lập nước Âu Lạc. Thục Phán là nhân vật có thật trong lịch sử mà đối thủ của ông ta - vua Hùng thứ 18 lại ko thấy ghi chép nào cụ thể. Tên thật là gì, năm sinh năm mất, có những thành tích hay đóng góp gì trong cuộc đời?
Tao đoán Hùng vương thực chất chỉ là 1 ông tộc trưởng bộ lạc cầm đầu 1 đám man di, mọi rợ, chứ đéo phải vua chúa gì. Tao phân tích đúng ko chúng mày?
@atlas05
Tui nghiêng về ý kiến Hùng Vương chỉ đơn giản là các tộc trưởng hơn (mặc dầu nhiều tài liệu như Đại Việt sử ký toàn thư vẫn cho các ông này là vua). Ở thời đấy, hệ thống chính trị VN còn khá mơ hồ, thiếu chặt chẽ thì làm sao mà mình có một ông "vua" đường hoàng được?!

Mặt khác, tui đoán là mấy nhà "phịa" sử VN vì muốn lịch sử mình vẻ vang, sánh ngang với TQ nên đã phong tước vị cho Hùng Vương là 1 ông vua của một triều đại gì đó rất rực rỡ. Nếu quả thực như vậy thì phải có bằng chứng khảo cổ, đằng này thì mình lại chả có gì. Chả nhẽ 18 đời Hùng Vương lại không có di chỉ gì để lại? An Dương Vương còn có thành Cổ Loa cơ mà.
 
Top