• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Đạo lý Tất cả các trường phái triết học/ hệ tư tưởng tiêu biểu trên thế giới

Triết học và Trí tuệ (Philosophy and Wisdom)

I. Triết học là gì?

1) Khái quát :


Từ "triết học" (philosophy) theo nghĩa đen là "tình yêu" (philo trong tiếng Hy Lạp) của "hiền triết" (sophia).
Vì vậy, một triết gia là người yêu thích triết học.

Điều này, tất nhiên, để lại cho chúng ta 2 câu hỏi quan trọng:

1) Triết học là gì?
2) Và yêu thích triết học nghĩa là gì?

Ý tưởng về triết học bắt nguồn từ Hy Lạp cổ đại. Người ta nói rằng nhà triết học Pythagoras vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên là người đầu tiên tự gọi mình là một triết gia - một philosophos hoặc "người yêu thích triết học". Bằng cách tự gọi mình như vậy, ông không tuyên bố mình là người khôn ngoan. Thay vào đó, ông chỉ đơn giản nói rằng ông là người coi trọng hoặc yêu quý triết học.

Sau đó, nhà triết học Plato, sống vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, đã khám phá sâu hơn những ý tưởng này. Trong một văn bản gọi là Symposium, Plato tuyên bố rằng một triết gia là người "nằm giữa người khôn ngoan và kẻ ngu dốt". Nói cách khác, một triết gia quan tâm đến triết học nhưng cũng biết rằng họ không biết (chúng ta sẽ thấy ngày mai Plato đã bị ảnh hưởng bởi Socrates, thầy của ông như thế nào).

Một cách chính xác, thuật ngữ "philosophy" có nghĩa là "tình yêu với sự khôn ngoan" (love of wisdom).

Theo nghĩa rộng, triết học là một hoạt động mà con người thực hiện khi họ tìm cách hiểu các chân lý cơ bản về chính mình, thế giới mà họ đang sống, và mối quan hệ của họ với thế giới và với những người khác.

2) Tư duy khôn ngoan, sống khôn ngoan

Các triết gia mà chúng ta sẽ khám phá trong những ngày tới có những cách tiếp cận khác nhau đối với câu hỏi triết học là gì và làm thế nào để chúng ta có thể trở nên khôn ngoan.

Một số triết gia thực tế hơn, tập trung nhiều hơn vào những gì chúng ta làm.

Những người khác mang tính lý thuyết hơn và vật lộn với những câu hỏi về những gì chúng ta biết.

Trong khóa học này, chúng ta sẽ khám phá cả hai loại câu hỏi. Chúng ta sẽ xem xét làm thế nào chúng ta có thể tư duy khôn ngoan hơn và làm thế nào chúng ta có thể sống khôn ngoan hơn.

Ở khía cạnh học thuật, triết học cũng tương tự như vậy. Những người nghiên cứu triết học thường xuyên đặt ra, trả lời và tranh luận cho các câu trả lời về những câu hỏi cơ bản nhất của cuộc sống. Để làm cho sự theo đuổi này trở nên có hệ thống hơn, triết học học thuật thường được chia thành các lĩnh vực nghiên cứu chính.

II. Các lĩnh vực nghiên cứu chính.

1)Siêu hình học

Ở cốt lõi, nghiên cứu siêu hình học là nghiên cứu về bản chất của thực tại, những gì tồn tại trong thế giới, bản chất của chúng, và cách chúng được sắp xếp. Trong siêu hình học, các triết gia đặt ra các câu hỏi như:

  • Có Thượng đế hay không?
  • Sự thật là gì?
  • Con người là gì? Điều gì làm cho một người vẫn là họ qua thời gian?
  • Thế giới chỉ bao gồm vật chất hay không?
  • Con người có tâm trí không? Nếu có, tâm trí liên quan đến cơ thể như thế nào?
  • Con người có ý chí tự do không?
  • Điều gì làm cho một sự kiện gây ra một sự kiện khác?

2) Nhận thức luận

Nhận thức luận là ngành nghiên cứu về tri thức. Nó chủ yếu quan tâm đến việc chúng ta có thể biết gì về thế giới và làm thế nào để biết điều đó. Những câu hỏi thường gặp trong nhận thức luận bao gồm:

  • Tri thức là gì?
  • Chúng ta có biết điều gì không?
  • Làm thế nào chúng ta biết những gì mình biết?
  • Chúng ta có thể biện minh khi khẳng định biết một số điều hay không?

3) Đạo đức học

Nghiên cứu đạo đức thường liên quan đến những gì chúng ta nên làm và những gì là tốt nhất để làm. Khi đối mặt với những vấn đề này, các câu hỏi lớn hơn về điều gì là tốt và đúng sẽ nảy sinh. Các nhà đạo đức học cố gắng trả lời những câu hỏi như:

  • Điều gì là tốt? Điều gì làm cho hành động hay con người trở nên tốt?
  • Điều gì là đúng? Điều gì làm cho một hành động đúng đắn?
  • Đạo đức là khách quan hay chủ quan?
  • Tôi nên đối xử với người khác như thế nào?

4) Logic học

Một khía cạnh quan trọng khác của triết học là các lập luận hoặc lý do được đưa ra cho các câu trả lời đối với những câu hỏi này. Để làm điều đó, các triết gia sử dụng logic để nghiên cứu bản chất và cấu trúc của lập luận. Các nhà logic học đặt ra các câu hỏi như:

  • Điều gì tạo nên lập luận "tốt" hoặc "xấu"?
  • Làm thế nào để chúng ta xác định xem một lập luận cụ thể là tốt hay xấu?

III. Lịch sử triết học


Việc nghiên cứu triết học không chỉ liên quan đến việc hình thành câu trả lời của riêng mình mà còn tìm hiểu cách những người khác trong quá khứ đã trả lời các câu hỏi tương tự. Do đó, một phần quan trọng của triết học là lịch sử của nó, lịch sử của các câu trả lời và lập luận về những câu hỏi này.

Khi nghiên cứu lịch sử triết học, chúng ta khám phá các ý tưởng của những nhân vật nổi tiếng như:


  • Plato
  • Aristotle
  • Aquinas
  • Descartes
  • Locke
  • Hume
  • Kant
  • Nietzsche
  • Marx
  • Mill
  • Wittgenstein
  • Sartre

IV. Các lĩnh vực triết học liên ngành

Điều thường thúc đẩy nghiên cứu triết học không chỉ là các câu trả lời hay lập luận, mà còn là việc xem liệu lập luận có tốt và câu trả lời có đúng không. Ngoài ra, nhiều câu hỏi và vấn đề trong các lĩnh vực triết học khác nhau thường giao nhau và thậm chí hội tụ. Vì vậy, các câu hỏi triết học có thể xuất hiện trong hầu hết mọi ngành học.

Đây là lý do tại sao triết học còn bao gồm các lĩnh vực như:

  • Triết học luật
  • Triết học nữ quyền
  • Triết học tôn giáo
  • Triết học khoa học
  • Triết học tâm trí
  • Triết học văn học
  • Triết học chính trị
  • Triết học nghệ thuật
  • Triết học lịch sử
  • Triết học ngôn ngữ


V. Tóm lại :

Triết học là một cách suy nghĩ về những chủ đề nhất định như đạo đức, tư duy, sự tồn tại, thời gian, ý nghĩa và giá trị. “Cách suy nghĩ” này bao gồm 4 yếu tố: phản ứng, phản chiếu, lý trí và đánh giá lại. Mục đích là làm sâu sắc sự hiểu biết. Hy vọng là thông qua việc làm triết học, chúng ta học cách suy nghĩ tốt hơn, hành động khôn ngoan hơn, và từ đó góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống của tất cả chúng ta.
 
Có thể mày sẽ đúng :-" Vì thời đại này cũng chỉ vừa mới bước ra khỏi ww2 tầm vài chục năm thôi :-"
Cái kí ức về thời thiếu ăn thiếu ỉa vẫn còn, nên đâu đó dân vẫn còn khoái ăn, khoái nếm, khoái thịt thà bánh trái
Còn nếu tầm 50, 100 năm sau, tao tin rằng, thế hệ 10x, 11x, sẽ ăn đầy đủ các loại thực phẩm thơm ngon trên đời dù là ở tầng lớp nghèo, tới mức ngán ngẩm, mã Gene của bọn này sẽ ghi nhớ và truyền sang mấy thằng con của thế hệ 12x, 13x


Khi được sịnh ra, các cháu bé 12,13x sẽ cảm thấy đéo ham muốn gì việc ăn uống nữa, ăn lúc đó chỉ là để duy trì cuộc sống => ko quá tham ăn=> sẽ tạo ra 1 thế hệ fitness, thích tập thể dục, ko bị mập địt, tiến dần tới 1 thế giới toàn người thanh cao, đẹp trai cặc to, đẹp gái eo thon => và vì xinh đẹp nên ai nấy cũng sẽ văn minh, ko muốn ai đụng chạm hay ganh đua ai, khi ấy cái đẹp sẽ là giá trị đo sự đạo đức, chứ ko phải tiền bạc :-"


Và tất cả sẽ hòa bình ko hề có chiến tranh nữa, và vì thế ko cần phải đổ hết tiền vào để mua đạn dược nữa, công việc sẽ bớt lại, giá cả của mọi goods sẽ rẻ đi, cứ thế, 1 thế giới thiên đường sẽ mở ra, mỗi ngày làm 4h/ ngày, thành phố chỗ nào cũng sạch đẹp, ko còn ai tham lam, ko còn ai sân si, vì ai cũng đẹp =)) Mày thấy chủ nghĩa của tao lí tưởng ko
Cháu nhà em nó bỏ ăn cơm luôn toàn uống trà sữa ăn snack thôi nói nó không nghe hzza
 
Chủ nghĩa tiêu dùng... cái mà tao coi là mạnh vcl.
Hơn nữa, nếu xếp chủ nghĩa Marx thì sao không liệt kê chủ nghĩa tư bản. Marx, theo Karl Popper, thuộc về chủ nghĩa lịch sử.
Nếu nói về hiện tượng học thì nên thêm chủ nghĩa duy vật và duy tâm.
 
Hai nhà tư tưởng lớn giải thích tư tưởng của Khổng Tử là Mạnh Tử (372-289 TCN) và Tuân Tử (310-220 TCN).

Mạnh Tử cho rằng bản chất con người là tốt (nhân chi sơ tính bản thiện).

Trong khi Tuân Tử cho rằng con người sinh ra là xấu (nhân chi sơ tính bản á
c) và cần được giáo dục để cải thiện.
 
Sẽ thực sự quan trọng khi nhấn mạnh rằng các luồng tư tưởng và chủ nghĩa ấy không phải là riêng biệt. Sẽ rất thú vị nếu phân tích xem cách các tư tưởng ấy tương tác với nhau. Nhắc nhẹ đạo hữu về phạm võng kinh. @dungdamchemnhau
Riêng Phạm Võng là đã giải quyết xong phần II ở #1
 
Bộ môn này cao siêu quá, t mới chỉ biết đc tí chút
Với bò đỏ thì kiến thức nhân loại và những người đáng tôn trọng chỉ nhiêu đây :

7vBpp2aL.jpeg
 
7. Phật giáo
(Buddhism)

1. Giới thiệu về Phật giáo

Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài, trở thành các tu sĩ nam và nữ hoặc các đệ tử cư sĩ. Trong một thời gian dài như thế và với rất nhiều đệ tử có nhiều nguồn gốc khác nhau, Ngài đã để lại một kho tàng các lời giảng quý báu với nhiều chủ đề, công dụng khác nhau. Tuy nhiên, cốt tủy của các lời giảng đó lúc nào cũng giống nhau:

--"Nầy chư Tỳ kheo, bây giờ cũng như trước đây, Như Lai chỉ dạy về Khổ và Con đường Diệt khổ".


2. Đức Phật

a) Khái niệm Đức Phật (Buddha) :


Danh từ "Buddhism" là một danh từ phương Tây dùng để gọi tập hợp các lời dạy của Đức Phật, để gọi một tôn giáo xây dựng trên nền tảng của các lời dạy đó. Tuy nhiên, tại các quốc gia Nam Á và Đông Nam Á, danh từ nguyên thủy thường dùng là "Buddha-Sasana", có nghĩa là lời dạy của Đức Phật, hay Phật Giáo.

"Buddha", Phật-đà, không phải là tên riêng. Đó là một quả vị, có nghĩa là người Giác ngộ (Giác giả), người Tỉnh thức, hoặc là người Biết như thật. Tên riêng của Đức Phật là Sĩ-đạt-đa Cồ-đàm (Siddhattha Gotama).

Tuy nhiên, ngày nay có rất ít người dùng tên gọi nầy. Chúng ta thường gọi Ngài là Đức Phật, hoặc Đức Phật Cồ-đàm.

b) Sơ lược cuộc đời Đức Phật :

Trước khi xuất gia :
Đức Phật sống vào khoảng 25 thế kỷ trước tại vùng Bắc Ấn độ. Ngài sinh ra là một vị hoàng tử của vương quốc Thích-ca (Sakya) tại vùng chân núi Hy mã lạp sơn, ngày nay thuộc nước Nepal. Ngài sống trong nhung lụa, có một thời niên thiếu cao sang, kết hôn với công chúa Da-du-đà-la (Yasodhara), và có một người con trai tên là La-hầu-la (Rahula).

Đời sống nhung lụa đó không che được mắt của một người hiền triết và thông minh như Ngài. Mặc dù vị vua cha đã gắng công tạo các thú vui giải trí để Ngài đắm say vào các cảnh vui sướng trong hoàng cung, Ngài Sĩ-đạt-đa cũng bắt đầu nhận thức được bề mặt đen tối của cuộc đời, nỗi khổ đau của đồng loại và tính chất vô thường của mọi sự việc.

Một lần nọ, khi Ngài đánh xe ngựa dạo chơi trên đường phố, Ngài thấy được bốn cảnh vật làm thay đổi các tư duy của Ngài. Ngài thấy một cụ già run rẩy, một người bệnh rên siết, và một tử thi sình thối. Ba cảnh nầy khiến Ngài suy nghĩ rất nhiều và quyết tâm tìm một phương cách để giúp nhân loại và để tìm một ý nghĩa chân thật của đời sống. Cảnh vật thứ tư là cảnh của một vị du tăng bình an tĩnh lặng đã khiến cho Ngài có một niềm hy vọng là đó có thể là một con đường để tìm ra Chân Lý, thoát khỏi hoạn khổ.

Sau khi xuất gia :

Vào lúc 29 tuổi, thái tử Sĩ-đạt-đa rời hoàng cung, rời gia đình vợ con, gia nhập đời sống của một đạo sĩ khất thực trong 6 năm, đi tìm con đường diệt khổ. Vào đêm trăng rằm tháng Tư, khi ngồi thiền dưới cội cây Bồ đề ở Gaya, Ngài tìm được lời giải đáp và giác ngộ. Lúc đó, Ngài được 35 tuổi. Đấng Giác Ngộ giờ đây được gọi là Đức Phật. Ngài đi đến Sa-nặc ( Sarnath) gần thành phố Ba-na-lại (Benares) và thuyết giảng bài pháp đầu tiên - Chuyển Pháp Luân - tại khu vườn nai (Lộc Uyển). Trong 45 năm tiếp theo, Ngài du hành từ nơi nầy sang nơi khác, giảng dạy về con đường giác ngộ cho những ai hữu duyên và sẵn sàng tu học, và Ngài thành lập một giáo đoàn các vị tỳ kheo (nam tu sĩ) và tỳ kheo ni (nữ tu sĩ) thường được gọi là Tăng đoàn (Sangha).

Trong suốt cuộc đời hoằng hóa, dù phải đối phó với nhiều trở ngại, Đức Phật lúc nào cũng giữ một phong thái an nhiên tự tại, và ngay cả trong giờ phút lâm chung, Ngài vẫn bình thản cho dù thân xác đã suy yếu. Ngay trong giờ phút cuối cùng đó, Ngài vẫn tiếp tục giảng dạy và khuyên bảo các đệ tử để họ tiếp tục tu tập theo giáo pháp của Ngài: --"Nầy các tỳ kheo, Như Lai khuyên quý vị rằng mọi pháp hữu vi đều vô thường, quý vị hãy tinh tấn với chánh niệm". Đó là những lời cuối cùng của đức Phật, và Ngài nhập diệt vào năm 80 tuổi, trong năm 543 trước Công Nguyên.

Mặc dù giờ đây đã hơn 2 500 năm từ khi Đức Phật nhập Đại Niết bàn, lời dạy của Ngài, hay là Phật Pháp (Dhamma), vẫn còn hữu ích cho chúng ta và Giáo Pháp đó chính là vị Thầy của chúng ta. Tăng đoàn là cộng đồng những người quyết tâm học hỏi, thực hành và truyền dạy Chánh Pháp, đã nhận ngọn đuốc từ vị Thầy khai sáng và tiếp tục truyền giữ ngọn đuốc đó qua nhiều quốc độ và nhiều thế kỷ.


c) Tam Bảo là gì :

- Đức Phật, người khai sáng đạo

- Pháp, lời dạy của Ngài;

- Tăng, cộng đồng các tu sĩ

Cả 3 được gọi là Tam Bảo mà các Phật tử tôn kính, và cũng là Ba Nơi Nương Tựa (Tam Quy Y) để hướng dẫn người con Phật trên Con đường đưa đến hạnh phúc và an lành tối hậu.

Mỗi năm, vào ngày rằm tháng Tư âm lịch (ngày Vesakha), hằng triệu tín đồ Phật giáo -- trong truyền thống Nguyên thủy -- trên toàn thế giới cùng nhau cử hành đại lễ Tam Hợp, kỷ niệm ngày sinh (Phật Đản), ngày Thành Đạo, và ngày Đại Niết Bàn của người Cha Lành kính yêu.

3. Căn bản đạo Phật

Các ý tưởng chính yếu của đạo Phật được thu gồm trong Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế) và Con Đường Trung Dung (Trung Đạo) mà Đức Phật đã giảng trong bài pháp đầu tiên tại vườn nai sau ngày thành đạo.

Bốn sự thật đó là: Khổ - Tập - Diệt - Đạo

1. Sự thật về Khổ (Khổ đế):

Đây là sự thật về các vấn đề của đời sống, qua sinh, già, bệnh, và chết, và những ưu sầu, thất vọng. Dĩ nhiên những điều nầy là bất toại ý và người ta luôn cố gắng tránh né, không muốn dính vào chúng.

Hơn thế, tất cả những việc gì trên đời, do các điều kiện mà có, thường có mầm mống đau khổ vì chúng không thường tồn, chỉ tạm bợ, xung khắc và giả tạo, không có một chủ thể lâu bền. Chúng tạo sầu khổ và thất vọng cho những ai vì vô minh mà chấp chặt vào chúng.

Những ai muốn tự do thoát khỏi các khổ đau cần có một thái độ đúng đắn, một tri kiến và trí tuệ để nhìn mọi sự vật trên đời. Cần phải học tập để nhận định sự vật đúng theo bản chất của chúng. Các sự cố bất toại ý của đời sống cần phải được quán sát, nhận định và thông hiểu.

2. Sự thật về Nguồn gốc của Khổ (Tập đế):

Trong sự thật nầy, Đức Phật quán xét và giải thích sự khởi sinh của hoạn khổ từ nhiều nguyên nhân và điều kiện.

Đây là sự thật sâu xa về luật Nhân-Quả và Duyên Nghiệp.

Tất cả các loại hoạn khổ trên đời đều bắt nguồn từ lòng tham thủ, và các tham muốn ích kỷ đều bắt nguồn từ si mê, vô minh.

Vì không biết rõ bản chất thật sự của mọi đối tượng trên đời nên con người tham muốn chiếm đoạt và làm nô lệ chấp chặt vào chúng.

Vì các tham muốn đó không bao giờ được thỏa mãn và qua những phản ứng không thích nghi, họ lại tạo ra sự buồn khổ và thất vọng cho chính họ. Từ các tham thủ biểu hiện qua lời nói, cử chỉ hoặc trong tâm ý, họ tạo ra các nghiệp hành gây đau khổ cho chính họ và cho người khác, và đau khổ đó ngày càng chồng chất.

3. Sự thật về sự Diệt Khổ (Diệt đế):

Đây là sự thật về mục đích của người con Phật. Khi vô minh hoàn toàn được phá tan qua trí tuệ chân thật và khi lòng tham thủ và ích kỷ bị hủy diệt và thay thế bằng thái độ đúng đắn của từ bi và trí tuệ, Niết Bàn -- trạng thái của an bình tối hậu, hoàn toàn giải thoát khỏi mọi khổ đau và lậu hoặc -- sẽ được thực chứng.

Đối với những ai vẫn còn đang tu tập, chưa đến giải thoát rốt ráo, họ sẽ thấy rằng khi sự vô minh và tham thủ được giảm thiểu thì các phiền não cũng theo đó mà giảm thiểu. Khi đời sống của họ được hướng về từ bi và trí tuệ, đời sống đó sẽ tạo ra nhiều hạnh phúc và an lành cho chính họ và những người chung quanh.

4. Sự thật về Con đường đưa đến tận diệt Khổ đau (Đạo đế):

Đây là sự thật về con đường hành đạo của mọi Phật tử, là đường hướng sinh hoạt của người con Phật, bao gồm các căn bản chính yếu của lời Phật dạy và đường lối thực hành để tiến đến Niết Bạn, giải phóng khỏi mọi ràng buộc vào cuộc sống luân hồi trong thế gian.

Con đường nầy gọi là Con Đường Tám Chánh (Bát Chánh Đạo)

Gồm có 8 yếu tố chân chánh và chia thành 3 nhóm (Tam vô lậu học, 3 nhóm học để diệt trừ phiền não):

- Giới: Chánh ngữ, Chánh nghhiệp, Chánh mạng

- Định: Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định

- Tuệ: Chánh kiến, Chánh tư duy

Theo sự thật nầy, một đời sống tốt đẹp không phải chỉ do gắng công cải thiện các yếu tố ngoại vi liên quan đến xã hội và thiên nhiên. Cần phải phối hợp với sự tu tập và cải thiện bản thân như trình bày qua Bát Chánh Đạo, có liên quan đến việc giữ gìn giới hạnh, huân tập tâm ý, và khai phát trí tuệ.

Nói cách khác:

- Không làm điều gì gây đau khổ cho mình và cho người khác;

- Nuôi dưỡng điều thiện tạo an vui cho cá nhân và cho mọi người; và

- Thanh lọc tâm ý, loại trừ những bợn nhơ của tham lam, sân hận, và si mê.

Con đường Tám Chánh nầy gọi là Trung Đạo, vì đây là một đường lối thăng bằng, không có những cực đoan của sự hành hạ xác thân hoặc nô lệ dục lạc. Đây là con đường duy nhất để giác ngộ giải thoát. Đức Phật dạy rằng nơi nào các đệ tử của Ngài luôn gắng công hành trì trên con đường nầy thì nơi đó sẽ không bao giờ thiếu vắng các bậc thánh trí giác ngộ. Sự phân tích thành 8 yếu tố hoặc 3 nhóm tu học là để cho dễ hiểu. Tuy nhiên, các yếu tố đó cần phải được hành trì đồng đều - không thiếu sót một yếu tố nào - để bổ sung, hỗ trợ cho nhau, thì con đường đó mới trọn vẹn và mang đến ích lợi, giải thoát thật sự.

Trên đây là một thái độ sống của đạo Phật, một con đường rộng mở cho tất cả mọi người, không phân biệt màu da, giới tính, giai cấp.

Đức Phật tuyên bố rằng mọi người đều bình đẳng, và chỉ được đánh giá qua hành động và phong cách của họ, qua những gì họ suy nghĩ và thực hành, không phải qua màu da và quê quán. :

- Mỗi người lãnh chịu hậu quả về hành động của mình theo luật nhân quả.

- Mỗi người là chủ của mình. Con đường tu học là con đường tự nỗ lực, không cần các điều cầu xin thần linh hay mê tín dị đoan.

- Con người có khả năng cải thiện cho đời sống của chính họ và đạt đến mục đích tối hậu qua các cố gắng tinh tấn của chính họ.

Ngay cả Đức Phật cũng không bao giờ tuyên bố Ngài là đấng cứu rỗi. Ngài chỉ là người tìm ra Con đường giải thoát, và Ngài chỉ dạy cho chúng ta về con đường đó. Ngài hướng dẫn và khuyến tấn chúng ta, nhưng chúng ta phải tự mình tiến bước trên con đường đó. Khi ta tiến bước được trên những chặng đường thì ta có thể khuyến khích và hướng dẫn những người bạn đồng hành của ta.

Cho những ai đang đi trên con đường thanh lọc bản thân, Đức Phật dạy rằng tri thức và trí tuệ là chìa khóa quan yếu. Trí tuệ chỉ có thể được khai phát qua hành trì thiền quán. Hành giả cần phải quán soi thâm sâu vào nội tâm, để trạch vấn và thông hiểu cho chính mình.

Các nguyên tắc của đạo Phật là phải tự mình chứng ngộ, chứ không phải những giáo điều để mù quáng tin theo.

Phương pháp Đức Phật dạy qua Tứ Diệu Đế có thể xem như là những lời dạy của một vị y sĩ: định bệnh (Khổ đế), xác định nguyên nhân của bệnh (Tập đế), mô tả trạng thái khi lành bệnh (Diệt đế), và cách thức trị bệnh (Đạo đế).

Có rất nhiều người ưa thích bàn luận, dò đoán, bình giải về các lời dạy của Đức Phật, qua lăng kính triết lý, luận lý, tâm lý, tâm linh, v.v. Tuy nhiên, đó chỉ là những kiến thức đầu tiên, phiến diện, qua sách vở và suy luận, thường gọi là Văn huệ và Tư huệ.

Thêm vào đó, đạo Phật cần phải được thực chứng để phát triển trí tuệ thật sự, gọi là Tu huệ, chứ không phải chỉ để lý luận, tranh cãi suông. Đạo Phật là những hướng dẫn để chúng ta thực hành, tu tập thanh lọc tâm ý, để chúng ta thấy được lợi ích qua kinh nghiệm thực tế của chính bản thân trong đời sống hằng ngày. Đức Phật đã từng dạy rằng:

--"Giáo pháp của Như Lai được giảng rõ ràng, để thực chứng với kết quả hiện tiền, vượt thời gian, mời mọi người đến xem, đưa đến giải thoát, được người trí thông hiểu, tự mỗi người phải thực hiện cho chính mình".
 
7. Phật giáo (tt)
(Buddhism)

4. Giáo lý của Đạo Phật

“Giáo Pháp mà Như Lai đã Chứng Ngộ quả thật thâm diệu,khó Nhận thức, khó lãnh hội, vắng lặng, cao siêu, không nằm trongphạm vi luận lý, tinh tế, chỉ có bậc Thiện Trí mới thấu hiểu”.

-- Trung Bộ Kinh

1) Tam Tạng Kinh Điển (Tipiṭaka)

Đức Phật đã nhập diệt, nhưng Giáo Lý cao siêu mà Ngài đã dày công hoằng dương trong bốn mươi lăm năm trường vẫn còn lưu lại đến ngày nay cho nhân loại, trọn vẹn, đầy đủ, và hoàn toàn tinh túy.

Mặc dầu Giáo Huấn của Đức Thế Tôn không được ghi chép ngay lúc bấy giờ trên giấy trắng mực đen, các vị đệ tử của Ngài luôn luôn nhuần nhã nằm lòng và truyền khẩu từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Kiết tập Kinh điển lần 1 :

- Ba tháng sau khi Đức Phật nhập Níp-bàn (Niết Bàn), vào năm thứ tám triều đại Ajātasattu (A Xà Thế), năm trăm vị đại đệ tử Vô Sanh (A La Hán) của Ngài kết hợp lần đầu tiên tại Rājagaha (Vương Xá) để nhắc lại những Phật Ngôn quý báu. Đức Ānanda - vị đệ tử trung thành đã được diễm phúc luôn luôn ở bên cạnh Đức Thế Tôn và hân hạnh được nghe tất cả Giáo Huấn của Ngài - và Đức Upāli, được chọn đứng lên trả lời những câu hỏi.

Đức Ānanda, được đề cử trình bày những lời kinh (Sutta), Đức Upāli về những vấn đề có liên quan đến Giới Luật (Vinaya), và cả hai vị luân phiên trả lời các câu hỏi về phần Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), Giáo Lý cao siêu. Đó là lần kết tập đầu tiên, tập trung toàn thể Giáo Lý của Đức Phật và sắp xếp rành mạch thành ba Tạng (Tam Tạng: Tạng Luật, Tạng Kinh và Tạng Vi Diệu Pháp ).

Kiết tập Kinh điển lần 2 & 3 :

Vì có những khuynh hướng làm sai lạc Giáo Pháp nên sau đó hai lần, một trăm năm và hai trăm ba mươi sáu năm, các vị Vô Sanh (A La Hán) lại kết tập lần thứ nhì và thứ ba để đọc lại Phật Ngôn.

Vào khoảng năm 83 trước D.L., dưới triều vua Vaṭṭagāmani Abhaya xứ Sri Lanka (Tích Lan), các vị Vô Sanh (A La Hán) lại kết tập một lần nữa tại Aluvihara, một ấp nhỏ của đảo Sri Lanka (Tích Lan), lối 30 cây số cách Kandy. Tại đây, lần đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo, Tam Tạng Pāli được ghi chép trên lá buông nhờ sự cố gắng liên tục và tầm mắt thấy xa của chư vị Đại Đức Vô Sanh (A La Hán).

Đến ngày nay, và trong tương lai, không có lý do nào để chỉ trích, và cũng không thể nào các học giả tân tiến làm sai lạc tánh cách trong trắng của Giáo Lý thuần túy.

Giáo lý Nguyên Thủy :

Kể về lượng, ba Tạng (Tipiṭaka), gồm trọn vẹn Giáo Lý của Đức Phật, bằng mười một lần quyển Thánh Kinh của Ki-tô Giáo.


Pāli ngữ Tipiṭaka (Bắc Phạn: Tripiṭaka) có nghĩa là ba cái giỏ.

Ba cái giỏ ấy là:

- Giỏ đựng Luật (Vinaya Piṭaka)

- Giỏ đựng Kinh (Sutta Piṭaka)

- Giỏ đựng Vi Diệu Pháp ( Abhidhamma Piṭaka)

Tức ba Tạng: Luật, Kinh và Vi Diệu Pháp

a) Tạng Luật (Vinaya Piṭaka)

Tạng Luật được xem là cái neo vững chắc để bảo tồn con thuyền Tăng Đoàn trong những cơn phong ba bão táp của lịch sử. Phần lớn Tạng Luật đề cập đến Giới Luật và nghi lễ trong đời sống Xuất Gia của các vị Tỳ Khưu và Tỳ Khưu Ni.

Ngót hai mươi năm sau khi Thành Đạo, Đức Phật không có ban hành Giới Luật nhất định để kiểm soát và khép chư Tăng vào kỷ cương.

Về sau, mỗi khi có trường hợp xảy ra, Đức Phật đặt ra những điều răn thích hợp. Tạng Luật nêu rõ đầy đủ lý do tại sao và trường hợp nào Đức Phật ban hành một giới, và mô tả rành mạch các nghi thức hành lễ Sám Hối (Vinaya) của chư Tăng.

Lịch trình phát triển đạo giáo từ thuở ban khai, sơ lược đời sống và chức nhiệm của Đức Phật, và các chi tiết về ba lần kết tập Tam Tạng là những điểm khác được đề cập đến trong Tạng Luật. Một cách gián tiếp, đây là những tài liệu hữu ích về lịch sử thời thượng cổ, về các cổ tục ở Ấn, về kiến thức và trình độ thẩm mỹ thời bấy giờ.

Người đọc Tạng Luật không khỏi ngạc nhiên và thán phục tánh cách dân chủ trong phương pháp thành lập và tổ chức Tăng Đoàn, việc sử dụng tài sản, mức độ luân lý cao thượng của chư Tăng và khả năng xuất chúng của Đức Phật trong việc điều hành Tăng Đoàn.

Ngài Zetland viết:

“Và rất nhiều người lấy làm ngạc nhiên được biết rằng những nguyên tắc sơ đẳng trong quốc hội của chúng ta (Anh quốc) ngày nay đã có sẵn trong Tăng Đoàn Phật Giáo Ấn Độ, từ hơn hai ngàn năm về trước.

Tạng Luật (Vinaya Piṭaka) gồm năm quyển:

Vibhanga:

1. Pārājika Pāli (Tội nặng)
2. Pācittiya Pāli (Tội nhẹ)

Khandaka:
3. Mahāvagga Pāli (Đại phẩm)
4. Cullavagga Pāli (Tiểu phẩm)
5. Parivāra Pāli (Tập)

b) Tạng Kinh (Sutta Piṭaka)

Tạng Kinh đại để gồm những bài Pháp có tánh cách khuyên dạy mà trong nhiều cơ hội khác nhau, Đức Phật giảng cho các bậc Xuất Gia và hàng Cư Sĩ.

Một vài bài giảng của các vị đại đệ tử như các ngài Sāriputta (Xá Lợi Phất), Moggallāna (Mục Kiền Liên) và Ānanda (A Nan Đà) cũng được ghép vào Tạng Kinh và cũng được tôn trọng như chính lời Đức Phật vì đã được Đức Phật chấp nhận. Phần lớn các bài Pháp này nhằm vào lợi ích của chư Tỳ Khưu và đề cập đến đời sống Thánh Thiện của các bậc Xuất Gia.

Nhiều bài khác liên quan đến tiến bộ vật chất và tinh thần, đạo đức của người Cư Sĩ. Kinh Sigālovāda chẳng hạn, dạy về bổn phận của người tại gia. Ngoài ra còn có những bài giảng lý thú dành cho trẻ em.

Tạng Kinh giống như một quyển sách ghi lại nhiều quy tắc để coi theo mà thực hành, vì đó là các bài Pháp do Đức Phật thuyết giảng ở nhiều trường hợp khác nhau cho nhiều người có căn cơ, trình độ, và hoàn cảnh khác nhau.

Ở mỗi trường hợp, Đức Phật có một lối giảng để người thính Pháp có thể lãnh hội dễ dàng. Thoáng nghe qua hình như mâu thuẫn, nhưng phải nhận định đúng Phật Ngôn theo mỗi trường hợp riêng biệt mà Đức Phật dạy điều ấy.

- Tỷ như để trả lời một câu hỏi về cái “Ta”, có khi Đức Phật giữ im lặng, có khi Ngài giải thích dài.

- Nếu người vấn đạo chỉ vì tánh tò mò muốn biết thì Ngài làm thinh, không trả lời. Nhưng với người cố tâm tìm hiểu Chân Lý thì Ngài giảng dạy rành mạch và đầy đủ.

Tạng Kinh (Sutta Piṭaka) gồm năm bộ:
1. Dīgha Nikāya - Trường Bộ Kinh
(tương đương với Bắc Tông: Trường A Hàm), những bài Pháp dài.

2. Majjhima Nikāya - Trung Bộ Kinh (tương đương với Bắc Tông: Trung A Hàm), những bài Pháp dài bậc trung.

3. Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh (tương đương với Bắc Tông: Tạp A Hàm), những câu kinh tương tợ nhau.

4. Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh (tương đương với Bắc Tông: Tăng Nhứt A Hàm), những bài Pháp sắp xếp theo con số.

5. Khuddaka Nikāya - Tiểu Bộ Kinh (tương đương với Bắc Tông: Tiểu A Hàm), những câu kệ vắn tắt.

Riêng bộ Khuddaka Nikāya - Tiểu Bộ Kinh chia làm 15 tập:
1. Khuddakapāha - Tiểu Tụng (những bài ngắn).
2. Dhammapada - Kinh Pháp Cú (con đường Chân Lý).
3. Udāna - Phật Tự Thuyết (Khúc ca hoan hỷ).
4. Itivuttaka - Phật Thuyết Như Vầy.
5. Sutta Nipāta - Kinh Tập.
6. Vimāna Vatthu - Chuyện Thiên Cung.
7. Peta Vattthu - Chuyện Ngạ Quỷ.
8. Theragāthā - Trưởng Lão Tăng Kệ.
9. Therīgāthā - Trưởng Lão Ni Kệ.
10. Jātaka - Bổn Sanh hay Túc Sanh Truyện (những câu chuyện tái
sinh của Bồ Tát).
11. Niddesa - Diễn Giải.
12. Paṭisambhidāmagga - Phân Tích Đạo.
13. Apadāna - Thánh Nhân Ký Sự.
14. Buddhavaṃsa - Phật Sử.
15. Cariyā Piṭaka - Hạnh Tạng.

c) Tạng Vi Diệu Pháp (Tạng Thắng Pháp, Abhidhamma Piṭaka)

Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) thâm diệu và quan trọng nhất trong toàn thể Giáo Pháp vì đây là phần triết lý cao siêu, so với Tạng Kinh vốn giản dị hơn.

Abhidhamma, Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), là tinh hoa của Phật Giáo. Đối với một vài học giả, Vi Diệu Pháp không phải là Đức Phật giảng mà do các nhà Sư uyên bác khởi thảo về sau.

Tuy nhiên, đúng theo truyền thống thì chính Đức Phật đã dạy phần chánh yếu của Tạng này. Những đoạn gọi là Mātikā hay Mẫu đề của Abhidhamma, như Thiện Pháp (Kusalā Dhammā), Bất Thiện Pháp (Akusalā Dhammā), và Vô Ký Pháp (Abyākata Dhammā), v.v… được nói đến trong sáu tập của Vi Diệu Pháp (Abhidhamma)đều do chính Đức Phật dạy. Ngài Sāriputta (Xá Lợi Phật) được danh dự lãnh trọng trách giảng rộng và giải thích sâu vào chi tiết.

Dầu tác giả, hay các vị tác giả là ai, chắc chắn Vi Diệu Pháp (Tạng Luận, Abhidhamma) là công trình sáng tác của một bộ óc Trí Tuệ kỳ tài chỉ có thể so sánh với một vị Phật. Và điểm này càng nổi bật một cách hiển nhiên trong tập Paṭṭhāna Pakaraṇa, vừa phức tạp vừa tế nhị, diễn tả mối tương quan của luật Nhân Quả với đầy đủ chi tiết.

Đối với bậc Thiện Trí Thức muốn tìm Chân Lý, Vi Diệu Pháp (Tạng Luận, Abhidhamma) là quyển kinh chỉ đạo khẩn yếu, vừa là một tập khải luận vô giá. Ở đây có đủ thức ăn tinh thần cho các học giả muốn mở mang Trí Tuệ và đời sống lý tưởng của người Phật Tử. Vi Diệu Pháp (Tạng Luận) không phải loại sách để đọc thoáng qua cầu vui hay giải trí.

Khoa tâm lý học hiện đại, còn hạn định, vẫn nằm trong phạm vi của Vi Diệu Pháp (Tạng Luận) khi đề cập đến tâm, tư tưởng, tiến trình tư tưởng, các trạng thái Tâm. Nhưng Vi Diệu Pháp không chấp nhận có một linh hồn, hiểu như một thực thể trường tồn bất biến. Như vậy, Vi Diệu Pháp dạy một thứ tâm lý học trong đó không có linh hồn.

Nếu đọc Vi Diệu Pháp (Tạng Luận) như một quyển sách tâm lý học hiện đại thì ắt phải thất vọng, vì ở đây không có ý định giải quyết tất cả những vấn đề mà tâm lý học hiện đại phải đối phó.

- Danh/ Tâm (hay Tâm Vương, Citta) được định nghĩa rõ ràng. Tư tưởng được phân tách và sắp xếp đại để thành từng loại về phương diện luân lý. Tất cả những trạng thái Tâm, hay Sở Hữu (Tâm Sở, Cetasika), đều được lược kê cẩn thận. Thành phần cấu hợp của mỗi loại tâm được kể ra từng chi tiết. Tư tưởng phát sanh thế nào cũng được mô tả tỉ mỉ. Riêng những chập tư tưởng (Sát-na Tâm) bhavanga và javana, chỉ được đề cập đến và giải thích trong Vi Diệu Pháp (Tạng Luận), thật là đặc biệt hữu ích cho ai muốn khảo cứu về tâm lý học. Những vấn đề không liên quan đến Giải Thoát đều được gác hẳn qua một bên.

- Sắc, tức phần vật chất, cũng được đề cập đến, nhưng không phải như các nhà vật lý học hay các y sĩ mô tả. Đơn vị căn bản của vật chất, những đặc tánh, nguồn gốc của vật chất, tương quan giữa vật chất và tâm, Sắc và Danh, đều được giải thích. Vi Diệu Pháp (Tạng Luận) không nhằm tạo lập một hệ thống tư tưởng về tâm và vật chất mà chỉ quan sát hai thành phần cấu tạo cái được gọi là chúng sanh để giúp hiểu biết sự vật theo đúng thực tướng. Dựa trên căn bản ấy, một triết lý đã được xây dựng và dựa trên triết lý này một hệ thống luân lý được phát triển nhằm đưa đến mục tiêu tối hậu.

Bà Rhys Davids viết: “Vi Diệu Pháp (Tạng Luận) đề cập đến:

1) cái gì ở bên trong ta,
2) cái gì ở chung quanh ta,
và 3) cái gì ta khao khát thành đạt”.

Tạng Kinh chứa đựng những lời dạy thông thường (vohāra desanā), còn Vi Diệu Pháp (Tạng Luận, Abhidhamma) gồm Giáo Lý Cùng Tột (paramaṭṭha desanā).

Hầu hết các học giả Phật Giáo đều xác nhận rằng muốn thông hiểu Giáo Huấn của Đức Phật, phải có kiến thức về Vi Diệu Pháp (Tạng Luận) vì đó là chìa khóa để mở cửa vào thực tế.

Tạng Vi Diệu Pháp (Tạng Luận, Abhidhamma) gồm bảy bộ:

1. Dhammasaṇghaṇī - Pháp Tụ (phân loại các Pháp).

2. Vibhaṅga - Phân Tích (những tiết mục).

3. Dhātukathā - Nguyên Chất Ngữ (Giới Thuyết, luận giải về các nguyên tố hay Giới).


4. Puggala Paññatti - Nhân Chế Định (Nhân Thi Thuyết, chỉ danh những cá tính).

5. Kathāvathu - Ngữ Tông (Thuyết Sự, những điểm tranh luận).

6. Yamaka - Song Đối (quyển sách về những cặp đôi).

7. Paṭṭhāna - Vị Trí (quyển sách đề cập đến Nhân Quả tương quan).
 
Top