À mà có thằng nào biết khái niệm về “khổ” chưa
Nói về PG trc hết phải nói về 4 Đế, nội dung của kinh Chuyển Pháp Luân, pháp thoại đầu tiên của Đức Phật ngay sau khi thành đạo.
1. KHỔ ĐẾ (DUKKHASACCA):
Mọi hiện hữu trên đời, trong bất cứ hình thức nào cũng đều là sự đau khổ. Đây là một sự thật mà người muốn giải thoát đau khổ bắt buộc phải biết (pariññeyya).
Tất cả mọi đam mê, bất luận là đam mê cái gì cũng đều là nguyên nhân của đau khổ: Cái đam mê vi tế thì tạo ra khổ vi tế, cái đam mê thô thiển thì tạo ra cái khổ nặng nề. Đây là sự thật thứ hai mà người cầu giải thoát phải biết để lìa bỏ (pahātabba) tất cả đam mê. Muốn lìa bỏ tất cả đam mê thì ta phải đi đúng con đường, tức sống theo tinh thần Bát Chánh Đạo để ngay khi còn sống không còn bất cứ niềm đam mê nào nữa, tức dứt hẳn Tập Đế và khi chấm dứt kiếp sống thì không tiếp tục tái sanh nữa, tức dứt hẳn Khổ Đế. Đây chính là sự thật thứ ba mà ta phải biết để hành trì đúng đắn (bhāvetabba).
Một người không còn phiền não nữa sẽ biết rõ Níp Bàn là cái gì, đó là trạng thái vắng mặt của Khổ Đế, Tập Đế và Đạo Đế. Nghĩa là sự vắng mặt hoàn toàn mọi hiện hữu. Níp Bàn cũng là một sự thật nhưng đây là cái cần được chứng ngộ (sacchikātabba) thông qua sự hành trì Bát Chánh Đạo và chỉ bằng con đường này mà thôi
Trên đây là sơ lược về Tứ Đế và
tiếp theo đây là phần nói rộng về Khổ Đế :
Nói rốt ráo Khổ Để chỉ là sự có mặt của Danh và Sắc Pháp tức các hiện tượng tồn tại của tinh thần và vật chất.
Danh Sắc được gọi là pháp Hữu Vi (sankhāra) bởi vì chúng phải dựa vào vô số điều kiện để có mặt.
Chẳng hạn chỉ riêng việc Thấy cũng đòi hỏi 4 điều kiện là thần kinh Thị giác, đối tượng thích hợp để thấy (không quá nhỏ hay quá xa, quá mờ nhạt,..), ánh sáng thích hợp và có ý. Thiếu một trong các điều kiện tối thiểu này thì ta không thể nhìn thấy bất cứ cái gì. Cái biết của mắt gọi là tâm Nhãn thức, một trong 6 Thức và thức nào đi nữa cũng phải có những điều kiện tương ứng mới có thể có mặt.
Chỉ có Níp Bàn là một thực tại duy nhất không lệ thuộc bất cứ điều kiện nào nên mới được gọi là pháp vô vi (asankhata).
Sáu giác quan (chỗ dựa của 6 Thức), ta thường gọi là 6 Căn, và 6 Thức, cùng với 6 đối tượng của chúng, mà ta thường gọi là 6 Cảnh, đều luôn trong trạng thái vô thường, nghĩa là do duyên mà có, có rồi phải mất. Nếu có ai hỏi tại sao chúng phải mất đi thì ta chỉ có một cách trả lời tốt nhất là bởi vì chúng đã có mặt.
Hiện tượng có rồi mất ấy được gọi là vô thường: Lúc vẩy lúc khác, lúc có lúc không.
Riêng Níp Bàn thì không như vậy. Níp Bàn là một trạng thái không do duyên tạo, không có sự hiện hữu của Danh Sắc hữu vi nên luôn luôn là vậy không có khác. Giây phút nào ta còn hiện hữu bằng Danh Sắc hữu vi thì ta còn phải chấp nhận sự vô thường biến đổi.
Đức Phật dạy rằng ngay chính bản chất vô thường ấy đã là một cái khổ mà nghĩa rộng thì chữ khổ này không chỉ gói gọn trong vấn đề cảm giác mà nó bao hàm toàn bộ những gì bất an bất ổn.
Nói như vậy chỉ riêng chữ Khổ (dukkha) trong Phật học có một ý nghĩa rất sâu rộng.
Bởi chính Đức Phật đã từng dạy rằng có 3 trường hợp được gọi là Khổ Đế để từ đó không ai, không vật gì hay nơi chốn nào nằm ngoài chữ Khổ mà ngài vẫn thường nói đến:
a. Khổ Khổ (dukkhadukkha): Chỉ cho tất cả những gì khó chịu của thân xác và tâm hồn, từ những đau đớn của sinh lý đến những hờn giận, ghét sợ, ghen tuông tâm hồn.
Nói gọn lại Khổ Khổ là sự có mặt của những gì làm ta khó chịu.
b. Hoại Khổ (viparināmadukkha): Nói nôm na là sự biến mất hay gián đoạn của những gì khiến thân tâm ta dễ chịu. Không có sự sung sướng nào của thân xác có thể kéo dài vĩnh cửu và cũng không có niềm vui tinh thần nào tồn tại thiên thu. Tất cả xuất hiện trong giây lát rồi phải bị thay thế bằng một nổi khổ tâm sinh lý nào đó. Quá trình chuyển đổi này diễn ra chớp nhoáng và liên tục, thường khi nhanh đến mức nếu không chú ý ta sẽ không nhận ra.
c. Hành Khổ (abhisankhār adukkha): Là bản chất lệ thuộc điều kiện để có mặt. Mọi hiện hữu trong đời này dầu vui buồn hay tốt xấu đều phải lệ thuộc vô số điều kiện mới có mặt được. Chính sự lệ thuộc đó cũng bị xem là một cái khổ. Nói dễ hiểu thì một người mà đời sống phải luôn lệ thuộc vào quá nhiều thứ, dầu người hay vật thì làm sao có thể được gọi là hạnh phúc.
Bởi chỉ cần thiếu một trong vô số điều kiện ấy thì đời sống của ta sẽ bị trục trặc ngay.
Như vậy toàn bộ Danh và Sắc Pháp, tức tinh thần và vật chất nói chung đều do duyên tạo mà có và có rồi cũng đều phải mất đi. Đẹp xấu, thiện ác, buồn vui chi nữa cũng đều là vậy cả. Phải thấy được sự thật này tức Khổ Đế thì ta mới sanh tâm nhàm chán mọi thứ để không còn tiếp tục đam mê bất cứ thứ gì, tức thoát khổ bằng cách chán khổ, lìa Khổ Đế bằng cách chấm dứt Tập Đế.
Trong ba khía cạnh Khổ Đế vừa nói, Khổ Khổ và Hoại Khổ thì ai cũng có thể thấy được.
Riêng Hành Khổ thì phải là một hành giả Tuệ Quán mới có cái nhìn đủ sâu, đủ sáng để nhận thức được. Khi Khổ Đế chỉ được thấy qua cách phiến diện thì khả năng nhàm chán cũng rất hạn chế. Nhàm chán không đúng mức thì không thể ly tham triệt để. Chưa ly tham triệt để thì không thể giải thoát triệt để. Thấy được hai cái khổ trước nhiều lắm cũng chỉ giúp người ta lìa bỏ được tạm thời Dục Ái, niềm đam mê hưởng thụ ngủ trần, Tập Đế thô thiển.
Riêng đối với Hành Khổ thì phải thấy được nó ta mới lìa được Hữu Ái, sự mong muốn được có mặt ở đời, thông qua sự ngộ nhận về một cái tôi vốn không có thật. Sống không hưởng thụ thấy vậy mà dễ hơn là sự lìa bỏ ý niệm về một cái tôi. Mà đây mới chính là nguồn gốc thật sự của sanh tử. Dục Ái cũng là Tập Đế, nhưng khi chấm dứt được nó bằng Tam Đạo thì người ta vẫn còn sanh tử, phải đợi đến khi dứt tuyệt được Hữu Ái bằng trí Tứ Đạo thì người ta mới vĩnh viễn không còn tái sinh.
Như vậy Hữu Ái là phần cốt lõi của Tập Đế, mà muốn chấm dứt được nó, ta phải thấu hiểu được rốt ráo khía cạnh Hành Khổ của Khổ Đế, mà để làm được điều này chỉ có pháp môn Tuệ Quán.
Đây chính là lý do tại sao chúng ta phải tu Tuệ Quán.
Để kết thúc phần Khổ Đế, ta chỉ cần nhớ lại đôi điều rằng mọi hiện hữu đều là khổ, nhưng khổ ở mức nào thì ta phải có một nhận thức tương ứng để từ đó có một sự nhàm chán tương ứng và giải thoát tương ứng. Thấy khổ được bao nhiêu thì nhàm chán bấy nhiêu, nhàm chán được bao nhiêu thì thoát khổ được bấy nhiêu.