• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Tiếp tục series tìm hiểu về Đạo Đức Kinh Lão tử



Chương 8

A.
Thượng thiện nhược thuỷ
Thuỷ thiện lợi vạn vật nhi bất tranh
Xử chúng nhân chi sở ố,
Cố cơ ư Đạo
B.
Cư thiện địa
Tâm thiện uyên
Dữ thiện nhân
Ngôn thiện tín
Chánh thiện trị
Sự thiện năng
Động thiện thời
C.
Phù duy bất tranh
Cố vô vưu
A.
Bậc thượng thiện giống như nước
Nước thì hay làm lợi cho vạn vật mà không tranh
Ở chỗ mà người người đều ghét
Nên gần với Đạo
B.
Ở thì hay lựa chỗ thấp
Lòng thì chịu chỗ thâm sâu
Xử thế thì thích dùng đến lòng nhân
Nói ra thì trung thành không sai chạy
Sửa trị thì chịu làm cho được thái bình
Làm việc thì hợp với tài năng
Cử động thì hợp với thời buổi
C.
Ôi và không tranh
Nên không sao lỗi lầm


Dịch thơ:

Người trọn hảo giống in làn nước

Nuôi muôn loài chẳng chút cạnh tranh

Ở nơi nhân thế rẻ khinh

Nên cùng Đạo cả mặc tình thảnh thơi

Lòng trong veo, cố giữ đức nhân

Những là thành tín nói năng

Ra tài bình trị chúng dân trong ngoài

Mọi công việc an bài khéo léo

Lại hành vi mềm dẻo hợp thời

Vì không tranh chấp với ai

Muôn đời thanh thản, ai người trách ta​

Bình luận và chú giải:

Tánh của nước là yếu mềm: gặp chỗ trống, thiếu thì chảy vào dư thì chảy ra, lánh cao mà tìm thấp, ngày đêm chảy mãi không ngừng… để lấp đầy những gì trống trên mặt đất. Nó là tượng trưng thực hiện luật quân bình của tự nhiên, lên trên thì làm mưa, làm sương, trên mặt đất thì sinh sông sinh lạch, ao hồ, dưới lòng đất thì sinh nước ngầm… Đâu đâu cũng tưới gội thấm nhuần, luôn luôn tùng thuận, chẳng hề kháng cự: bị cản thì dừng mở đường thì chảy, ống thẳng, bầu tròn, nhưng không mất bản chất bao giờ. Vì vậy mới gọi “hay làm lợi cho vạn vật mà không tranh”.

Thiên hạ đều ham danh mà ghét nhục, thích ở trên cao mà ghét ở dưới thấp, nước trái lại lánh cao mà tìm thấp đây cùng một ý nghĩa với câu: “hậu kỳ thân nhi thân tiên”, chứ không phải như phần đông đã hiểu sai, cho rằng triết học của Lão Tử chủ trương thoái hoá và yếu hèn.

Chữ thiện đây có là ưu thích, thuận chịu

Cư thiện địa: chọn nơi ăn chốn ở, vì chỗ ăn ở ảnh hưởng rất nhiều đến toàn thể con người

Tâm thiện uyên: sống thâm trầm không phù phiếm, xốc nổi hoặc có thể giải nghĩa đối với lòng thì ưa sự hư không, vắng lặng.

Dữ thiện nhân: đối với người thì yêu thương tất cả, không có tình thương riêng tư

Ngôn thiện tín: lời nói thì thành thực trung hậu

Chánh thiện trị: trị thiên hạ thì vụ sự làm cho lòng người đừng loạn

Sự thiện năng: làm việc thì hợp với khả năng hoặc tỏ ra mình là có khả năng

Động thiện thời: hành vi cử động đều hợp thời vừa lúc

Đây là cái hạnh và đạo đức của bậc Thánh Nhân

Tóm lược: Nước bỏ chỗ cao, mà chảy xuống chỗ thấp – ngày đêm, nước làm việc chẳng ngừng, trên trời, nước làm mưa, làm sương. Dưới đất, nước sinh sông, sinh lạch, đâu đâu nước cũng thấm nhuần, tắm gối, nước làm ích cho mọi loài, nước luôn biết cách thay đổi cho hợp với điều kiện hiện có, đắp đê thời nước ngừng, mở của cống cho thoát thì thời nước chảy, nhưng nước cũng chính là thứ vô cùng khó khắc trị nhất, đắp đê mà nước tích luỹ quá nhiều cũng gây vỡ đê,… nước cũng thay đổi hình thù vuông tròn tuỳ theo bình chứa, con người thường có khuynh hướng khác hẳn con người luôn ưa lợi lộc, luôn luôn vị kỷ, vì thế con người phải bắt chước làm nước, kẻ nào hạ mình để phục vụ người, sẽ được mọi người thương mến, và không bị ai chống đối.

Đôi lời lạm bàn:


Điểm này cũng là một cái hay của triết học của Lão Tử, nó khuyến khích con người nên biết sống mềm dẻo, cũng như có sự thích ứng phù hợp với thời đại điều kiện và môi trường sống khác nhau. Giống như các đặc tính của nước đã giải thích ở trên, nguồn tư tưởng này đã xuyên suốt nền văn hoá Á Đông cả hàng ngàn năm và đến tận bây giờ vẫn còn giá trị tham khảo cho các thế hệ sau này.

Mặc dù ở thế kỷ 21 nơi mà các nền văn hoá cũng như giá trị phương tây thường được đại chúng xem là chuẩn mực của văn minh, nhưng với riêng cá nhân tôi vẫn cho rằng giá trị của Đạo Đức Kinh sẽ luôn có chỗ đứng của nó trong tiến trình phát triển của nhân loại bằng một cách nào đấy việc hoà hợp với tự nhiên là phương thức cứu lấy môi trường sống của chính con người hôm nay và cho cả thế hệ mai sau nữa.

Tôi không đề cập đến vấn đề kinh tế trên thế giới, cũng như là vấn đề an ninh lương thực, tôi chắc chắn sống thuận với tự nhiên và áp dụng các công nghệ hiện đại và con người tràn đầy lòng trắc ẩn với nhau mọi chuyện đều sẽ tiến đến chiều hướng tốt đẹp cho chính chúng ta, đất nước nơi chúng ta sinh ra và sinh sống và rộng hơn đó là nhân loại và thế giới mà tất cả các sinh vật đang sinh sống.

P/s : t mặc dù cũng không phải là người thành công gì cho cam, t cũng không phải là người muốn truyền bá cái đạo đức gì nó ghê gớm hay truyền bá Đạo Lão, hay nâng bi Đạo Lão là một cái gì đó rất là ghê gớm. Chỉ mong muốn góp một chút xíu hiểu biết cho anh em xammers nào có hứng thú thì tham khảo hoặc tìm kiếm sự an ủi làm động lực đi tiếp trên con đường phía trước. Dù gì thì gì, con người tồn tại được cho đến hôm nay đâu đó cũng nhờ có những điều tốt đẹp còn tồn tại trong mỗi con người làm cân bằng lại những điều xấu xa nếu không thì con người cũng tự đưa nhau xuống mồ từ rất lâu rồi.
 


Chương 23: Hư vô (虛 無)

1.Hi ngôn tự nhiên

2.Phiêu phong bất chung triêu, sậu vũ bất chung nhật. Thục vi thử giả, thiên địa. Thiên địa bất năng cửu, nhi huống ư nhân hồ.

3.Cố tòng sự ư Đạo giả. Đạo giả đồng ư Đạo. Đức giả đồng ư Đức. Thất giả đồng ư Thất. Đồng ư Đạo giả, Đạo diệc lạc đắc chi. Đồng ư Đức giả, Đức diệc lạc đắc chi, đồng ư thất giả, thất diệc lạc đắc chi.

4.Tín bất túc yên, hữu bất tín yên.

Dịch xuôi:

1.Ít nói, (sống) tự nhiên

2.Vì gió lốc không thổi suốt một buổi mai, mưa rào không suốt một ngày trường. Ai làm những chuyện ấy? Trời, đất. Trời đất còn không thể lâu huống nữa là người

3.Cho nên theo Đạo thì đồng với Đạo. Theo Đức thì đồng với Đức. Theo Mất thì đồng với Mất. Đồng với Đạo, Đạo vui tiếp đó. Đồng với Đức, Đức vui tiếp đó. Đồng với thất, Thất vui tiếp đó

4.Tin mà không đủ, nên mới không tin

Dịch thơ:


1.Sống tự nhiên, xẻn lời ít nói

2.Vì gió giông chẳng thổi sớm, trưa

Mưa rào chẳng suốt ngày mưa

Ai làm gió sớm mưa trưa thế này?

Trời đất còn thoảng bay chốc lát

Vẻ chi người, sống thác dường bao

3.Đem vạn vật ướm vào Đạo cả

Đấng thánh nhân huyền hoá đạo Trời

Người nhân ôm đức chẳng rời

Người ham đắc thất, cả đời vẫn ham

Ôm lấy trời, hân hoan trời rước

Ôm đức ân sẽ được đức ân

Miệt mài công cuộc gian trần

Gian trần vui đón cho thuần hư vinh

4.Kẻ chẳng tin người tin chẳng đủ

Không đủ tin hay cứ không tin

Đoạn 3 và 4 có thể dịch theo cách thứ 2 như sau:

3.Đem vạn vật ướm vào Đạo cả

Đấng thánh nhân huyền hoá Đạo trời

Sá chi sắc thất trần ai

Vui vầy cùng Đạo thảnh thơi mặc tình

Sống huyền hoá, siêu linh thoải mái

4.Người tin, chăng, nào ngại gì đâu

Giải thích và lạm bàn:

Chương này là một chương khá thú vị trong Đạo Đức Kinh bởi mỗi có những bản kinh khác nhau chép lại những bài khác nhau. Có ba chức chính trong chương này là: Đạo, Đức, Thất

Các bản của Vương Bật, Hà Thượng Công, Tống Long Uyên,vv. Đều viết là Đạo, Đức Thất

Bản của Wieger và Duynendak lại viết là Đạo, Đắc, Thất và cho rằng viết Đức là sai

Cho nên việc giải nghĩa chương này chúng ta không thể nào tham vọng đưa ra một ý kiến chính xác mà chỉ mong nói lên cái đại ý.

Đoạn 1 và 2 đại khái Lão tử khuyên chúng ta nên sống giản dị, tự nhiên, tuần tự từng bước tiến lên, đừng lo lắng làm những chuyện bất thường.

Những chuyện bất thường không thể tồn tại lâu dài, cũng như những cơn giông gió, những trận mưa lũ, mưa rào, chỉ chốc lát rồi qua đi.

Hoặc chúng ta có thể hiểu theo nghĩa hãy để vạn vật được yên, đừng cố gắng mó tay vào việc riêng của người đời. Có giúp thì giúp một cách tự nhiên như mặt trời giúp hoa nở mà hoa không hay biết là do mặt trời giúp.

Cũng như cái gì bạo phát thì chóng tàn đó là cái lẽ thường của trời đất, cái gì cố cưỡng, thái quá thì không bền.

Đoạn 3 mới thực sự khó giải thích, đại khái có hai cách giải thích:

Chúng ta thực sự muốn gì, sẽ được nấy:


Muốn Đạo sẽ được Đạo

Muốn Đức sẽ được Đức

Muốn phù hoa, sẽ được phù hoa

Sở dĩ gọi Thất là phù hoa, vì những chuyện vinh hoa được mất ở đời thoảng bay trong chốc lát

Như vậy ở đời muốn đạt được thành quả bất kỳ về phương diện gì, trước hết là phải:

Đặt cho mình một mục tiêu, một lý tưởng

Cố gắng hết sức để thực hiện mục tiêu ấy

Giải thích theo wieger:

Ở đời này chúng ta chỉ nên sống hoà mình với Đạo, còn các chuyện được mất bên ngoài chẳng nên quá quan tâm, như vậy lòng ta lúc nào cũng sẽ ung dung thư thái.

Tinh thần này đã được cụ Nguyễn Công Trứ lồng vào thi ca như sau:

Được mất dương dương người thái thượng

Khen chê phơi phới ngọn đông phong

Cuối cùng Lão tử kết luận:

Ở đời sở dĩ có nhiều người không thành công trong công trình tu Đạo, chính là vì đã không tin vào mình, vào những khả năng vô biên của tâm hồn mình, hoặc là tin chẳng đủ, bởi vì nếu chúng ta có đức tin bằng hạt cải, chúng ta sẽ có thể đào núi lấp biển.

Ở chương này ta thấy Lão Tử đặt cái "tâm" của con người lên hàng đầu, vạn vật từ "tâm" mà sinh, tuỳ tâm mà hình thành suy nghĩ, có kẻ thấy nghịch cảnh là nghịch cảnh, có kẻ lại thấy nghịch cảnh là cơ hội.
Mọi thứ trong cuộc đời con người có lúc lên lúc xuống, vận hạn có lúc tốt lúc xấu, sự xoay đổi liên tục này phải chăng cũng chỉ là thường tình, cứ mãi ôm lấy cái thay đổi liên tục liệu có được hạnh phúc.
Tại đây cá nhân tôi thấy rằng có nét tương đồng rất lớn ở Triết học Phật Pháp là Triết học Lão tử. Không cố gắng nhập cả hai hoặc gượng ép kéo cả hai về một mối, chỉ tại chỗ này bống nhiên cảm thấy có sự giao thoa của hai trường phái.
 
Đạo của lão tử là ví con người như thuyền trên nước thuyền lá thì không thể ra biển khơi mà thuyền buồm thì không thể vào lạch nhỏ. Vô vi không phải là không làm gì mà là chúng ta phải biết được mình là thuyền lá hay thuyền buồm mà chọn ở biển khơi hay về chổ lạch nhỏ như vậy mới thuận với tự nhiên. Nhiều người cứ giải thích vô vi là từ bỏ tất cả không làm gì mà để thuận theo tự nhiên. Vô vi là đừng tranh giành cái mà mình không thể. Là tìm thấy cái mà mình có thể.
 


Chương 23: Hư vô (虛 無)

1.Hi ngôn tự nhiên

2.Phiêu phong bất chung triêu, sậu vũ bất chung nhật. Thục vi thử giả, thiên địa. Thiên địa bất năng cửu, nhi huống ư nhân hồ.

3.Cố tòng sự ư Đạo giả. Đạo giả đồng ư Đạo. Đức giả đồng ư Đức. Thất giả đồng ư Thất. Đồng ư Đạo giả, Đạo diệc lạc đắc chi. Đồng ư Đức giả, Đức diệc lạc đắc chi, đồng ư thất giả, thất diệc lạc đắc chi.

4.Tín bất túc yên, hữu bất tín yên.

Dịch xuôi:

1.Ít nói, (sống) tự nhiên

2.Vì gió lốc không thổi suốt một buổi mai, mưa rào không suốt một ngày trường. Ai làm những chuyện ấy? Trời, đất. Trời đất còn không thể lâu huống nữa là người

3.Cho nên theo Đạo thì đồng với Đạo. Theo Đức thì đồng với Đức. Theo Mất thì đồng với Mất. Đồng với Đạo, Đạo vui tiếp đó. Đồng với Đức, Đức vui tiếp đó. Đồng với thất, Thất vui tiếp đó

4.Tin mà không đủ, nên mới không tin

Dịch thơ:


1.Sống tự nhiên, xẻn lời ít nói

2.Vì gió giông chẳng thổi sớm, trưa

Mưa rào chẳng suốt ngày mưa

Ai làm gió sớm mưa trưa thế này?

Trời đất còn thoảng bay chốc lát

Vẻ chi người, sống thác dường bao

3.Đem vạn vật ướm vào Đạo cả

Đấng thánh nhân huyền hoá đạo Trời

Người nhân ôm đức chẳng rời

Người ham đắc thất, cả đời vẫn ham

Ôm lấy trời, hân hoan trời rước

Ôm đức ân sẽ được đức ân

Miệt mài công cuộc gian trần

Gian trần vui đón cho thuần hư vinh

4.Kẻ chẳng tin người tin chẳng đủ

Không đủ tin hay cứ không tin

Đoạn 3 và 4 có thể dịch theo cách thứ 2 như sau:

3.Đem vạn vật ướm vào Đạo cả

Đấng thánh nhân huyền hoá Đạo trời

Sá chi sắc thất trần ai

Vui vầy cùng Đạo thảnh thơi mặc tình

Sống huyền hoá, siêu linh thoải mái

4.Người tin, chăng, nào ngại gì đâu

Giải thích và lạm bàn:

Chương này là một chương khá thú vị trong Đạo Đức Kinh bởi mỗi có những bản kinh khác nhau chép lại những bài khác nhau. Có ba chức chính trong chương này là: Đạo, Đức, Thất

Các bản của Vương Bật, Hà Thượng Công, Tống Long Uyên,vv. Đều viết là Đạo, Đức Thất

Bản của Wieger và Duynendak lại viết là Đạo, Đắc, Thất và cho rằng viết Đức là sai

Cho nên việc giải nghĩa chương này chúng ta không thể nào tham vọng đưa ra một ý kiến chính xác mà chỉ mong nói lên cái đại ý.

Đoạn 1 và 2 đại khái Lão tử khuyên chúng ta nên sống giản dị, tự nhiên, tuần tự từng bước tiến lên, đừng lo lắng làm những chuyện bất thường.

Những chuyện bất thường không thể tồn tại lâu dài, cũng như những cơn giông gió, những trận mưa lũ, mưa rào, chỉ chốc lát rồi qua đi.

Hoặc chúng ta có thể hiểu theo nghĩa hãy để vạn vật được yên, đừng cố gắng mó tay vào việc riêng của người đời. Có giúp thì giúp một cách tự nhiên như mặt trời giúp hoa nở mà hoa không hay biết là do mặt trời giúp.

Cũng như cái gì bạo phát thì chóng tàn đó là cái lẽ thường của trời đất, cái gì cố cưỡng, thái quá thì không bền.

Đoạn 3 mới thực sự khó giải thích, đại khái có hai cách giải thích:

Chúng ta thực sự muốn gì, sẽ được nấy:


Muốn Đạo sẽ được Đạo

Muốn Đức sẽ được Đức

Muốn phù hoa, sẽ được phù hoa

Sở dĩ gọi Thất là phù hoa, vì những chuyện vinh hoa được mất ở đời thoảng bay trong chốc lát

Như vậy ở đời muốn đạt được thành quả bất kỳ về phương diện gì, trước hết là phải:

Đặt cho mình một mục tiêu, một lý tưởng

Cố gắng hết sức để thực hiện mục tiêu ấy

Giải thích theo wieger:

Ở đời này chúng ta chỉ nên sống hoà mình với Đạo, còn các chuyện được mất bên ngoài chẳng nên quá quan tâm, như vậy lòng ta lúc nào cũng sẽ ung dung thư thái.

Tinh thần này đã được cụ Nguyễn Công Trứ lồng vào thi ca như sau:

Được mất dương dương người thái thượng

Khen chê phơi phới ngọn đông phong

Cuối cùng Lão tử kết luận:

Ở đời sở dĩ có nhiều người không thành công trong công trình tu Đạo, chính là vì đã không tin vào mình, vào những khả năng vô biên của tâm hồn mình, hoặc là tin chẳng đủ, bởi vì nếu chúng ta có đức tin bằng hạt cải, chúng ta sẽ có thể đào núi lấp biển.

Ở chương này ta thấy Lão Tử đặt cái "tâm" của con người lên hàng đầu, vạn vật từ "tâm" mà sinh, tuỳ tâm mà hình thành suy nghĩ, có kẻ thấy nghịch cảnh là nghịch cảnh, có kẻ lại thấy nghịch cảnh là cơ hội.
Mọi thứ trong cuộc đời con người có lúc lên lúc xuống, vận hạn có lúc tốt lúc xấu, sự xoay đổi liên tục này phải chăng cũng chỉ là thường tình, cứ mãi ôm lấy cái thay đổi liên tục liệu có được hạnh phúc.
Tại đây cá nhân tôi thấy rằng có nét tương đồng rất lớn ở Triết học Phật Pháp là Triết học Lão tử. Không cố gắng nhập cả hai hoặc gượng ép kéo cả hai về một mối, chỉ tại chỗ này bống nhiên cảm thấy có sự giao thoa của hai trường phái.
có thể cho xin nguồn để đọc ko mày? đọc nguyên cuốn cho nhanh:vozvn (19):
 
Để tìm lại bản pdf rồi gửi link cho nhé bro.
Bro có hứng thú với Lão sao
Mình cũng đang tìm hiểu thôi bro, mà rất khó đọc vì mình ko biết cổ ngữ tiếng Trung, dịch và giải nghĩa mỗi nhà mỗi khác có khi khác hoàn toàn nên cũng đang tự mò mẫm thôi bro!
 
Mình cũng đang tìm hiểu thôi bro, mà rất khó đọc vì mình ko biết ngữ tiếng Trung, dịch và giải nghĩa mỗi nhà mỗi khác có khi khác hoàn toàn nên cũng đang tự mò mẫm thôi bro!
Có nhiều bản dịch và bình chú.
Bản dịch là đúng nhé bro, ko có sai khác nhiều đâu.

Bro đọc rồi coi bình chú Thì dễ tiến nhập

Mình đọc 10 năm rồi, và đọc không biết bao nhiêu lần nhưng cũng ko nắm hết.
Mỗi lần đọc lại thì có 1 cảm nhận mới.
 
Có nhiều bản dịch và bình chú.
Bản dịch là đúng nhé bro, ko có sai khác nhiều đâu.

Bro đọc rồi coi bình chú Thì dễ tiến nhập

Mình đọc 10 năm rồi, và đọc không biết bao nhiêu lần nhưng cũng ko nắm hết.
Mỗi lần đọc lại thì có 1 cảm nhận mới.
Mỗi lần đọc thì lại có 1 cảm nhận mới thì đúng rồi. Con người ngày nay thường xem Lão Tử là 1 "triết gia" hay một "nhà tư tưởng" lớn. Hơn nữa họ còn đem Đạo Đức Kinh như 1 tác phẩm kinh điển để nghiên cứu, học tập, bình luận, phê phán ... Chẳng khác nào xem Lão Tử như 1 người bình thường thế tục. Sự thực không phải vậy! Lão Tử chính là đã để lại cho con người 1 pháp môn tu luyện Đại Đạo chân chính, con đường phản bổn quy chân. Đạo Đức Kinh chính là Đạo của Ông. Tuy nhiên Đạo Đức Kinh lưu truyền cho đến ngày nay, không phải là nguyên tác mà Lão Tử để lại cho hậu thế.
Năm 1971, bên Tung Của khai quật 1 ngôi mộ cổ 2000 năm ở Mã Vương Đôi , thì phát hiện được bản bạch thư Lão Tử Ngũ Thiên Ngôn, trong đó phần Đức kinh đứng trước phần Đạo kinh. Nghiên cứu cuốn đó thì thấy có hơn 700 chỗ sai khác so với bản đang lưu truyền ở thời điểm đó.
Trong hang động ở Đôn Hoàng, người ta cũng phát hiện ra 1 bản chép tay Đức Đạo Kinh, trong đó phần Đức Kinh ở trước Đạo Kinh. Điều đó nói rõ lên 1 điều rằng người đắc Đạo nhất định phải là kẻ có Đức.
Nếu mày chỉ muốn đọc Đức Đạo Kinh của Lão Tử chỉ để mà nghiên cứu, thì mày cứ đọc bình giải, bình luận của các tác giả để biết thêm về những góc nhìn của họ. Còn nếu như mày muốn truy cầu 1 điều gì đó cao xa hơn, tao kiến nghị mày chỉ nên đọc bản Hán Việt ( nếu như mày không biết tiếng Trung ) . Còn nếu như đọc bản dịch, thì nên chỉ đọc mỗi bản dịch, chứ đừng đọc phần chú giải hay đọc thơ thẩn gì gì đó .
 
Mỗi lần đọc thì lại có 1 cảm nhận mới thì đúng rồi. Con người ngày nay thường xem Lão Tử là 1 "triết gia" hay một "nhà tư tưởng" lớn. Hơn nữa họ còn đem Đạo Đức Kinh như 1 tác phẩm kinh điển để nghiên cứu, học tập, bình luận, phê phán ... Chẳng khác nào xem Lão Tử như 1 người bình thường thế tục. Sự thực không phải vậy! Lão Tử chính là đã để lại cho con người 1 pháp môn tu luyện Đại Đạo chân chính, con đường phản bổn quy chân. Đạo Đức Kinh chính là Đạo của Ông. Tuy nhiên Đạo Đức Kinh lưu truyền cho đến ngày nay, không phải là nguyên tác mà Lão Tử để lại cho hậu thế.
Năm 1971, bên Tung Của khai quật 1 ngôi mộ cổ 2000 năm ở Mã Vương Đôi , thì phát hiện được bản bạch thư Lão Tử Ngũ Thiên Ngôn, trong đó phần Đức kinh đứng trước phần Đạo kinh. Nghiên cứu cuốn đó thì thấy có hơn 700 chỗ sai khác so với bản đang lưu truyền ở thời điểm đó.
Trong hang động ở Đôn Hoàng, người ta cũng phát hiện ra 1 bản chép tay Đức Đạo Kinh, trong đó phần Đức Kinh ở trước Đạo Kinh. Điều đó nói rõ lên 1 điều rằng người đắc Đạo nhất định phải là kẻ có Đức.
Nếu mày chỉ muốn đọc Đức Đạo Kinh của Lão Tử chỉ để mà nghiên cứu, thì mày cứ đọc bình giải, bình luận của các tác giả để biết thêm về những góc nhìn của họ. Còn nếu như mày muốn truy cầu 1 điều gì đó cao xa hơn, tao kiến nghị mày chỉ nên đọc bản Hán Việt ( nếu như mày không biết tiếng Trung ) . Còn nếu như đọc bản dịch, thì nên chỉ đọc mỗi bản dịch, chứ đừng đọc phần chú giải hay đọc thơ thẩn gì gì đó .
t đọc bình giải và sau này chỉ là bản dịch hán việt

Vấn đề nguyên bản của Đạo Đức Kinh. Bro có nguồn ko.

Theo mình biết, bản cổ nhất đâu đó khoảng thế kỷ thứ 4 TCN

Thời Tần Thủy Hoàng cho đốt gần hết sách vở huyền học, do ông ta bài trừ tôn giáo

Chỉ riêng đạo đức kinh ông ta ko đốt mà còn lưu giữ, bởi ông ta cầu trường sinh
 
Mỗi lần đọc thì lại có 1 cảm nhận mới thì đúng rồi. Con người ngày nay thường xem Lão Tử là 1 "triết gia" hay một "nhà tư tưởng" lớn. Hơn nữa họ còn đem Đạo Đức Kinh như 1 tác phẩm kinh điển để nghiên cứu, học tập, bình luận, phê phán ... Chẳng khác nào xem Lão Tử như 1 người bình thường thế tục. Sự thực không phải vậy! Lão Tử chính là đã để lại cho con người 1 pháp môn tu luyện Đại Đạo chân chính, con đường phản bổn quy chân. Đạo Đức Kinh chính là Đạo của Ông. Tuy nhiên Đạo Đức Kinh lưu truyền cho đến ngày nay, không phải là nguyên tác mà Lão Tử để lại cho hậu thế.
Năm 1971, bên Tung Của khai quật 1 ngôi mộ cổ 2000 năm ở Mã Vương Đôi , thì phát hiện được bản bạch thư Lão Tử Ngũ Thiên Ngôn, trong đó phần Đức kinh đứng trước phần Đạo kinh. Nghiên cứu cuốn đó thì thấy có hơn 700 chỗ sai khác so với bản đang lưu truyền ở thời điểm đó.
Trong hang động ở Đôn Hoàng, người ta cũng phát hiện ra 1 bản chép tay Đức Đạo Kinh, trong đó phần Đức Kinh ở trước Đạo Kinh. Điều đó nói rõ lên 1 điều rằng người đắc Đạo nhất định phải là kẻ có Đức.
Nếu mày chỉ muốn đọc Đức Đạo Kinh của Lão Tử chỉ để mà nghiên cứu, thì mày cứ đọc bình giải, bình luận của các tác giả để biết thêm về những góc nhìn của họ. Còn nếu như mày muốn truy cầu 1 điều gì đó cao xa hơn, tao kiến nghị mày chỉ nên đọc bản Hán Việt ( nếu như mày không biết tiếng Trung ) . Còn nếu như đọc bản dịch, thì nên chỉ đọc mỗi bản dịch, chứ đừng đọc phần chú giải hay đọc thơ thẩn gì gì đó .
Theo mình biết là ko có sai khác nhé
Các học giả tây phương nghiên cứu khá kỹ.
Bro dẫn nguồn được không
Nói miệng thì hơi lạ
 
t đọc bình giải và sau này chỉ là bản dịch hán việt

Vấn đề nguyên bản của Đạo Đức Kinh. Bro có nguồn ko.

Theo mình biết, bản cổ nhất đâu đó khoảng thế kỷ thứ 4 TCN

Thời Tần Thủy Hoàng cho đốt gần hết sách vở huyền học, do ông ta bài trừ tôn giáo

Chỉ riêng đạo đức kinh ông ta ko đốt mà còn lưu giữ, bởi ông ta cầu trường sinh
Bản cổ nhất mà người thường phát hiện ra chính là bản từ 2000 năm trước ở mộ cổ Mã Vương Đôi. Đạo gia là 1 trong 2 gia lớn của vũ trụ này. Đạo mà Lão Tử để lại, không phải là Đại Đạo duy nhất mà con người biết. Ngoài ra còn nhiều Đại Đạo khác nữa, nhưng không truyền bá công khai. Bản thân những người tu Đại Đạo cũng không có mục đích phổ độ chúng sinh, nên không cần nhiều đệ tử. Trước đây ở Trung Quốc có Đạo giáo, sánh vai cũng Phật giáo, kỳ thực là do 1 nguyên nhân khác mà có Đạo Giáo, nhưng cũng không phải là để phổ độ chúng sinh. Trong Đạo quán thời đó, có thể có hàng nghìn đạo chúng, nhưng thực chất, chỉ có 1 vài đệ tử là được chân truyền, còn lại có tu mà không có đắc !
 
Sửa lần cuối:
Mỗi lần đọc thì lại có 1 cảm nhận mới thì đúng rồi. Con người ngày nay thường xem Lão Tử là 1 "triết gia" hay một "nhà tư tưởng" lớn. Hơn nữa họ còn đem Đạo Đức Kinh như 1 tác phẩm kinh điển để nghiên cứu, học tập, bình luận, phê phán ... Chẳng khác nào xem Lão Tử như 1 người bình thường thế tục. Sự thực không phải vậy! Lão Tử chính là đã để lại cho con người 1 pháp môn tu luyện Đại Đạo chân chính, con đường phản bổn quy chân. Đạo Đức Kinh chính là Đạo của Ông. Tuy nhiên Đạo Đức Kinh lưu truyền cho đến ngày nay, không phải là nguyên tác mà Lão Tử để lại cho hậu thế.
Năm 1971, bên Tung Của khai quật 1 ngôi mộ cổ 2000 năm ở Mã Vương Đôi , thì phát hiện được bản bạch thư Lão Tử Ngũ Thiên Ngôn, trong đó phần Đức kinh đứng trước phần Đạo kinh. Nghiên cứu cuốn đó thì thấy có hơn 700 chỗ sai khác so với bản đang lưu truyền ở thời điểm đó.
Trong hang động ở Đôn Hoàng, người ta cũng phát hiện ra 1 bản chép tay Đức Đạo Kinh, trong đó phần Đức Kinh ở trước Đạo Kinh. Điều đó nói rõ lên 1 điều rằng người đắc Đạo nhất định phải là kẻ có Đức.
Nếu mày chỉ muốn đọc Đức Đạo Kinh của Lão Tử chỉ để mà nghiên cứu, thì mày cứ đọc bình giải, bình luận của các tác giả để biết thêm về những góc nhìn của họ. Còn nếu như mày muốn truy cầu 1 điều gì đó cao xa hơn, tao kiến nghị mày chỉ nên đọc bản Hán Việt ( nếu như mày không biết tiếng Trung ) . Còn nếu như đọc bản dịch, thì nên chỉ đọc mỗi bản dịch, chứ đừng đọc phần chú giải hay đọc thơ thẩn gì gì đó .
Bản Mã Vương Đôi (Mawangdui):
Được phát hiện vào những năm 1970 tại Mã Vương Đôi, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc.

Bản Mã Vương Đôi có hai phiên bản, A và B, được viết trên lụa và có niên đại vào khoảng thế kỷ 2 trước Công nguyên.

Bản này khác biệt đôi chút về trật tự chương và nội dung so với các bản truyền thống sau này.

Bản Quách Điền (Guodian):Được tìm thấy vào năm 1993 tại Quách Điền, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc.

Bản này được viết trên các thẻ tre và có niên đại vào khoảng thế kỷ 4 trước Công nguyên, có thể là phiên bản cổ nhất được biết đến của Đạo Đức Kinh.

Bản Quách Điền chỉ chứa một phần của Đạo Đức Kinh, khoảng 40% tổng số chương

Ý bro là bản 1970 đúng chứ
 
Câu đầu tiên thôi là thấy cái hay của lão Tử rồi:

ĐẠO KHẢ ĐẠO PHI THƯỜNG ĐẠO

DANH KHẢ DANH PHI THƯỜNG DANH
Hay chỗ nào vậy bro? có thể giải thích thêm ko? mình hiểu nghĩa câu nhưng nghe kiến giải của từng ng cũng tốt
 
Ờ cái đạo đức kinh này hay phết, tư tưởng vô vi chủ đạo nhưng tao đọc đ ai hướng dẫn nên đ hiểu gì, vì thứ nhất nó hán việt, dịch việt ngữ như loz nên sai be bét ý nghĩa, từ ngữ từ thời Xuân Thu r nên đọc đ hiểu văn cảnh, lại còn ngắn nữa, súc tích quá nên đ hiểu gì, chứng tỏ Lão Tử giỏi, tao đọc cái bài luận về cái tính không của ông ý có 3 4 dòng mà bọn Nhật nó viết thành 1 quyển sách giảng giải
 
Bản cổ nhất mà người thường phát hiện ra chính là bản từ 2000 năm trước ở mộ cổ Mã Vương Đôi. Đạo gia là 1 trong 2 gia lớn của vũ trụ này. Đạo mà Lão Tử để lại, không phải là Đại Đạo duy nhất mà con người biết. Ngoài ra còn nhiều Đại Đạo khác nữa, nhưng không truyền bá công khai. Bản thân những người tu Đại Đạo cũng không có mục đích phổ độ chúng sinh, nên không cần nhiều đệ tử. Trước đây ở Trung Quốc có Đạo giáo, sánh vai cũng Phật giáo, kỳ thực là do 1 nguyên nhân khác mà có Đạo Giáo, nhưng cũng không phải là để phổ độ chúng sinh. Trong Đạo quán thời đó, có thể có hàng nghìn đạo chúng, nhưng thực chất, chỉ có 1 vài để tự là được chân truyền, còn lại có tu mà không có đắc !
nguyên nhân gì vậy bro? Đạo giáo có ở TQ trước Phật giáo thì phải.
 
Mỗi lần đọc thì lại có 1 cảm nhận mới thì đúng rồi. Con người ngày nay thường xem Lão Tử là 1 "triết gia" hay một "nhà tư tưởng" lớn. Hơn nữa họ còn đem Đạo Đức Kinh như 1 tác phẩm kinh điển để nghiên cứu, học tập, bình luận, phê phán ... Chẳng khác nào xem Lão Tử như 1 người bình thường thế tục. Sự thực không phải vậy! Lão Tử chính là đã để lại cho con người 1 pháp môn tu luyện Đại Đạo chân chính, con đường phản bổn quy chân. Đạo Đức Kinh chính là Đạo của Ông. Tuy nhiên Đạo Đức Kinh lưu truyền cho đến ngày nay, không phải là nguyên tác mà Lão Tử để lại cho hậu thế.
Năm 1971, bên Tung Của khai quật 1 ngôi mộ cổ 2000 năm ở Mã Vương Đôi , thì phát hiện được bản bạch thư Lão Tử Ngũ Thiên Ngôn, trong đó phần Đức kinh đứng trước phần Đạo kinh. Nghiên cứu cuốn đó thì thấy có hơn 700 chỗ sai khác so với bản đang lưu truyền ở thời điểm đó.
Trong hang động ở Đôn Hoàng, người ta cũng phát hiện ra 1 bản chép tay Đức Đạo Kinh, trong đó phần Đức Kinh ở trước Đạo Kinh. Điều đó nói rõ lên 1 điều rằng người đắc Đạo nhất định phải là kẻ có Đức.
Nếu mày chỉ muốn đọc Đức Đạo Kinh của Lão Tử chỉ để mà nghiên cứu, thì mày cứ đọc bình giải, bình luận của các tác giả để biết thêm về những góc nhìn của họ. Còn nếu như mày muốn truy cầu 1 điều gì đó cao xa hơn, tao kiến nghị mày chỉ nên đọc bản Hán Việt ( nếu như mày không biết tiếng Trung ) . Còn nếu như đọc bản dịch, thì nên chỉ đọc mỗi bản dịch, chứ đừng đọc phần chú giải hay đọc thơ thẩn gì gì đó .
Tại sao lại có con người và phải tìm đường phản bổn quy chân? Tại sao ngay từ đầu con người ko giữ được chân?
 
Hay chỗ nào vậy bro? có thể giải thích thêm ko? mình hiểu nghĩa câu nhưng nghe kiến giải của từng ng cũng tốt
Nó hay ở chỗ, nếu quán triệt được hai câu đầu. Thì việc đọc tất cả các câu phía sau không còn ý nghĩa nữa.

Ngay câu đầu tiên Lão tử đã nói, Đạo không thể nói được, mà đã nói là không phải Đạo vĩnh hằng ( Đạo vĩnh hằng cũng không thể diễn giải nữa,)

Cái tên mà nói ra được thì cái tên đó không phải là cái vĩnh hằng bất biến (ám chỉ việc gọi Đạo cũng là chỉ trăng trong nước)

Cái này để phân tích thì dài dòng.
Hãy hình dung, vị mặn chỉ có thể cảm nhận. Không thể mô tả.
Anh ăn muối thấy mặn. Nhưng anh ko thể mô tả cho ngta được.
 
Tại sao lại có con người và phải tìm đường phản bổn quy chân? Tại sao ngay từ đầu con người ko giữ được chân?
Vượt ngoài lý luận.

Sự sống bản thân nó ko cần 1 ý nghĩa để tồn tại.

Chính nó đã là ý nghĩa của nó

Việc cần làm là hiểu cái đang sống là gì, nói cách khác đó là hiểu về sự sống trong chính thân thể này.
 
Đúng rồi, tao nói là bản 1971 ở Mã Vương Đôi. Bản đó chép lại "đầy đủ" khi so với bản được lưu truyền cho đến thời điểm đó. Tao không biết bản mày đọc là bản nào. Nhưng nếu nói bản đó không khác nhiều với bản được lưu truyền là không đúng đâu. Đã là kinh thì không thể sai, dù chỉ 1 chữ. Sai một chữ đã là sai quá nhiều. Tao không đọc Đạo Đức Kinh của Lão Tử, vì vấn đề "bất nhị Pháp môn" trong tu luyện, nhưng tao biết bản ở Mã Vương Đôi có nhiều chỗ sai khác với bản được lưu truyền. Tao lấy ví dụ, trong bản được lưu truyền, có câu : "thượng thiện nhược thủy, thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh " . Còn trong bản ở Mã Vương Đôi, thì ghi là : " thượng thiện như thủy, thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh" . Khác nhau chỉ 1 chữ "nhược" và chữ "như" , nhưng ý nghĩa của 2 câu đã khác hẳn !
Tao là người tu luyện, nhưng không phải tu Đạo, nên kiến thức của tao về Đức Đạo Kinh của Lão Tử không nhiều, chỉ nêu ra 1 vài điểm trên quan điểm tu luyện thôi !
 

Có thể bạn quan tâm

Top