Không quân Hoa Kỳ đang trả 90.000 đô la cho một túi Bushings (vòng đệm động cơ) mà thông thường có giá dưới 100 đô la mua OEM)
Là một người có kinh nghiệm trong lĩnh vực mua sắm quốc phòng, đây cũng là điều khiến tôi bận tâm. Tôi không nói rằng điều đó đúng, nhưng còn nhiều điều hơn thế nữa:
Mối lo ngại về sự chênh lệch chi phí giữa 90.000 đô la mà Không quân Hoa Kỳ trả cho một túi ống lót so với giá thị trường thông thường dưới 100 đô la xuất phát từ một số yếu tố, chủ yếu liên quan đến các quy định và yêu cầu nghiêm ngặt mà các nhà thầu quốc phòng phải tuân thủ:
1. Tuân thủ quy định:
- FAR (Quy định mua sắm liên bang) và DFARS (Phụ lục quy định mua sắm liên bang quốc phòng): Các quy định này áp đặt nhiều yêu cầu đối với các nhà thầu, từ kiểm soát chất lượng đến báo cáo, làm tăng đáng kể chi phí. Việc tuân thủ các quy định này liên quan đến các quy trình lập tài liệu, thử nghiệm và chứng nhận mở rộng không điển hình trong các thị trường thương mại.
2. Yêu cầu về an ninh mạng:
- DFARS 7012, 7019, 7020 và 7021: Các điều khoản này yêu cầu các biện pháp an ninh mạng để bảo vệ Thông tin không được phân loại có kiểm soát (CUI). Việc tuân thủ các tiêu chuẩn như NIST SP 800-171 liên quan đến việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng an ninh mạng, kiểm toán và chứng nhận, làm tăng chi phí sản xuất.
3. Chất lượng và khả năng truy xuất nguồn gốc:
- Mỗi bộ phận được sử dụng trong các ứng dụng quân sự phải đáp ứng các tiêu chuẩn rất cao về chất lượng, khả năng truy xuất nguồn gốc và tài liệu. Điều này bao gồm đảm bảo rằng vật liệu có nguồn gốc từ các quốc gia tuân thủ DFARS, điều này có thể hạn chế các nhà cung cấp và làm tăng chi phí do ít cạnh tranh hoặc chi phí vật liệu cao hơn.
4. Kiểm tra và chứng nhận:
- Các bộ phận quân sự trải qua các quy trình kiểm tra và chứng nhận nghiêm ngặt để đảm bảo chúng có thể chịu được các điều kiện khắc nghiệt. Điều này không chỉ liên quan đến chi phí sản xuất ban đầu mà còn liên quan đến chi phí liên quan đến nhiều vòng thử nghiệm, kiểm tra và làm lại tiềm ẩn.
5. Chi phí chung và chi phí gián tiếp:
- Các nhà thầu quốc phòng thường có chi phí chung đáng kể do cơ sở vật chất, thiết bị chuyên dụng và lao động có tay nghề cao. Ngoài ra, các chi phí gián tiếp như nhóm pháp lý, hành chính và tuân thủ là rất lớn do tính phức tạp của các hợp đồng chính phủ.
6. Chi phí chuỗi cung ứng và nhà thầu phụ:
- Chi phí cũng bị ảnh hưởng bởi số lượng các nhà thầu phụ tham gia. Mỗi cấp độ đều tăng thêm mức tăng giá để trang trải chi phí và biên lợi nhuận, đặc biệt là khi xử lý các bộ phận chuyên dụng hoặc khối lượng thấp.
7. Trách nhiệm và quản lý rủi ro:
- Chi phí cao cũng có thể một phần là do rủi ro mà nhà thầu phải gánh chịu. Nếu một bộ phận bị hỏng, thiệt hại về tài chính và uy tín có thể rất lớn, đòi hỏi phải đầu tư nhiều hơn vào việc đảm bảo chất lượng.
Mặc dù các yếu tố này giải thích một phần đáng kể chi phí, nhưng cũng có những lời chỉ trích liên quan đến tình trạng kém hiệu quả, khả năng tăng lợi nhuận và tính phức tạp của chính quy trình mua sắm. Các bài đăng trên X đã nêu bật sự khác biệt này, chỉ ra những gì một số người coi là chi tiêu lãng phí hoặc chi phí thổi phồng của tổ hợp công nghiệp quân sự (MIC). Tuy nhiên, nếu không có các cuộc kiểm toán cụ thể hoặc phân tích chi tiết từ chính các nhà thầu, thì rất khó để xác định chính xác từng đô la vượt quá chi phí chung và chi phí tuân thủ.
Tóm lại, số tiền này có thể sẽ được dùng để đảm bảo tuân thủ các yêu cầu quản lý mở rộng, an ninh mạng, kiểm soát chất lượng và chi phí cố hữu khi xử lý mua sắm quân sự chuyên biệt. Tuy nhiên, tình hình này cũng nhấn mạnh cuộc thảo luận rộng hơn về hiệu quả chi tiêu của chính phủ và nhu cầu minh bạch trong các hợp đồng quốc phòng chứ lệch tận 89.900 USD thế này thì chả khác gì lên Sao Hoả mua món hàng 100 USD đem về.