• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Đạo lý Tứ Diệu Đế - Tứ Thánh Đế - 4 sự thật cao quý

TỨ DIỆU ÐẾ (ARIYA SACCA)

Tứ Diệu Ðế gồm có:

1) Khổ đế (Dukkha Sacca):5 uẩn, danh và sắc là khổ
2) Tập đế (Samudaya Sacca):nguyên nhân của khổ là lòng Tham ái
3) Diệt đế (Nirodha Sacca) ; diệt đế là Níp bàn
4) Ðạo đế (Magga Sacca): chính là thánh đạo tám ngành.

=> Tứ Diệu Đế gồm có : Khổ Đế - Tập Đế - Diệt Đế - Đạo Đế.

Những nét đặc trưng của Tứ Diệu Ðế

1- Khổ đế:
Mang nét đặc trưng của sự bất an, không có khả năng giữ bản chất giống nhau. Cả thân lẫn tâm đều bất an. Thân bất an là do khổ thọ, và tâm liên tục tìm một đối tượng dục lạc mới - để được hạnh phúc, nhưng thực tế khi ấy họ đang chịu sự khổ đau. Người diệt khổ, luôn luôn không tìm kiếm và bó buộc vào những đối tượng dục lạc khác nhưng luôn khi được an vui và thoải mái.

2- Tập đế: Nguyên nhân của lòng Ái dục. Sắc và danh pháp chẳng bao giờ ngừng hoạt động; thấy, nghe, xúc, thọ, xem xét (tầm) và quyết định, v.v...

3- Diệt đế: Mang nét đặc trưng của sự thoát khỏi bất an, bởi vì nó không còn tham ái (taṇhā), đạt được sự an lạc của Níp bàn.

4- Ðạo đế: Mang nét đặc trưng bởi có những phẩm chất thích hợp cần thiết để nhận ra Tứ Diệu Ðế và đạt Níp bàn.

Đây là phần giáo lý khái quát và cốt lõi nhất trong Phật pháp. Việc giác ngộ là nhìn thấy 4 đế này bằng Trí Tu. Còn những gì mình nghe, đọc từ sách vở, thầy bạn ... gọi là Trí Văn. Những gì mình thấm thía và suy ngẫm gọi là Trí Tư.

Từ 2 cái trí Văn và Tư + việc hành Vipassana hay Tứ Niệm Xứ đúng mức rồi một ngày nào đó khi duyên chín ta sẽ có cái trí Tu này. Thấy 4 đế thật sự chứ không thông qua cái gì hết gọi là giác ngộ. Sự giác ngộ của Chư Phật Toàn giác, Chư Phật độc giác hay Chư Phật Thinh văn ( Chư Thánh tăng) cũng từ cái nhìn thấy 4 đế này qua Trí Tu.


Ngôn ngữ hiện đại : Sự thật về khổ - Nguyên nhân sanh khổ - Sự diệt khổ - Con đường đưa đến diệt khổ.

- Khổ Đế :
Sự thật về khổ. Phật nói toàn bộ trên đời này mọi thứ đều là khổ. Từ con ong con ruồi, cho tới thần trời, người, ngạ quỷ hay kể cả Phật cũng là khổ. Xuất hiện trên đời đều là khổ. Khổ ở đây vừa là cái khổ cảm giác, vừa là cái khổ bản chất của sự bất toàn, bất trắc trong cuộc đời này. Pháp hữu vi nào cũng bị khổ vô thường vô ngã chi phối cho banh xác.

Khổ có thể chia làm 3 :

+ Khổ khổ : Khổ cảm giác, bị đâm chém, bị chửi rủa xúc phạm, bị bệnh tật, bị cắm sừng bị ngoại tình .... Hay muốn không được, ghét phải gần, thương phải xa ... là khổ vậy

+ Hoại khổ : Tất cả những gì mình yêu thích bị biến mất là khổ. Trên đời không có gì còn hoài vì một là nó bỏ mình hai là mình bỏ nó. Vợ chồng, con cái, cha mẹ, bạn bè, tài sản, sự nghiệp, tiếng tăm, quyền lực danh vọng, địa vị đến một ngày nào nó cũng sẽ bỏ ta hoặc ta bỏ lại nó mà đi.

+ Hành khổ : Tất cả thiện ác ta làm đều là nhân tái sanh và nhân sa đọa. Nó là một vòng luẩn quẩn. Nhưng chúng sanh có khuynh hướng ác nhiều hơn thiện. Vì làm ác nó quen tay, thuận tay hơn.

Ví dụ như móc 500k ra cho người ta hay thấy thằng kia sơ hở 500k mình thò tay móc túi nó thì cái nào khoái hơn, cái nào tiện tay và sướng hơn. Đơn giản vậy thôi. Hay con muỗi cắn mình thì mình tìm cách cho nó bay đi hay mình đâp nó. Nói chung làm ác nó dễ và sướng hơn làm thiện đối với phàm phu.

- Tập Đế : Mọi thứ mình thích trên đời này là khổ. Vì thích nên mới làm, đủ mọi trò ác nhân thất đức mình cũng làm. Vì miếng ăn manh áo mà đi lừa lọc, cướp đoạt, chiếm đoạt tham ô để hẹn một tương lai sa đọa. Hoặc thích làm phước cầu quả nhân thiên cũng là tập đế vì nó vẫn mãi là lẩn quẩn. Kiếp nào thuận lợi thì mình làm ác, kiếp nào thuận lợi mình làm thiện là bất định. Bản chất chúng sanh ác nên sa đọa rất dễ. Hoặc thích cái gì mà không được thì cũng đau khổ, mà được thì nó đau khổ theo một kiểu khác.

Vì sự chấp ái, chấp thủ mang danh là vì con cái, vợ chồng, cha mẹ hay gia đình, tổ chức, đoàn thể xã hội ... mà cái ác nào con người cũng không gớm tay hết. Chắc là cũng có lúc ta sẽ nhìn lại những tội lỗi, tội ác ta đã làm. Ta cũng sẽ gớm tay nhưng thực tại vẫn cuốn ta theo vòng xoáy tội ác đó.

=> Tập Đế tạo Khổ Đế, đời sống chúng ta luẩn quẩn trong Khổ - Tập - Khổ - Tập .....

Không có hạnh phúc mà chỉ có giải pháp cho đau khổ là vậy. Vì mấy ai trên đời này có được thứ mình thích, bên cạnh người mình thương, ở nơi mình muốn ăn món mình khoái. Và nếu có được rồi cũng là nhân sa đọa. Khổ thay !

- Diệt đế tức là chứng đắc Niết bàn

- Đạo đế là 37 phẩm Bồ đề phần. Là con đường chứng đạt Diệt đế.
Chi tiết về Đạo Đế ở #2


Vì vậy mục đích của người tu hành là Nhận ra Khổ đế, từ bỏ Tập Đế , thực hành Đạo đế để chứng đạt Diệt đế.

Gom lại thành 1 câu thần chú : " Mọi thứ đều là khổ, mọi thứ mà ta thích thì đều là thích trong khổ, vì vậy thì đừng thích trong khổ nữa, khi không còn thích gì thì chứng niết bàn".

Thông thường phàm phu miệng thì nói đời là khổ mà cái đầu, cái tay thì vẫn còn khoái luân hồi lắm :d



Tứ diệu đế theo bảng chi pháp Abhidhamma

FgAPv5i.jpeg
 
Sửa lần cuối:
Trước giờ vẫn thắc mắc một số cái liên quan đến phật giáo, về giới - định - tuệ. Nhưng sau khi đọc thì tao đã hiểu được phần nào. Cảm ơn hiền giả rất nhiều, nó như khai sáng cho tâm hồn tao vậy.
Đa tạ!
 
TỨ ĐẾ - CHANMYAY SAYADAW

Chúng ta bắt đầu nói về pháp môn Tuệ Quán bằng chút kiến thức căn bản về Tứ Đế, nội dung của kinh Chuyển Pháp Luân, pháp thoại đầu tiên của Đức Phật ngay sau khi thành đạo.

1. KHỔ ĐẾ (DUKKHASACCA):

Mọi hiện hữu trên đời, trong bất cứ hình thức nào cũng đều là sự đau khổ. Đây là một sự thật mà người muốn giải thoát đau khổ bắt buộc phải biết (pariññeyya).

Tất cả mọi đam mê, bất luận là đam mê cái gì cũng đều là nguyên nhân của đau khổ:
Cái đam mê vi tế thì tạo ra khổ vi tế, cái đam mê thô thiển thì tạo ra cái khổ nặng nề. Đây là sự thật thứ hai mà người cầu giải thoát phải biết để lìa bỏ (pahātabba) tất cả đam mê. Muốn lìa bỏ tất cả đam mê thì ta phải đi đúng con đường, tức sống theo tinh thần Bát Chánh Đạo để ngay khi còn sống không còn bất cứ niềm đam mê nào nữa, tức dứt hẳn Tập Đế và khi chấm dứt kiếp sống thì không tiếp tục tái sanh nữa, tức dứt hẳn Khổ Đế. Đây chính là sự thật thứ ba mà ta phải biết để hành trì đúng đắn (bhāvetabba).

Một người không còn phiền não nữa sẽ biết rõ Níp Bàn là cái gì, đó là trạng thái vắng mặt của Khổ Đế, Tập Đế và Đạo Đế. Nghĩa là sự vắng mặt hoàn toàn mọi hiện hữu. Níp Bàn cũng là một sự thật nhưng đây là cái cần được chứng ngộ (sacchikātabba) thông qua sự hành trì Bát Chánh Đạo và chỉ bằng con đường này mà thôi

Trên đây là sơ lược về Tứ Đế và tiếp theo đây là phần nói rộng về Khổ Đế :

Nói rốt ráo Khổ Để chỉ là sự có mặt của Danh và Sắc Pháp tức các hiện tượng tồn tại của tinh thần và vật chất. Danh Sắc được gọi là pháp Hữu Vi (sankhāra) bởi vì chúng phải dựa vào vô số điều kiện để có mặt.

Chẳng hạn chỉ riêng việc Thấy cũng đòi hỏi 4 điều kiện là thần kinh Thị giác, đối tượng thích hợp để thấy (không quá nhỏ hay quá xa, quá mờ nhạt,..), ánh sáng thích hợp và có ý. Thiếu một trong các điều kiện tối thiểu này thì ta không thể nhìn thấy bất cứ cái gì. Cái biết của mắt gọi là tâm Nhãn thức, một trong 6 Thức và thức nào đi nữa cũng phải có những điều kiện tương ứng mới có thể có mặt.

Chỉ có Níp Bàn là một thực tại duy nhất không lệ thuộc bất cứ điều kiện nào nên mới được gọi là pháp vô vi (asankhata).

Sáu giác quan (chỗ dựa của 6 Thức), ta thường gọi là 6 Căn, và 6 Thức, cùng với 6 đối tượng của chúng, mà ta thường gọi là 6 Cảnh, đều luôn trong trạng thái vô thường, nghĩa là do duyên mà có, có rồi phải mất. Nếu có ai hỏi tại sao chúng phải mất đi thì ta chỉ có một cách trả lời tốt nhất là bởi vì chúng đã có mặt.

Hiện tượng có rồi mất ấy được gọi là vô thường: Lúc vẩy lúc khác, lúc có lúc không.

Riêng Níp Bàn thì không như vậy. Níp Bàn là một trạng thái không do duyên tạo, không có sự hiện hữu của Danh Sắc hữu vi nên luôn luôn là vậy không có khác. Giây phút nào ta còn hiện hữu bằng Danh Sắc hữu vi thì ta còn phải chấp nhận sự vô thường biến đổi.

Đức Phật dạy rằng ngay chính bản chất vô thường ấy đã là một cái khổ mà nghĩa rộng thì chữ khổ này không chỉ gói gọn trong vấn đề cảm giác mà nó bao hàm toàn bộ những gì bất an bất ổn. Nói như vậy chỉ riêng chữ Khổ (dukkha) trong Phật học có một ý nghĩa rất sâu rộng.

Bởi chính Đức Phật đã từng dạy rằng có 3 trường hợp được gọi là Khổ Đế để từ đó không ai, không vật gì hay nơi chốn nào nằm ngoài chữ Khổ mà ngài vẫn thường nói đến:

a. Khổ Khổ (dukkhadukkha): Chỉ cho tất cả những gì khó chịu của thân xác và tâm hồn, từ những đau đớn của sinh lý đến những hờn giận, ghét sợ, ghen tuông tâm hồn.
Nói gọn lại Khổ Khổ là sự có mặt của những gì làm ta khó chịu.

b. Hoại Khổ (viparināmadukkha):
Nói nôm na là sự biến mất hay gián đoạn của những gì khiến thân tâm ta dễ chịu. Không có sự sung sướng nào của thân xác có thể kéo dài vĩnh cửu và cũng không có niềm vui tinh thần nào tồn tại thiên thu. Tất cả xuất hiện trong giây lát rồi phải bị thay thế bằng một nổi khổ tâm sinh lý nào đó. Quá trình chuyển đổi này diễn ra chớp nhoáng và liên tục, thường khi nhanh đến mức nếu không chú ý ta sẽ không nhận ra.

c. Hành Khổ (abhisankhār adukkha): Là bản chất lệ thuộc điều kiện để có mặt. Mọi hiện hữu trong đời này dầu vui buồn hay tốt xấu đều phải lệ thuộc vô số điều kiện mới có mặt được. Chính sự lệ thuộc đó cũng bị xem là một cái khổ. Nói dễ hiểu thì một người mà đời sống phải luôn lệ thuộc vào quá nhiều thứ, dầu người hay vật thì làm sao có thể được gọi là hạnh phúc.
Bởi chỉ cần thiếu một trong vô số điều kiện ấy thì đời sống của ta sẽ bị trục trặc ngay.

Như vậy toàn bộ Danh và Sắc Pháp, tức tinh thần và vật chất nói chung đều do duyên tạo mà có và có rồi cũng đều phải mất đi. Đẹp xấu, thiện ác, buồn vui chi nữa cũng đều là vậy cả. Phải thấy được sự thật này tức Khổ Đế thì ta mới sanh tâm nhàm chán mọi thứ để không còn tiếp tục đam mê bất cứ thứ gì, tức thoát khổ bằng cách chán khổ, lìa Khổ Đế bằng cách chấm dứt Tập Đế.

Trong ba khía cạnh Khổ Đế vừa nói, Khổ Khổ và Hoại Khổ thì ai cũng có thể thấy được. Riêng Hành Khổ thì phải là một hành giả Tuệ Quán mới có cái nhìn đủ sâu, đủ sáng để nhận thức được. Khi Khổ Đế chỉ được thấy qua cách phiến diện thì khả năng nhàm chán cũng rất hạn chế. Nhàm chán không đúng mức thì không thể ly tham triệt để. Chưa ly tham triệt để thì không thể giải thoát triệt để. Thấy được hai cái khổ trước nhiều lắm cũng chỉ giúp người ta lìa bỏ được tạm thời Dục Ái, niềm đam mê hưởng thụ ngủ trần, Tập Đế thô thiển.

Riêng đối với Hành Khổ thì phải thấy được nó ta mới lìa được Hữu Ái, sự mong muốn được có mặt ở đời, thông qua sự ngộ nhận về một cái tôi vốn không có thật. Sống không hưởng thụ thấy vậy mà dễ hơn là sự lìa bỏ ý niệm về một cái tôi. Mà đây mới chính là nguồn gốc thật sự của sanh tử. Dục Ái cũng là Tập Đế, nhưng khi chấm dứt được nó bằng Tam Đạo thì người ta vẫn còn sanh tử, phải đợi đến khi dứt tuyệt được Hữu Ái bằng trí Tứ Đạo thì người ta mới vĩnh viễn không còn tái sinh.

Như vậy Hữu Ái là phần cốt lõi của Tập Đế, mà muốn chấm dứt được nó, ta phải thấu hiểu được rốt ráo khía cạnh Hành Khổ của Khổ Đế, mà để làm được điều này chỉ có pháp môn Tuệ Quán.

Đây chính là lý do tại sao chúng ta phải tu Tuệ Quán.

Để kết thúc phần Khổ Đế, ta chỉ cần nhớ lại đôi điều rằng mọi hiện hữu đều là khổ, nhưng khổ ở mức nào thì ta phải có một nhận thức tương ứng để từ đó có một sự nhàm chán tương ứng và giải thoát tương ứng. Thấy khổ được bao nhiêu thì nhàm chán bấy nhiêu, nhàm chán được bao nhiêu thì thoát khổ được bấy nhiêu.


- KINH NGHIỆM TUỆ QUÁN
 
Bỏ công sức để đạt được niết bàn cũng là 1 loại ham muốn, tham vọng. Chẳng qua chuyển từ ham muốn vật chất sang ham muốn tinh thần.
Tốn bao công sức, ý chí, thời gian, quyết tâm cả đời chưa chắc đạt cái mục tiêu đó, ko đạt được thì lại khổ, không chỉ khổ 1 thời gian mà khổ cả đời, thời gian cảm nhận niềm vui cuộc sống cũng giảm sút.
Tiền đề đầu tiên : Cuộc sống là khổ, vậy nhưng tôi không cho rằng như thế, khó khăn trắc trở là 1 loại trải nghiệm, cũng thú vị chứ không hẳn đau đớn. Thay vì diệt ham muốn, ta có thể thay đổi góc nhìn với "khổ", chấp nhận nó là 1 phần của hành trình. Các diệu đế tiếp theo không cần xét nữa.
 
Bỏ công sức để đạt được niết bàn cũng là 1 loại ham muốn, tham vọng. Chẳng qua chuyển từ ham muốn vật chất sang ham muốn tinh thần.
Tốn bao công sức, ý chí, thời gian, quyết tâm cả đời chưa chắc đạt cái mục tiêu đó, ko đạt được thì lại khổ, không chỉ khổ 1 thời gian mà khổ cả đời, thời gian cảm nhận niềm vui cuộc sống cũng giảm sút.
Tiền đề đầu tiên : Cuộc sống là khổ, vậy nhưng tôi không cho rằng như thế, khó khăn trắc trở là 1 loại trải nghiệm, cũng thú vị chứ không hẳn đau đớn. Thay vì diệt ham muốn, ta có thể thay đổi góc nhìn với "khổ", chấp nhận nó là 1 phần của hành trình. Các diệu đế tiếp theo không cần xét nữa.
Thì bạn lấy tư duy người không tu hoc lấy vô.minh tà kiến để suy nghĩ thì nghĩ như bạn là đúng rồi. Tà kiến thì thuận theo góc nhìn tà kiến làm sao hiểu Khổ để được.
 
Top