• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Tự Ngộ (sưu tầm)

1) THẮP ĐÈN

Trời tối đen như mực, một vị tăng khổ hạnh lên đường tìm Phật đến một ngôi làng hẻo lánh. Trên con đường tối đen, dân làng qua lại tấp nập.
Tăng đến một xóm nhỏ, thấy có ánh đèn từ ngõ sâu yên ắng rọi tới. Một người dân nói: "Gã mù tới kìa".
"Mù ư?" Tăng sửng sốt hỏi người bên cạnh: "Người xách đèn bị mù thật sao?".
Người ấy trả lời: "Đúng vậy!".
Tăng lấy làm khó hiểu. Đối với một người mù lòa thì ngày đêm có khác gì nhau, anh ta không nhìn thấy non cao nước chảy, cũng không nhìn thấy màu sắc của vạn vạt, thậm chí anh ta cũng chẳng biết ánh đèn là thế nào, anh ta xách đèn trong đêm há không khiến người khác thấy buồn cười sao?
Người cầm đèn từ từ đến gần. Tăng ngập ngừng hỏi: "Dám hỏi thí chủ thật sự là một người mù phải không?".
Người mù xách đèn trả lời: "Vâng, từ khi sinh ra, hai mắt tôi đã chẳng nhìn thấy gì".
Tăng hỏi: "Đã không nhìn thấy gì, tại sao lại xách đèn?".
Người mù bảo: " Giờ là đêm tối phải không? Tôi nghe nói trong đêm tối không có ánh đèn soi thì mọi người đều chẳng nhìn thấy gì, giống như tôi, cho nên tôi phải thắp đèn".
Tăng hiểu ra đôi chút, bảo: " Hóa ra anh thắp sáng vì người khác?".
Nhưng người mù nói: "Không phải, tôi thắp đèn vì chính tôi".
"Vì chính anh?" - Tăng lại ngạc nhiên.
Người mù ôn tồn: "Chắc ông từng bị người đi đường va quẹt vì trời tối?".
Tăng đáp: "Đúng vậy, lúc nãy tôi sơ ý bị hai người đi đường va phải đấy!".
Người mù nghe xong, trầm ngâm: "Nhưng tôi thì không. Tuy tôi là người mù, chẳng nhìn thấy gì, song tôi xách chiếc đèn này, vừa soi đường cho người khác, vừa để người khác nhìn thấy tôi. Như vậy, họ sẽ không đâm vào tôi vì không thấy tôi".
Nghe xong, tăng bỗng ngộ, ngẩng mặt lên trời than: "Tôi bôn ba chân trời góc bể tìm Phật, không ngờ Phật ở bên cạnh tôi đây! Thì ra, Phật tánh như một chiếc đèn, chỉ cần tôi thắp sáng nó. Dù tôi không nhìn thấy Phật, Phật cũng sẽ nhìn thấy tôi".
 
16) CÁI LẠNH

Sáu con người, do sự tình cờ của số phận, mắc kẹt vào cùng một cái hang rất tối và lạnh. Mỗi người chỉ còn một que củi nhỏ trong khi đống lửa chính đang lụi dần.
Người phụ nữ đầu tiên định quẳng que củi vào lửa, nhưng đột nhiên rụt tay lại. Bà vừa nhìn thấy một gương mặt da đen trong nhóm người da trắng.
Người thứ hai lướt qua các bộ mặt quanh đống lửa, thấy một người trong số đó không đi chung nhà thờ với ông ta. Vậy là thanh củi cũng bị thu về.
Người thứ ba trầm ngâm trong một bộ quần áo nhàu nát. Ông ta kéo áo lên tận cổ, nhìn người đối diện, nghĩ thầm: "Tại sao mình lại phải hi sinh thanh củi để sưởi ấm cho con heo béo ị giàu có kia?"
Người đàn ông giàu lui lại một chút, nhẩm tính: "Thanh củi trong tay, phải khó nhọc lắm mới kiếm được, tại sao ta phải chia sẻ nó với tên khố rách áo ôm lười biếng đó?".
Ánh lửa bùng lên một lần cuối, soi rõ khuôn mặt người da đen đang đanh lại, lộ ra những nét hằn thù: "Không, ta không cho phép mình dùng thanh củi này sưởi ấm những gã da trắng!".
Chỉ còn lại người cuối cùng trong nhóm. Nhìn những người khác trầm ngâm trong im lặng, anh ta tự nhủ: "Mình sẽ cho thanh củi, nếu có ai ném phần của họ vào đống lửa trước".
Cứ thế, đêm xuống dần. Sáu con người nhìn nhau căng thẳng, tay nắm chặt những khúc củi. Đống lửa chỉ còn than đỏ rồi lụi tắt. Sáng hôm sau khi những người cứu hộ tới nơi, cả sáu đều đã chết cóng. Họ không chết vì cái lạnh bên ngoài mà chết vì sự buốt giá trong sâu thẳm tâm hồn.

THE END
The end là huynh ko post seri này nữa sao
 
“Tôi dễ dàng hơn cậu một chút”

William James
– ký giả nổi tiếng của tờ báo New York Times đã cải trang thành một người lang thang, nghèo khổ và què một chân. Anh đã trà trộn và sống với những người vô gia cư ở Miami, một thành phố ở tiểu bang Florida, Hoa Kỳ, khoảng nửa năm để tìm hiểu cuộc sống của họ. Sau đó, ông đã ra loạt bài chấn động nước Mỹ.
Ngay ngày đầu tiên, nhìn thấy James tàn tật, ăn mặc rách rưới và bẩn thỉu, từ trong đáy mắt của những người vô gia cư này đã lập tức biểu lộ ra một sự quan tâm; một người đàn ông trong nhóm đã bước đến, đưa cho James một cây gậy gỗ và nói với anh rằng: “Người anh em, hãy cầm lấy nó, như thế sẽ thuận tiện hơn nhiều”.
James đưa tay đón lấy cây gậy, dùng tay vuốt ve cây gậy này hết lần này đến lần khác, trong lòng không khỏi cảm kích. Đúng lúc đó, một bóng dáng loang loáng phản ánh trên mặt dường, dáng đi không bình thường, ngẩng lên nhìn, trong lòng James cảm thấy như bị cái gì đó thiêu đốt, người đàn ông đưa gậy lúc nãy đang đi cà nhắc… Chống cây gậy này, James dường như cảm thấy có một loại sức mạnh vô hình từ nó truyền đến. Rất mau, anh đã có được tín nhiệm của những người vô gia cư này. Họ dẫn James đi đến nơi đặt những chiếc thùng rác ở các siêu thị, đến khu dân cư để thu lượm thức ăn và phế liệu bị người ta vứt đi. Họ còn nói cho James biết nơi nào có nhiều đồ phế liệu, những phế liệu nào đáng tiền và nên đi lượm vào khung giờ nào, v.v…
Trong một lần trông thấy James bước đi khập khiễng một cách vất vả để lật tìm phế liệu, một anh chàng thanh niên da đen với hàm răng trắng bóng đã bước đến, vỗ nhẹ lên vai của James, đưa cho anh túi phế liệu và nói: “Này người anh em, anh hãy đi sang bên cạnh nghỉ ngơi một chút, túi đồ phế liệu này anh hãy cầm lấy đi!”. James nghe xong, đứng ngẩn ra đó, như thể không tin vào tai mình: “Vậy làm sao được? Những thứ này cậu vất vả lắm mới lượm được mà!” Người lang thang đó nghe xong, khẽ nhếch miệng cười, nói một cách rất vui vẻ: “Tôi dễ dàng hơn anh một chút”. Nói xong, liền quay người bỏ đi.
James xách túi phế liệu đó, nhớ lại câu mà anh chàng da đen vừa nói khi nãy, trong tâm cảm thấy vô cùng ấm áp và cảm động.
Tới buổi trưa, trong lúc đang cảm thấy đói đói, một người đàn ông bị còng lưng trong nhóm đi đến trước mặt James, đưa cho anh hai ổ bánh mì và nói: “Này người anh em, hãy ăn đi!”
James nghe xong, cảm thấy có chút ngại ngùng: “Nếu anh cho tôi, thế thì anh ăn gì đây?”. Người đàn ông nghe xong, khẽ nhếch miệng cười, nói: “Tôi dễ dàng hơn cậu một chút!” Nói xong, liền lảng sang bên cạnh bỏ đi. James cầm hai ổ bánh mì trong tay, nước mắt lã chã rơi, phải rất lâu sau đó mới bình tĩnh lại được.
Đến tối, James cùng vài người vô gia cư rủ nhau co rúc dưới chân cầu. Nhìn thấy James ngủ ở nơi ngoài rìa chân cầu, một ông lão đầu tóc bạc trắng chầm chậm đi đến, vỗ nhẹ vào vai anh rồi nói: “Này người anh em, cậu hãy đến ngủ ở chỗ tôi, ở đó thoải mái hơn một chút”.
James nghe xong, cảm thấy nghi hoặc nói: “Nếu tôi ngủ chỗ ông, thế thì ông ngủ chỗ nào?” Ông lão đó nghe xong, nhoẻn miệng cười, nói: “Tôi dễ dàng hơn cậu một chút!”
Lại là “Tôi dễ dàng hơn cậu một chút!“, James nghĩ, những người vô gia cư sống ở giai tầng thấp nhất trong xã hội này, tuy cuộc sống vô cùng gian khổ, thế nhưng khi họ nhìn thấy người khác khó khăn, đều luôn chìa tay giúp đỡ, họ luôn thấy bản thân mình có một phương diện mạnh hơn người khác.
James sống chung với những người vô gia cư này hơn nửa năm, trong khoảng thời gian hơn nửa năm đó, sớm chiều ở chung đã khiến anh sinh ra tình cảm thân thiết sâu sắc. Chàng trai vô gia cư người da đen tên Ali luôn thích nói đùa kia, một tay bị tàn tật, nhưng cậu vẫn luôn thích giúp đỡ những người bị tật cả hai tay. Khi người này bày tỏ cảm kích, cậu luôn thích nói một câu: “Tôi dễ dàng hơn cậu một chút”.
Anh chàng vô gia cư tên Bobby, thính giác ở hai lỗ tai không được tốt lắm, mỗi lần nhặt được thứ gì tốt, luôn thích chia sẻ một chút cho người bạn vô gia cư có tật ở mắt; khi người này bày tỏ sự cảm kích, anh luôn nói một câu, chính là: “Tôi dễ dàng hơn cậu một chút”.
Anh chàng vô gia cư thân thể ốm yếu tên Chater ấy, luôn thích giúp đỡ người bạn vô gia cư thân thể béo phì kia của mình; khi nhận được sự cảm kích, câu mà Chater thích nói nhất cũng chính là: “Tôi dễ dàng hơn cậu một chút” ...
Không lâu sau đó, James có một loạt bài viết trên trang New York Times với tiêu đề: “Tôi dễ dàng hơn cậu một chút”. Loạt bài báo đã gây sự chấn động lớn đối trái tim và tâm hồn hàng triệu độc giả thân thiết của tờ báo. James ngập trong những bình luận bất tận đầy xúc động của độc giả gửi về. Một nhà bình luận nói, đó thực sự là một loạt bài đánh thức những trái tim đã ngủ quá lâu trong sự thờ ơ, lạnh nhạt ở một đất nước quá coi trọng sự riêng tư.
Bất kỳ ai đọc loạt bài đó đều muốn ngả mũ chào những người vô gia cư mà họ gặp, với sự kính trọng thực sự. Tuy họ sống ở giai tầng thấp nhất trong xã hội, nhưng họ luôn có thể nhìn thấy bản thân mình có ưu thế hơn người khác, và dùng ưu thế nhỏ nhoi ấy để giúp đỡ những người yếu hơn, mang cho người khác một loại cảm giác ấm áp và dũng khí để tiếp tục sống.
Hàng triệu độc giả của tờ báo danh tiếng hàng đầu thế giới bàng hoàng nhận ra, sự rách rưới, bẩn thỉu, tàn tật hay nghèo khó, không ngăn cản con người trở nên tôn quý và cao cả. Và không cần phải giàu có bạn mới có thể trao đi tình yêu thương, nỗi đồng cảm, thậm chí cả một chút vật chất vốn không có mảy may giá trị gì đối với hầu hết mọi người… như là một cây gậy. James đã viết trong loạt bài gây chấn động của mình rằng: “Tôi dễ dàng hơn cậu một chút”, là câu nói kỳ lạ nhất lưu truyền trong những người vô gia cư, câu nói kỳ lạ nhất mà anh từng đươc nghe thấy
trong đời, bời vì mỗi khi nó được thốt ra từ một người vô gia cư tàn tật, rách nát mà với anh là không thế nào khốn khó hơn, nó bỗng biến thành một sức mạnh cảm hoá mãnh liệt khiến hết thảy những quan niệm cố hữu về người khác, sự lạnh nhạt, vô tình, sự hãnh tiến và ích kỉ của một người ở tầng lớp trên như anh tan biến. Nó cho anh một thứ niềm tin về cuộc sống mà anh chưa bao giờ cảm thấy khi đến những toà nhà tráng lệ nhất New York, giữa những chính khách, nhà tài phiệt, hay ngôi sao đỉnh cao thế giới…
Và chúng ta, những con người chắc chắn giàu có hơn rất nhiều những người vô gia cư khốn khổ, lại thường là những kẻ kêu ca than phiền nhiều nhất về số phận. Thực ra cuộc đời sẽ đơn giản và hạnh phúc hơn rất nhiều nếu chúng ta có thể nói “Tôi dễ dàng hơn cậu một chút” với bất kì ai đó mà bạn gặp trên đường đời. Bời vì như những người vô gia cư kia, bạn luôn có thể nói câu nói đầy cảm hứng đó ngay cả khi bạn không có gì cả, ngoài… một trái tim!
 
“Tôi dễ dàng hơn cậu một chút”

William James
– ký giả nổi tiếng của tờ báo New York Times đã cải trang thành một người lang thang, nghèo khổ và què một chân. Anh đã trà trộn và sống với những người vô gia cư ở Miami, một thành phố ở tiểu bang Florida, Hoa Kỳ, khoảng nửa năm để tìm hiểu cuộc sống của họ. Sau đó, ông đã ra loạt bài chấn động nước Mỹ.
Ngay ngày đầu tiên, nhìn thấy James tàn tật, ăn mặc rách rưới và bẩn thỉu, từ trong đáy mắt của những người vô gia cư này đã lập tức biểu lộ ra một sự quan tâm; một người đàn ông trong nhóm đã bước đến, đưa cho James một cây gậy gỗ và nói với anh rằng: “Người anh em, hãy cầm lấy nó, như thế sẽ thuận tiện hơn nhiều”.
James đưa tay đón lấy cây gậy, dùng tay vuốt ve cây gậy này hết lần này đến lần khác, trong lòng không khỏi cảm kích. Đúng lúc đó, một bóng dáng loang loáng phản ánh trên mặt dường, dáng đi không bình thường, ngẩng lên nhìn, trong lòng James cảm thấy như bị cái gì đó thiêu đốt, người đàn ông đưa gậy lúc nãy đang đi cà nhắc… Chống cây gậy này, James dường như cảm thấy có một loại sức mạnh vô hình từ nó truyền đến. Rất mau, anh đã có được tín nhiệm của những người vô gia cư này. Họ dẫn James đi đến nơi đặt những chiếc thùng rác ở các siêu thị, đến khu dân cư để thu lượm thức ăn và phế liệu bị người ta vứt đi. Họ còn nói cho James biết nơi nào có nhiều đồ phế liệu, những phế liệu nào đáng tiền và nên đi lượm vào khung giờ nào, v.v…
Trong một lần trông thấy James bước đi khập khiễng một cách vất vả để lật tìm phế liệu, một anh chàng thanh niên da đen với hàm răng trắng bóng đã bước đến, vỗ nhẹ lên vai của James, đưa cho anh túi phế liệu và nói: “Này người anh em, anh hãy đi sang bên cạnh nghỉ ngơi một chút, túi đồ phế liệu này anh hãy cầm lấy đi!”. James nghe xong, đứng ngẩn ra đó, như thể không tin vào tai mình: “Vậy làm sao được? Những thứ này cậu vất vả lắm mới lượm được mà!” Người lang thang đó nghe xong, khẽ nhếch miệng cười, nói một cách rất vui vẻ: “Tôi dễ dàng hơn anh một chút”. Nói xong, liền quay người bỏ đi.
James xách túi phế liệu đó, nhớ lại câu mà anh chàng da đen vừa nói khi nãy, trong tâm cảm thấy vô cùng ấm áp và cảm động.
Tới buổi trưa, trong lúc đang cảm thấy đói đói, một người đàn ông bị còng lưng trong nhóm đi đến trước mặt James, đưa cho anh hai ổ bánh mì và nói: “Này người anh em, hãy ăn đi!”
James nghe xong, cảm thấy có chút ngại ngùng: “Nếu anh cho tôi, thế thì anh ăn gì đây?”. Người đàn ông nghe xong, khẽ nhếch miệng cười, nói: “Tôi dễ dàng hơn cậu một chút!” Nói xong, liền lảng sang bên cạnh bỏ đi. James cầm hai ổ bánh mì trong tay, nước mắt lã chã rơi, phải rất lâu sau đó mới bình tĩnh lại được.
Đến tối, James cùng vài người vô gia cư rủ nhau co rúc dưới chân cầu. Nhìn thấy James ngủ ở nơi ngoài rìa chân cầu, một ông lão đầu tóc bạc trắng chầm chậm đi đến, vỗ nhẹ vào vai anh rồi nói: “Này người anh em, cậu hãy đến ngủ ở chỗ tôi, ở đó thoải mái hơn một chút”.
James nghe xong, cảm thấy nghi hoặc nói: “Nếu tôi ngủ chỗ ông, thế thì ông ngủ chỗ nào?” Ông lão đó nghe xong, nhoẻn miệng cười, nói: “Tôi dễ dàng hơn cậu một chút!”
Lại là “Tôi dễ dàng hơn cậu một chút!“, James nghĩ, những người vô gia cư sống ở giai tầng thấp nhất trong xã hội này, tuy cuộc sống vô cùng gian khổ, thế nhưng khi họ nhìn thấy người khác khó khăn, đều luôn chìa tay giúp đỡ, họ luôn thấy bản thân mình có một phương diện mạnh hơn người khác.
James sống chung với những người vô gia cư này hơn nửa năm, trong khoảng thời gian hơn nửa năm đó, sớm chiều ở chung đã khiến anh sinh ra tình cảm thân thiết sâu sắc. Chàng trai vô gia cư người da đen tên Ali luôn thích nói đùa kia, một tay bị tàn tật, nhưng cậu vẫn luôn thích giúp đỡ những người bị tật cả hai tay. Khi người này bày tỏ cảm kích, cậu luôn thích nói một câu: “Tôi dễ dàng hơn cậu một chút”.
Anh chàng vô gia cư tên Bobby, thính giác ở hai lỗ tai không được tốt lắm, mỗi lần nhặt được thứ gì tốt, luôn thích chia sẻ một chút cho người bạn vô gia cư có tật ở mắt; khi người này bày tỏ sự cảm kích, anh luôn nói một câu, chính là: “Tôi dễ dàng hơn cậu một chút”.
Anh chàng vô gia cư thân thể ốm yếu tên Chater ấy, luôn thích giúp đỡ người bạn vô gia cư thân thể béo phì kia của mình; khi nhận được sự cảm kích, câu mà Chater thích nói nhất cũng chính là: “Tôi dễ dàng hơn cậu một chút” ...
Không lâu sau đó, James có một loạt bài viết trên trang New York Times với tiêu đề: “Tôi dễ dàng hơn cậu một chút”. Loạt bài báo đã gây sự chấn động lớn đối trái tim và tâm hồn hàng triệu độc giả thân thiết của tờ báo. James ngập trong những bình luận bất tận đầy xúc động của độc giả gửi về. Một nhà bình luận nói, đó thực sự là một loạt bài đánh thức những trái tim đã ngủ quá lâu trong sự thờ ơ, lạnh nhạt ở một đất nước quá coi trọng sự riêng tư.
Bất kỳ ai đọc loạt bài đó đều muốn ngả mũ chào những người vô gia cư mà họ gặp, với sự kính trọng thực sự. Tuy họ sống ở giai tầng thấp nhất trong xã hội, nhưng họ luôn có thể nhìn thấy bản thân mình có ưu thế hơn người khác, và dùng ưu thế nhỏ nhoi ấy để giúp đỡ những người yếu hơn, mang cho người khác một loại cảm giác ấm áp và dũng khí để tiếp tục sống.
Hàng triệu độc giả của tờ báo danh tiếng hàng đầu thế giới bàng hoàng nhận ra, sự rách rưới, bẩn thỉu, tàn tật hay nghèo khó, không ngăn cản con người trở nên tôn quý và cao cả. Và không cần phải giàu có bạn mới có thể trao đi tình yêu thương, nỗi đồng cảm, thậm chí cả một chút vật chất vốn không có mảy may giá trị gì đối với hầu hết mọi người… như là một cây gậy. James đã viết trong loạt bài gây chấn động của mình rằng: “Tôi dễ dàng hơn cậu một chút”, là câu nói kỳ lạ nhất lưu truyền trong những người vô gia cư, câu nói kỳ lạ nhất mà anh từng đươc nghe thấy
trong đời, bời vì mỗi khi nó được thốt ra từ một người vô gia cư tàn tật, rách nát mà với anh là không thế nào khốn khó hơn, nó bỗng biến thành một sức mạnh cảm hoá mãnh liệt khiến hết thảy những quan niệm cố hữu về người khác, sự lạnh nhạt, vô tình, sự hãnh tiến và ích kỉ của một người ở tầng lớp trên như anh tan biến. Nó cho anh một thứ niềm tin về cuộc sống mà anh chưa bao giờ cảm thấy khi đến những toà nhà tráng lệ nhất New York, giữa những chính khách, nhà tài phiệt, hay ngôi sao đỉnh cao thế giới…
Và chúng ta, những con người chắc chắn giàu có hơn rất nhiều những người vô gia cư khốn khổ, lại thường là những kẻ kêu ca than phiền nhiều nhất về số phận. Thực ra cuộc đời sẽ đơn giản và hạnh phúc hơn rất nhiều nếu chúng ta có thể nói “Tôi dễ dàng hơn cậu một chút” với bất kì ai đó mà bạn gặp trên đường đời. Bời vì như những người vô gia cư kia, bạn luôn có thể nói câu nói đầy cảm hứng đó ngay cả khi bạn không có gì cả, ngoài… một trái tim!
Người cho chưa chắc “dễ dàng hơn” người nhận nhưng họ nghĩ họ “dễ dàng hơn” thì họ vẫn cho. Giá trị ở chổ nó đáng giá thế nào đối với người cho chứ ko phải giá trị thực tế của thứ đem cho.:)
 
Con chim ưng của Thành Cát Tư Hãn

Mờ sáng hôm ấy, Đại Hãn, vị hoàng đế vĩ đại và là chiến binh dũng cảm nhất thảo nguyên Mông Cổ, cùng những chiến tướng cận thần phóng ngựa vào rừng bắt đầu một chuyến đi săn mới. Khu rừng mọi hôm yên lặng, hôm nay bỗng rộn lên tiếng người cười nói, tiếng vó ngựa, tiếng chó sủa...
Trên cổ tay Đại Hãn ngất nghểu con chim ưng mà ông rất mực yêu quí. Vào thời đó, chim ưng được huấn luyện để đi săn. Chỉ cần nghe hiệu lệnh của chủ nhân là con chim bay vút lên cao nhìn dáo dác xung quanh tìm kiếm con mồi. Nếu phát hiện thấy nai hoặc thỏ, nó sẽ lao xuống như tên bắn và vồ chặt chúng.
Mặt trời bắt đầu khuất dần sau các dãy núi nhưng Đại Hãn và đoàn tùy tùng vẫn chưa săn được nhiều con mồi như mong đợi. Nóng lòng, Đại Hãn thúc ngựa vượt lên phía trước tách khỏi đoàn. Ông đã quá quen thuộc với khu rừng này. Trong khi mọi người tiếp tục đi theo con đường cũ thì ông lại chọn con đường xa hơn, chạy xuyên qua thung lũng giữa hai dãy núi.
Sau nhiều giờ quần thảo trên ngựa dưới sức nóng của buổi chiều hè, hoàng đế bắt đầu cảm thấy khát nước. Con chim ưng vụt khỏi cổ tay ông và lao vút đi, ông tin là nó sẽ tìm được đường quay về. Chợt ông thấy có nước rỉ ra từ một ghềnh đá. Đại Hãn xuống ngựa, lấy từ trong túi săn một cái cốc nhỏ bằng bạc rồi bước đến hứng những giọt nước đang rỉ ra. Ông kiên nhẫn và biết rằng phải lâu lắm cốc nước mới đầy. Miệng ông khát đắng nên không kịp chờ nước đầy ly, ông vội đưa ngay lên miệng chuẩn bị uống. Bất thình lình, một âm thanh vút lên từ trên không và một vật xẹt ngang tay ông, chiếc ly rơi xuống đất. Thì ra đó là con chim ưng yêu quí của ông. Con chim ưng bay tới bay lui thêm vài lần rồi buông cánh đậu giữa các vách đá bên khe nước.
Đại Hãn nhặt chiếc ly lên và một lần nữa đưa vào hứng lại từng giọt. Lần này ông không đợi lâu hơn. Khi hứng được gần nửa ly, ông nâng ly lên miệng nhưng trước khi chiếc cốc chạm vào môi, con chim ưng lại bay vụt xuống và làm rớt ly nước khỏi tay ông.
Đại Hãn bắt đầu nổi giận. Ông tiếp tục lần nữa và lần thứ ba con chim ưng lại đánh đổ ly nước. Đại Hãn vô cùng giận dữ, hét lớn:
- Con vật khốn kiếp kia, sao ngươi dám làm như thế? Đừng để ta bắt được ngươi, không thì ta sẽ vặn cổ ngươi đó!
Và rồi ông hứng lại ly nước khác. Lần này trước khi đưa lên miệng uống, ông rút gươm cầm trên tay.
- Nào, đây là lần cuối cùng ta chịu đựng ngươi đó! - Đại Hãn nóng giận hét lên thành lời. Gần như ông vừa dứt hết câu, con chim lao nhanh xuống và hất mạnh ly nước. Giờ đây, nhà vua không tha thứ được nữa. Một lằn sáng vút lên và thanh gươm của ông chém trúng con chim. Con chim đáng thương nằm quằn quại và giẫy chết dưới chân chủ nhân nó. Không chút xót thương, Đại Hãn gằn giọng:
- Cái chết thật xứng đáng với tội láo xược của nhà ngươi.
Khi phát hiện chiếc ly bị rơi vào giữa hai tảng đá và ông không thể với lấy nó được, ông tự nhủ “Ta sẽ uống nước tại con suối”. Và ông bắt đầu leo lên sườn đá dốc, ngược theo dòng nước chảy để lần đến con suối. Khi đến nơi, con suối mà ông nghĩ thực ra chỉ là một vũng nước nhỏ, nhưng vật nằm trong đó đã làm nước trào hẳn ra ngoài. Và chính vật này khiến Đại Hãn hoảng sợ thật sự: một con rắn lớn, nổi tiếng là loài cực độc, đang nằm chết rữa giữa vũng nước.
Đại Hãn đứng khựng lại, quên cả cơn khát cháy cổ. Ông đau đớn khi nghĩ đến hành động vừa rồi của mình, cơn tức giận nhất thời đã khiến ông vung gươm giết chết con chim yêu quý - chỉ vì nó muốn cứu mạng ông.
Kể từ đó, hình ảnh con chim ưng giẫy chết trong vũng máu luôn nhắc nhở ông đừng bao giờ hành động điều gì trong cơn tức giận.
Ông ra lệnh làm một bức tượng chim ưng bằng vàng và trên một cánh chim, ông cho khắc dòng chữ:
"THẬM CHÍ KHI MỘT NGƯỜI BẠN LÀM GÌ ĐÓ ANH KHÔNG THÍCH, NGƯỜI ĐÓ VẪN LÀ BẠN CỦA ANH."
Và trên cánh bên kia, được khắc dòng chữ:
"BẤT CỨ HÀNH ĐỘNG NÀO ĐƯỢC THỰC HIỆN TRONG SỰ GIẬN DỮ ĐỀU LÀ HÀNH ĐỘNG ĐƯA ĐẾN SỰ THẬT BẠI"
 
Không đề

Có sư thầy thấy sư tiểu quá mong ngóng công quả tu hành ngộ đạo, tâm tư choáng ngợp những kinh thư luận lí, mà lại bỏ bê việc tưới vườn quét sân, nấu cơm rửa bát. Ông bèn cầm một viên ngói đi ra giữa sân, ngồi xuống từ tốn mài viên ngói xuống mặt sân. Sư tiểu thấy vậy bèn hỏi:
- Thầy Á lị Bà ba, thầy làm gì thế?
- Ta đang mài một cây kim - Sư thầy đáp.
- Ồ, thầy Á lị Bà ba, làm sao thầy mài có thể mài một cây kim từ viên ngói! - Sư tiểu thốt lên
Sư thầy không nói thêm gì chỉ huơ hươ viên ngói, miệng nhoẻn cười. Sư tiểu thoát nhiên đại ngộ. Từ đó tiểu không còn bê trễ trong việc tưới nước gánh phân.
 
Đạo phật truyết lý uyên bát thâm sâu .
Chừng nào con người mà ăn cút trâu sống được
Loài người sẽ thành chánh quả
 
Chú bé và con chó bị tật

Ông chủ một cửa hàng nọ treo một cái bảng lên cửa với dòng chữ “Ở đây có bán chó”. Những tấm bảng như vậy rất thu hút bọn trẻ và ngay sau đó một cậu bé xuất hiện, hỏi ông chủ cửa hàng:
“Bác bán những con chó đó bao nhiêu tiền?”.
Ông chủ cửa hàng đáp: “Giá nào cũng có cả, từ 30 đến 50 đô la”.
Nghe xong, cậu bé rút trong túi ra vài tờ bạc lẻ và nói: “Cháu chỉ có 2 đô 37 xu, cháu có thể xem chúng được không?”.
Ông chủ mỉm cười rồi huýt sáo và từ trong chiếc cũi mấy chú chó lông có đốm nhỏ tròn chạy ra, một con khập khiễng chạy sau cùng. Cậu bé chỉ chú chó khập khiễng và hỏi:
“Nó bị sao thế hả bác?”.
Ông chủ giải thích rằng chú chó không có hốc xương hông, vì vậy mà nó bị tật và phải đi khập khiễng. Giọng cậu bé bỗng trở nên sôi nổi:
“Đó chính là chú chó mà cháu muốn mua”.
Ông chủ cửa hàng nói:
“Không, cháu sẽ không muốn mua chú chó nhỏ đó đâu. Còn nếu cháu thật sự thích nó, bác sẽ cho cháu”.
Cậu bé trở nên buồn buồn, rồi nhìn thẳng vào mắt ông chủ cửa hàng và nói:
“Cháu không muốn bác cho cháu chú chó nhỏ này. Nó cũng có cái giá riêng của nó như những chú chó khác. Cháu sẽ trả đúng số tiền đó. Nhưng bây giờ cháu chỉ có 2 đô 37 xu, số tiền còn lại cháu sẽ trả bác 50 xu mỗi tháng cho đến khi nào đủ thì thôi”.
Ông chủ nhận tiền và bảo:
“Cháu thật sự không muốn mua con chó này đâu. Nó sẽ không bao giờ có thể chạy nhảy và chơi với cháu như những con chó khác được”.
Nghe thấy thế, cậu bé cúi xuống kéo quần lên để lộ chân trái bị tật quấn đầy băng và được nẹp bởi thanh kim loại lớn. Cậu ngước nhìn lên ông chủ và nhẹ nhàng đáp:
“Bản thân cháu cũng không chạy nhảy được tốt, và cháu nghĩ chú chó nhỏ kia sẽ cần một người hiểu và chia sẻ với nó”.
 
Đừng lướt qua nhau

Một chàng thanh niên trẻ và thành đạt đang ngao du trên phố bằng chiếc xe oto mới. Anh ta đi khá nhanh nhưng vẫn tò mò quan sát mấy đứa trẻ con đang ném thứ gì đó từ bãi đỗ xe. Bất chợt…
Anh thoáng thấy có vật vừa ném vào xe mình. Dừng xe ngay lập tức, nhưng anh không thấy có một ai.
Thay vào đó là vết tích của một viên gạch đã đập mạnh vào bên cạnh cánh cửa chiếc oto. Đạp phanh, lái chiếc xe quay trở lại nơi mà viên gạch đã được ném ra, người lái xe giận dữ nhảy ra ngoài. Anh ta tóm lấy cậu bé gần nhất và đẩy cậu sát lại chỗ đỗ oto, quát lớn:
“Viên gạch này là sao và mày là ai? Mày vừa làm cái quái quỷ gì thế? Đó là cái oto mới và viên gạch mày ném sẽ khiến tao phải mất rất nhiều tiền để sửa nó. Mày có biết điều đó không? Tại sao mày lại làm vậy?”.
Cậu bé có vẻ hoảng sợ: “Cháu thực sự xin lỗi... Nhưng cháu không biết làm cách nào khác. Cháu đã ném viên gạch vì không một ai dừng lại giúp cháu cả”.
Những giọt nước mắt bắt đầu chảy dài xuống mặt và cằm cậu bé, cậu chỉ vào chỗ khuất bãi đỗ xe gần đó.
“Kia là anh trai cháu”, cậu nói. “Anh ấy bị chệch bánh xe lăn và ngã ra lề đường nhưng cháu thì không thể nào đỡ nổi anh ấy lên”.
Nước mắt trực trào ra, cậu bé hỏi người thanh niên còn đang ngỡ ngàng: “Ông có thể giúp cháu đưa anh ấy trở lại xe lăn không ạ? Anh ấy bị thương, anh ấy quá nặng đối với cháu”.
Không nói nên lời, người lái xe vội vã chạy ngay đến và nâng cậu bé tàn tật lên lại chiếc xe lăn. Sau đó, lại gần chiếc xe, anh sờ tay vào vết xước. Vết cắt còn mới, nhưng một thoáng trong đầu, anh thấy, thực ra thì cũng chưa đến mức quá tệ.

“Cám ơn ông. Chúa sẽ ban phước lành cho ông”. Đứa trẻ xúc động nói với người lạ mặt.

Sửng sốt trước thái độ của đứa trẻ, chàng thanh niên nhìn theo đứa trẻ đẩy chiếc xe lăn xuống vỉa hè hướng về nhà của nó.

Nhìn lại chiếc oto, sự hư hại rất dễ nhận thấy nhưng anh không bao giờ băn khoăn đến chuyện sửa chữa vết lõm ở cạnh cửa nữa. Anh sẽ giữ vết lõm đó để nhắc nhở mình rằng: “Đừng đi qua cuộc sống quá nhanh, và nếu có ai đó ném đá vào bạn thì hãy khoan tức giận, rất có thể họ đang cần bạn giúp đỡ.”
 
14) THẾ À!

Thiền sư Hakuin là một vị thầy đạo hạnh khiêm nhu, lối sống giản dị, thanh tịnh.
Cạnh thiền tự nơi ngài sinh sống có một gia đình làm nghề buôn bán. Một ngày nọ, gia nhân bất ngờ phát giác cô con gái trong nhà có thai mà không biết cha đứa trẻ là ai. Bị người nhà đánh đập dọa nạt, cô gái khai rằng đã tằng tịu với sư Hakuin và cái thai này là con của ông.
Gia đình vô cùng tức giận lên chùa bắt sư Hakuin phải chịu trách nhiệm với con gái mình. Nhà sư nghe xong câu chuyện chỉ nói hai từ: “Thế à!”
Cô gái sinh con xong, đứa bé sơ sinh liền được mang tới nhà chùa. Sư Hakuin ẵm đứa trẻ đi khắp nơi xin sữa, xin vật dụng áo quần từ các gia đình trong làng. Ông chăm sóc đứa bé tận tụy như một người mẹ chăm nom đứa con duy nhất.
Lúc này, danh dự của nhà sư bị tổn hại nghiêm trọng nhưng trước những câu hỏi cạnh khóe, ngài chỉ trả lời bằng hai chữ: “Thế à!”
Càng lớn đứa trẻ nhìn càng không giống nhà sư, cả làng lúc này mới xì xào rằng hình như ông bị oan. Đến khi không thể giấu nổi sự việc nữa, cô gái khóc lóc quỳ lạy xin sư Hakuin tha thứ và thú nhận đứa bé là con anh hàng cá ở ngoài chợ.
Lúc này thiền sư Hakuin chỉ đáp: “Thế à!”. Rồi ông trao lại đứa bé cho cô gái, quay lại thiền tự sống.
Thế là mất nhiều năm nuôi con người khác , ko có vợ mà thèm đứa con khổ thặt .:vozvn (21):
 
DỤC VỌNG

Một vị tăng nhân hốt hoảng từ trong rừng chạy đến, vừa khéo gặp hai người bạn vô cùng thân thiết đang tản bộ bên rừng. Họ hỏi vị tăng nhân: “Chuyện gì mà ông hốt hoảng quá vậy?”
Vị tăng nhân nói: “Thật là kinh khủng, tôi đào được một đống vàng ở trong rừng!”
Hai người bạn, không nhịn được liền nói: “Thật đúng là tên đại ngốc! Đào được vàng, việc tốt như thế mà ông lại cho là kinh khủng, thật không thể hiểu nổi!”
Thế là họ lại hỏi vị tăng nhân kia: “Ông đào được vàng ở đâu? Chỉ cho chúng tôi xem với!”
Vị tăng nhân nói: “Thứ xấu xa như thế, các ông không sợ sao? Nó sẽ nuốt chửng người ta đấy!”
Hai người kia gạt phăng, hùng hổ nói: “Chúng tôi không sợ, ông mau mau chỉ chỗ xem nào!”
Vị tăng nhân nói: “Chính là bên dưới cái cây ở bìa rừng phía tây.”
Hai người bạn liền lập tức tìm đến chỗ vị tăng nhân vừa chỉ, quả nhiên phát hiện được số vàng đó. Người này liền nói với người kia rằng: “Tên hòa thượng đó đúng là ngốc thật, thứ vàng bạc mà mọi người đều khao khát đang ở ngay trước mắt, thế mà lại trở thành quái vật ăn thịt người”. Người kia cũng gật đầu đồng tình.
Thế là họ bàn với nhau làm thế nào để chuyển số vàng này về nhà. Một người trong đó nói: “Ban ngày mà đem nó về thật không an toàn cho lắm, hay là đêm đến chúng ta mới vận chuyển, vậy sẽ chắc ăn hơn. Tôi ở lại đây canh chừng, ông hãy về mang chút cơm rau trở lại, chúng ta ăn cơm rồi đợi đến trời tối mới chuyển số vàng này về nhà”.
Người kia liền làm theo người bạn nói. Người ở lại nghĩ: “Nếu như số vàng này đều thuộc về sở hữu của riêng ta thì hay biết mấy! Đợi hắn quay lại, ta hãy dùng cây gậy gỗ đánh chết đi, vậy thì toàn bộ số vàng này là của ta hết rồi”.
Thế là khi người bạn đem cơm rau đến khu rừng, người kia liền từ phía sau lưng dùng gậy gỗ đánh mạnh vào đầu khiến ông ta chết ngay tại chỗ, sau còn nói rằng: “Bằng hữu ơi, chính là số vàng này buộc tôi phải làm như vậy”.
Sau đó ông ta vớ lấy thức ăn mà người bạn mang đến, ăn ngấu nghiến. Chưa được bao lâu, người này cảm thấy rất khó chịu, trong bụng giống như bị lửa thiêu đốt. Khi đó, ông ta mới biết rằng mình đã bị trúng độc. Trước lúc chết, ông mới nói rằng: “Lời hòa thượng đó nói quả thật không sai!”.
 
THÀNH THẬT

Chuyện kể rằng, trước đây có hai người bạn trẻ tuổi thân thiết, thường ngày đều đối xử tốt với nhau. Một người tên là Thông Minh, người còn lại tên là Thành Thật. Một ngày nọ, hai người bạn lên thuyền đi ngao du cùng nhau.
Nhưng khi họ đang ngồi thuyền trên biển thì gặp phải một cơn bão to gió lớn. Chiếc thuyền mà hai người đang đi đã bị nhấn chìm ngay sau đó. Chiếc thuyền cứu nạn chỉ có một chỗ, người thanh niên trẻ tuổi tên là Thông Minh vừa thấy tình hình không hay liền nhanh chóng lên thuyền cứu nạn, đẩy người bạn xuống nước.
Người thanh niên tên Thành Thật may mắn gặp đại nạn mà không chết. Anh ta bị sóng biển đẩy đến một hòn đảo nhỏ hoang vắng. Thành Thật hoảng hốt sợ hãi nhưng không còn cách nào khác đành phải ngồi trên bờ cát chờ thuyền cứu viện.
Chẳng bao lâu sau, quả nhiên từ xa có một chiếc thuyền cùng với những bản nhạc vui nhộn đi tới. Thành Thật lập tức đứng dậy, nhìn về phía con thuyền đang mở nhạc và vô cùng mừng rỡ vì con thuyền đang tến về phía hòn đảo hoang vu. Anh nhìn thấy trên chiếc thuyền có một lá cờ đề hai chữ Sung Sướng.
Thành Thật vội gọi to: “Sung Sướng! Sung Sướng! Tôi là Thành Thật đây. Anh hãy cứu tôi với!”
Sung Sướng vừa nghe tiếng gọi thì liền đáp trả: “Không thể, không thể! Nếu tôi mà có thành thật thì sẽ không thể sung sướng được đâu. Anh hãy nhìn xem, trên thế giới này có biết bao nhiêu người bởi vì nói lời thành thật mà không được sung sướng, vui vẻ?” Vừa dứt lời, Sung Sướng liền rẽ hướng khác mà đi.
Một thời gian sau, một chiếc thuyền nhỏ gắn tên Địa Vị đi tới. Thành Thật vội gọi to: “Địa Vị! Địa Vị! Tôi là Thành Thật, anh có thể cho tôi về được không?”
Địa Vị vừa nghe, vội chèo thuyền ra xa và quay đầu nói: “Không được, không được! Tôi không thể cho anh lên thuyền của tôi được. Địa vị của tôi đạt được không dễ dàng gì, nếu như có anh thì tôi khó mà giữ vững được địa vị của mình!”
Thành Thật vô cùng thất vọng nhìn Địa Vị rời đi, trong lòng tràn ngập nghi hoặc và khó hiểu. Anh ta đành phải ngồi trên bờ cát nơi đảo hoang tiếp tục đợi chờ.
Rất lâu sau lại có một con thuyền nữa đi tới. Thành Thật vừa thấy con thuyền mang tên Cạnh Tranh đến liền hô lớn: “Cạnh Tranh! Cạnh Tranh! Tôi là Thành Thật. Anh có thể cho tôi lên thuyền của anh để về nhà được không?”
Cũng như những con thuyền trước, Cạnh Tranh vừa nghe thấy, vội vàng từ chối: “Anh đừng đem phiền toái đến cho tôi. Hiện giờ thế giới cạnh tranh khốc liệt như vậy, tôi nếu mà có anh thì sao cạnh tranh nổi với người ta đây?” Nói dứt lời, Cạnh Tranh lập tức rời đi.
Một lúc sau, đột nhiên trên bầu trời những tia chớp và tiếng sấm sét nổi lên. Cuồng phong cuồn cuộn thổi tới làm sóng biển dâng lên dữ dội. Thành Thật đang ở vào lúc tuyệt vọng nhất thì chợt nghe thấy một âm thanh vừa đôn hậu vừa thân thiết: “Cậu bé! Hãy lên thuyền đi!”
Thành Thật nhìn lên thì nhận ra đó chính là ông lão Thời Gian, bèn hỏi: “Vì sao ông lại cứu tôi?”
Ông lão Thời Gian mỉm cười đáp: “Chỉ có thời gian mới có thể chứng minh được thành thật là quan trọng đến mức nào!”
Trên hành trình trở về nhà, ông lão Thời Gian chỉ vào những con thuyền bị sóng đánh lật mà trên đó có chở Thông Minh, Sung Sướng, Địa Vị, Cạnh Tranh rồi trầm mặc nói: “Đã không còn Thành Thật, thì Thông Minh sẽ chỉ làm hại chính mình, Sung Sướng sẽ không được lâu dài, Địa Vị chỉ là thứ giả tạo và Cạnh Tranh cũng sẽ thất bại mà thôi!”
 
CHIẾC CHĂN BÔNG

Một tiểu hòa thượng chán nản thất vọng nói với lão hòa thượng: "Trong cái chùa nhỏ bé này chỉ có hai hòa thượng chúng ta, lúc con đi xuống núi hóa duyên, mọi người đều là nói những lời ác với chúng ta, còn thường xuyên gọi con là hòa thượng hoang.Họ cho chúng ta tiền hương khói càng ngày càng ít đến thê thảm".
Tiểu hòa thượng nói tiếp: "Hôm nay con đi khất thực, trời lạnh như vậy mà không có một ai mở cửa cho con, đến cơm bố thí cũng được ít. Chùa Bồ Đề chúng ta muốn thành một ngôi chùa ngàn gian, tiếng chuông vang xa không ngớt như Sư Phụ nói, con e là không thể".
Lão hòa thượng khoác lên mình chiếc áo cà sa không nói lời nào, chỉ nhắm mắt lại lẳng lặng nghe, tiểu hòa thượng cứ nói và cằn nhằn liên miên…
Cuối cùng lão hòa thượng mở mắt to hỏi: "Bây giờ bên ngoài gió bấc thổi mạnh, lại có băng tuyết ngập trời, con có thấy lạnh không?"
Tiểu hòa thượng toàn thân run rẩy nói: "Con lạnh, hai chân con đều tê cóng cả rồi!"
Lão hòa thượng nói: "Vậy chi bằng chúng ta đi ngủ sớm đi".
Lão hòa thượng và tiểu hòa thượng tắt đèn chui vào trong chăn ngủ. Một giờ sau, lão hòa thượng hỏi: "Bây giờ con có thấy ấm không?"
Tiểu hòa thượng trả lời: "Đương nhiên là con thấy ấm rồi, giống như ngủ dưới ánh mặt trời vậy!"
Lão hòa thượng nói: "Khi nãy, chăn bông để ở trên giường là lạnh, thế nhưng khi có người nằm vào lại trở nên ấm áp. Con thử nói xem, là chăn bông sưởi ấm cho người hay là người sưởi ấm cho chăn bông đây?"
Tiểu hòa thượng nghe xong liền nở một nụ cười nói: "Sư phụ, người thật là hồ đồ đó, chăn bông làm sao có thể sưởi ấm cho người được, phải là do con người làm chăn bông ấm lên mới đúng chứ!"
Lão hòa thượng hỏi: "Chăn bông đã không cho chúng ta sự ấm áp lại còn cần chúng ta đi sưởi ấm nó, như thế thì chúng ta còn đắp chăn bông làm gì?"
Tiểu hòa thượng nghĩ nghĩ một lát rồi nói: "Mặc dù chăn bông không sưởi ấm cho chúng ta, nhưng chăn bông dày lại có thể giữ hơi ấm cho chúng ta, khiến cho chúng ta ngủ được thoải mái".
Trong bóng tối, lão hòa thượng mỉm cười: "Chúng ta là hòa thượng tụng kinh rung chuông, chẳng phải là giống người nằm dưới chăn bông? Còn những chúng sinh kia chẳng phải họ là một cái chăn bông dày đó sao? Chỉ cần chúng ta một lòng hướng thiện, thì chiếc chăn bông lạnh như băng kia cuối cùng cũng sẽ được chúng ta sưởi ấm. Lúc đó "cái chăn bông" dày kia cũng sẽ biết giữ ấm cho chúng ta. Chúng ta ngủ trong "cái chăn bông" như vậy, chẳng phải rất ấm áp sao? Ngôi chùa ngàn gian, tiếng chuông chùa ngân vang không ngớt, còn có thể là trong mơ được sao?"
Tiểu hòa thượng nghe xong liền bừng tỉnh mà hiểu ra hết.
Bắt đầu từ ngày hôm sau, tiểu hòa thượng đều dậy rất sớm đi xuống núi hóa duyên. Tiểu hòa thượng cũng vẫn gặp phải những lời ác như trước đây. Thế nhưng tiểu hòa thượng trước sau gì đều giữ vững thái độ nho nhã và lễ độ đối xử với mọi người.
 
Ổ BÁNH MÌ
Có một người phụ nữ khi nướng bánh mì cho gia đình mình luôn làm dư ra một cái để cho người nghèo đói. Bà để ổ bánh mì dư trên thành cửa sổ bên ngoài cho người nghèo nào đó đi qua dễ lấy. Và một người gù lưng đều đặn đến để lấy ổ bánh mì đó.
Thay vì nói lời cám ơn, ông ta vừa đi vừa lẩm bẩm những lời như niệm chú:
“Việc xấu người làm thì ở lại với người; việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người!”. Điều này cứ diễn ra, ngày này qua ngày khác.
Mỗi ngày, người gù lưng đến lấy bánh và lại lẩm bẩm câu :
“Việc xấu người làm thì ở lại với người, việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người!”
Người đàn bà rất bực bội. Bà thầm nghĩ:
“Không một lời cám ơn, ngày nào người gù này cũng đến lấy bánh ta làm rồi lải nhải giai điệu khó chịu ấy! Hắn ta muốn ám chỉ điều gì?”
Một ngày kia, không chịu được nữa, bà quyết định cho người gù đi khuất mắt.
Bà tự nhủ, “Ta sẽ làm cho hắn mất dạng.” Và bà đã làm gì ? Bà cho thuốc độc vào ổ bánh mì dư bà thường làm. Khi bà sắp sửa bỏ ổ bánh có thuốc độc lên thành cửa sổ, đôi tay bà bỗng run lên.
Bà hốt hoảng: – “Ta làm gì thế này?”
Ngay lập tức, bà ném ổ bánh có thuốc độc vào lửa và vội làm một cái bánh mì ngon lành khác rồi đem để lên thành cửa sổ.
Như mọi khi, người gù lưng đến, ông ta lấy bánh và lại lẩm bẩm:
“Việc xấu người làm thì ở lại với người; việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người.”
Ông ta cầm ổ bánh đi cách vui vẻ mà không biết rằng trong lòng người đàn bà đang có một trận chiến giận dữ.
Có một điều mà không ai biết đó là mỗi khi đặt ổ bánh mì cho người nghèo lên thành cửa sổ, bà lại cầu nguyện cho đứa con trai đi xa tìm việc làm, đã nhiều tháng không nhận được tin tức. Bà nguyện cho con trở về nhà bình an, mạnh giỏi.
Buổi chiều hôm đó, có tiếng gõ cửa.Khi mở cửa ra, bà ngạc nhiên thấy con trai mình đứng trước cửa. Anh ta gầy xọp đi. Quần áo anh rách rưới đến thảm hại. Anh ta đói lả và mệt. Khi trông thấy mẹ, anh ta nói:
– Mẹ ơi, con về được đến nhà quả là một phép lạ. Khi con còn cách nhà mình cả dặm đường, con đã ngã gục vì đói, không đi nổi nữa và tưởng mình sẽ chết dọc đường. Nhưng bỗng có một người gù lưng đi ngang, con xin ông ta cho con một chút gì để ăn, và ông ta đã quá tử tế cho con nguyên một ổ bánh mì ngon. Khi đưa bánh cho con, ông ta nói:
– Đây là cái mà tôi có mỗi ngày, nhưng hôm nay tôi cho anh vì anh cần nó hơn tôi!
Khi người mẹ nghe những lời đó, mặt bà biến sắc. Bà phải dựa vào thành cửa để khỏi ngã. Bà nhớ lại ổ bánh mì có thuốc độc mà bà đã làm sáng hôm nay. Nếu bà không ném nó vào lửa thì con trai yêu quý của bà đã ăn phải và đã chết!
Ngay lập tức bà nhớ lại câu nói có ý nghĩa đặc biệt của người gù lưng:
“Việc xấu người làm thì ở lại với người; việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người!”
 
GIẤY CHỨNG NHẬN

Trên đoàn tàu Thống Nhất Bắc Nam, cô soát vé hết sức xinh đẹp cứ nhìn chằm chằm vào người đàn ông lớn tuổi áng chừng đi làm thuê, hạch sách:
- Vé tàu!
Người đàn ông lớn tuổi lục khắp người, từ trên xuống dưới, một thôi một hồi, cuối cùng tìm thấy vé, nhưng cứ cầm trong tay không muốn chìa ra. Cô soát vé liếc nhìn vào tay anh, cười trách móc:
- Đây là vé trẻ em.
Người đàn ông đứng tuổi đỏ bừng mặt, nhỏ nhẹ đáp:
- Vé trẻ em chẳng phải ngang giá vé người tàn tật hay sao?
Giá vé trẻ em và người tàn tật đều bằng một nửa vé, đương nhiên cô soát vé biết. Cô nhìn kỹ người đàn ông một lúc rồi hỏi:
- Anh là người tàn tật?
- Vâng, tôi là người tàn tật.
- Vậy anh cho tôi xem giấy chứng nhận tàn tật.
Người đàn ông tỏ ra căng thẳng. Anh đáp:
- Tôi... không có giấy tờ. Khi mua vé cô bán vé bảo tôi đưa giấy chứng nhận tàn tật, không biết làm thế nào, tôi đã mua vé trẻ em
Cô soát vé cười gằn:
- Không có giấy chứng nhận tàn tật, làm sao chứng minh được anh là người tàn tật?
Người đàn ông đứng tuổi im lặng, khe khẽ tháo giầy, rồi vén ống quần lên - Anh chỉ còn một nửa bàn chân. Cô soát vé liếc nhìn, bảo:
- Tôi cần xem chừng từ, tức là quyển sổ có in mấy chữ "Giấy chứng nhận tàn tật", có đóng con dấu bằng thép của Hội người tàn tật!
Người đàn ông đứng tuổi có khuôn mặt quả dưa đắng, giải thích:
- Tôi không có hộ khẩu của địa phương, người ta không cấp sổ tàn tật cho tôi. Hơn nữa, tôi làm việc trên công trường của tư nhân. Sau khi xảy ra sự cố ông chủ bỏ chạy, tôi cũng không có tiền đến bệnh viện giám định...
Trưởng tàu nghe tin, đến hỏi tình hình. Người đàn ông đứng tuổi một lần nữa trình bày với trưởng tàu mình là người tàn tật, đã mua một chiếc vé có giá trị bằng vé của người tàn tật ...Trưởng tàu cũng hỏi:
- Giấy chứng nhận tàn tật của anh đâu?
Người đàn ông đứng tuổi trả lời anh không có giấy chứng nhận tàn tật. Sau đó, anh cho Trưởng tàu xem nửa bàn chân của mình. Trưởng tàu cũng không thèm nhìn, cứ nhất quyết nói:
- Chúng tôi chỉ xem giấy chứng nhận, không xem người. Có giấy chứng nhận tàn tật chính là người tàn tật, có giấy chứng nhận tàn tật mới được hưởng chế độ ưu đãi vé người tàn tật. Anh mau mau mua vé bổ sung.
Người đứng tuổi bỗng thẫn thờ. Anh lục khắp lượt các túi trên người và hành lý, chỉ có bốn đồng, hoàn toàn không đủ mua vé bổ sung. Anh nhăn nhó và nói với trưởng tàu như khóc:
- Sau khi bàn chân tôi bị máy cán đứt một nửa, không bao giờ còn đi làm được nữa. Không có tiền, ngay đến về quê cũng không về nổi. Nửa vé này cũng do bà con đồng hương góp mỗi người một ít để mua giùm, xin ông mở lượng hải hà, giơ cao đánh khẽ, nương bàn tay cao quý, tha cho tôi. Trưởng tàu nói kiên quyết:
- Không được!
Thừa dịp, cô soát vé nói với Trưởng tàu:
- Bắt anh ta lên đầu tàu xúc than, coi như làm lao động nghĩa vụ.
Nghĩ một lát, trưởng tàu đồng ý:
- Cũng được.
Một đồng chí lão thành tỏ ra chướng tai gai mắt, đứng phắt lên, nhìn chằm chằm vào mắt vị trưởng tàu, hỏi:
- Anh có phải đàn ông không?
Vị trưởng tàu không hiểu, hỏi lại:
- Chuyện này có liên quan gì đến tôi có là đàn ông hay không?
- Anh hãy trả lời tôi, anh có phải đàn ông hay không?
- Đương nhiên tôi là đàn ông!
- Anh dùng cái gì để chứng minh anh là đàn ông? Anh đưa giấy chứng nhận đàn ông của mình cho mọi người xem xem?
Mọi người chung quanh cười rộ lên. Thừ người ra một lát, vị truởng tàu nói:
- Một người đàn ông to lớn như tôi đang đứng đây, lẽ nào lại là đàn ông giả?
Đồng chí lão thành lắc lắc đầu, nói:
- Tôi cũng giống anh chị, chỉ xem chứng từ, không xem người, có giấy chứng nhận đàn ông, sẽ là đàn ông, không có giấy chứng nhận đàn ông, không phải đàn ông.
Vị trưởng tàu ngay một lúc không biết ứng phó ra sao. Cô soát vé đứng ra giải vây cho Trưởng tàu. Cô nói với đồng chí lão thành:
- Tôi không phải đàn ông. Có chuyện gì ông cứ nói với tôi.
Đồng chí lão thành chỉ vào mặt chị ta, nói thẳng thừng:
- Cô hoàn toàn không phải người!
Cô soát vé bỗng nổi cơn tam bành, nói the thé:
- Ông ăn nói sạch sẽ một chút. Tôi không là người thì là gì?
Đồng chí lão thành vẫn bình tĩnh, cười ranh mãnh, ông nói:
- Cô là người ư? Cô đưa giấy chứng nhận "người" của cô ra xem nào...
Mọi hành khách chung quanh lại cười ầm lên một lần nữa.
Chỉ có một người không cười.
 
QUÂN TỬ KẾT GIAO NHẠT NHƯ NƯỚC

Cổ nhân giảng: “Quân tử chi giao đạm nhược thủy, tiểu nhân chi giao cam nhược lễ; quân tử đạm dĩ thân, tiểu nhân cam dĩ tuyệt”. Người quân tử khi kết giao thì đạm nhạt như nước, còn tình cảm giao hảo của kẻ tiểu nhân lại ngọt ngào như rượu. Kết giao của người quân tử tuy nhạt nhưng lâu dài thân thiết, tình cảm của kẻ tiểu nhân tuy ngọt ngào, vồ vập nhưng rồi lại dẫn đến tuyệt giao. Câu nói “Người quân tử kết giao đạm nhạt như nước” có liên quan đến một điển cố thời nhà Đường như sau:

Tiết Nhân Quý là danh tướng thời Đường, từ nhỏ đã chuyên tâm luyện văn luyện võ nhưng gia cảnh lại vô cùng bần hàn khó khăn. Thời điểm chưa được công thành danh toại, vợ chồng Tiết Nhân Quý sống trong cảnh cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc.
Tiết Nhân Quý kết nghĩa anh em với Vương Mậu Sinh. Vợ chồng Vương Mậu Sinh không chê gia cảnh Tiết Nhân Quý, mà còn thường xuyên tiếp tế cho họ, dù bản thân cũng không phải giàu có gì.
Về sau, Tiết Nhân Quý đi theo Đường Thái Tông chinh chiến nhiều năm, lập được chiến công hiển hách, nhờ đó mà được phong làm Bình Liêu Vương.
Ngày Tiết Nhân Quý nhậm chức, văn võ bá quan trong triều đến chúc mừng ông, nhưng Tiết Nhân Quý đều khước từ không nhận quà của mọi người. Duy chỉ có hai vò “rượu ngon”mà Vương Mậu Sinh gửi đến là Tiết Nhân Quý nhận lấy.
Vừa mở vò rượu ra thì quan chấp sự Khải Phong giật mình sợ hãi, bởi ông phát hiện ra vò rượu bên trong lại toàn là nước lã.
Tiết Nhân Quý nghe chuyện, chẳng những không tức giận mà còn lệnh cho quan chấp sự mang bát ra, trước mặt mọi người uống ba bát nước trong mà Vương Mậu Sinh đưa tới.
Văn võ bá quan thấy vậy, lấy làm khó hiểu, Tiết Nhân Quý liền nói:
“Lúc trước, khi ta khốn khó, tất cả đều nương nhờ vào sự giúp đỡ của vợ chồng Vương huynh. Nếu không có sự giúp đỡ của họ sẽ không có vinh hoa phú quý của ta ngày hôm nay. Hiện giờ hậu lễ của các vị, ta không nhận, lại cố tình nhận lấy nước trong do Vương huynh đưa tới, bởi vì ta biết Vương huynh bần hàn. Tặng ta nước trong cũng là tâm ý tốt của Vương huynh, đây gọi là người quân tử kết giao đạm nhạt như nước.”
Từ đó về sau, mối quan hệ giữa Tiết Nhân Quý và Vương Mậu Sinh càng thêm gắn bó thắm thiết hơn. Giai thoại “Quân tử chi giao đạm nhược thủy” cũng vì thế mà được lưu truyền.
Lão Tử giảng: “Thượng thiện nhược thủy”, cái Thiện cao thượng thì giống như nước vậy. Nước trong thuần khiết, hễ bị trộn lẫn với thứ bẩn gì thì liền nhìn thấy được ngay. Tình bạn hễ mang vào những tạp niệm về lợi ích vật chất ở nơi thế tục và tình cảm riêng tư thì không còn thuần tịnh nữa. Người quân tử kết giao là giữa tâm với tâm, mối liên hệ của họ là dựa trên đạo nghĩa, do đó nó thuần khiết và cao thượng giống như nước trong vậy. Có như thế thì mới có thể gắn bó lâu dài, thậm chí là bất tận, mãi trường tồn cùng thời gian như điển cố giữa Tiết Nhân Quý và Vương Mậu Sinh vậy.
 
CHỈ NHỚ TRÊN ĐẦU MỘT CHỮ "NHƯ"

Trong Thiền môn, nhiều người đều biết đến bài kệ nổi tiếng và khá đặc biệt của Tổ Phước Hậu:
“Kinh điển lưu truyền tám vạn tư
Học hành không thiếu cũng không dư
Năm nay nghĩ lại chừng quên hết
Chỉ nhớ trên đầu một chữ NHƯ.”


Cái trước tiên nhớ chữ Như tức là nhớ Như Lai, hầu như ai cũng nghĩ vậy. Như Lai chính là Thầy của mình. Học trò không nhớ Thầy là vô ân. Mà là Thầy gốc. Thầy xưa. Thầy đầu tiên dẫn dắt mình đi trên con đường Thánh thiện. Đó chính là Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Vị Thầy đó nếu quên, thì cho dù học nhiều học giỏi, học nữa, học mãi đến đâu cũng vô ích mà thôi.
Nhớ Thầy là nhớ đến cuộc đời của Thầy đã từ bỏ tất cả ngai vàng quốc thổ, vợ đẹp con xinh, quyền lực đế vương, hưởng thụ dục lạc mà dấn thân đi tìm con đường cứu chúng sanh thoát khỏi cảnh mê lầm, đau khổ. Nhớ những tháng năm Thầy nhịn đói nhịn khát miệt mài khổ hạnh để suy tầm chân lý. Nhớ Thầy tình thương rộng lớn thương chúng sanh mà rày đây mai đó dạy bảo và hóa độ. Nhớ Thầy trước khi mất còn căn dặn những người học trò thân thương rằng các con phải ráng giữ gìn Giới luật, vì đó chính là Thầy. Thầy sẽ mãi mãi bên cạnh các con. Và nhớ… Nhớ nhiều lắm… hơn cả cuộc đời của Thầy!
Nhớ rồi mới thấy thương. Thương Thầy, cũng thương lấy mình. Thương mình sanh ra đời thì Thầy đã mất, không gặp được Thầy. Thương mình sao đã được học lời dạy của Thầy mà cứ mãi còn đắm đuối lưu luyến ở chiếc bè, ở ngón tay, ở phương tiện, ở tín ngưỡng Thần linh… Xem Thầy như một vị Thần có thể cho mình hạnh phúc giàu sang sung sướng? Rồi bày ra đủ nghi lễ van cầu xin xỏ.
Thương mình rồi lại giận mình. Giận tại sao đã biết rằng mình đang lạc vào mê cung “phương tiện”, may có bạn tốt dẫn ra khỏi trận đồ “ngũ dục, bát phong” sao không mau chóng chạy ra, mà còn nấn ná chần chừ bịn rịn? Vô thường chợt đến, thì mọi chuyện chấm dứt tại đây. Nhưng nào có chấm dứt ở nơi kia. Chết không phải là hết. Mà là bắt đầu một cái sống mới. Tiếp tục ngoi lên hay hụp xuống trong dòng đời ô trược? Hay phải mang lông đội sừng trả nợ cho đời? Hay “Mãi mãi làm khách phong trần, lang thang đất khách xa dần cố hương”? (Trần Nhân Tông).

Cái thứ hai nhớ Như, là nhớ Như Lai, tức Chân như thực tướng của các pháp, là tính Phật, là Bồ đề tâm. Như Lai ấy không đản sinh ở thành Ca tỳ la vệ, cũng không nhập diệt ở Sa la song thọ. Bất sanh bất diệt. Không phải của riêng ta mà là của tất cả chúng sanh. Là tri kiến Phật. Mỗi mỗi chúng sanh đều bình đẳng có. Học nhiều chỉ nhớ chữ nghĩa để biện bác thao thao, hí luận chẳng thôi, mà không nhớ tính Phật, nhớ Bồ đề tâm trong mình, thì mọi thực hành theo đó đều trở thành tà vạy. Tính Phật là vô lượng tâm từ bi hỉ xả. Bồ đề tâm là tự lợi lợi tha, là lục độ vạn hạnh gồm đủ từ bi trí tuệ. Chỉ bấy nhiêu nhớ để mà hành là đã không thiếu, không dư lắm rồi.

Cái thứ ba nhớ Như, tức là nhớ đến Như thị. Hòa mình trong đời với cái nhìn Như thị. Tức nhìn như vậy. Nhìn như vậy mà không phải vậy. Không phải vậy mới chính là như vậy. “Nếu thấy các tướng không phải tướng tức thấy Như Lai” (Kinh Kim Cang). Nhìn Chánh kiến. Nhìn đúng như thực tướng của nó, như nó đang là. Nhìn cuộc đời này là không thường còn, là thay đổi, mà chính sự không thường, còn, thay đổi ấy lại là cái thường, là chân lý. “Vô thường thị thường”. Nhìn chúng sanh tuy đồng có một Như Lai Phật tánh, nhưng cũng muôn vạn loại sai biệt “từ tâm của chúng sanh tùy theo nghiệp mà phát hiện, khắp cả pháp giới” (Kinh Lăng Nghiêm). Đó là “Tướng như vậy. Tính như vậy. Thể như vậy. Lực như vậy. Tác như vậy. Nhân như vậy. Duyên như vậy. Quả như vậy. Báo như vậy. Và từ đầu đến cuối thảy đều như vậy”. (Kinh Pháp Hoa). Có cái “nhìn như vậy” nên có trí Bát nhã, “quán sát tự tại, không dao động trở ngại trước thuận cảnh, không sợ hãi nghịch cảnh, không mơ mộng viễn vông, không hoang tưởng điên đảo, cho đến đạt được tâm thái an vui Niết bàn giải thoát”(Bát nhã Tâm Kinh). Chỉ một chữ Như mà đã bao hàm trọn đủ tinh yếu những lời Phật dạy.

Cái thứ tư nhớ Như, tức là nhớ đến chữ NHƯ 如 được chiết tự từ hai chữ NỮ 女 và KHẨU 口. Tổ muốn răn đe các đệ tử hai thứ: Nữ là nữ sắc. Khẩu là cái miệng gồm ăn và nói.
Nữ sắc là thứ dục mạnh nhất mà đức Phật đã từng dạy trong kinh Tứ thập nhị chương: “Sự thèm muốn không gì hơn sắc đẹp. Sự thèm muốn sắc đẹp, ngoài nó không gì lớn bằng. Cũng may chỉ có một mình nó mà thôi, chứ có cái thứ hai bằng nó thì người khắp trong thiên hạ không ai có thể hành đạo được vậy”.Nhớ đến nữ nhân để người tăng sĩ với tâm nguyện xuất gia nối dõi dòng Thánh, độc thân phạm hạnh, cầu giải thoát luôn nhắc nhở cẩn trọng chớ để buông lung. Đối với hàng Phật từ tại gia cũng cẩn trọng trong việc giữ gìn 5 giới mà giới thứ ba là không được tà dâm, để tránh đổ vỡ hạnh phúc thế gian.
Miệng là một trong sáu căn dễ phạm lỗi. Ăn thô nói tục. Ăn bậy nói bạ. Cái gì cũng ăn. Vì ăn mà giết hại sinh linh. Ăn tươi nuốt sống tạo nhiều nghiệp ác. Bạ đâu nói đó. Nói thêu dệt. Nói ly gián. Nói độc ác. Nói dối gian. Trong Luật dạy: “Trong miệng con người ta có lưỡi búa…” không những chém người mà còn chém mình. Trong Bát Chánh đạo Phật dạy Chánh ngữ hàng thứ ba sau Chánh kiến, Chánh tư duy. Trong Tứ Nhiếp pháp của Bồ tát đạo, Ái ngữ đứng thứ hai sau Bố thí. Không những phúc mà họa cũng đều từ cái miệng. “Bệnh từ miệng vào, họa từ miệng ra”.
Hơn nữa, Tổ cũng muốn dạy thêm, mặc dù đạo Phật chú trọng thực hành “đến để mà thấy” nhưng lý thuyết cũng rất nhiều, không đạo nào có kinh điển nhiều hơn Tam tạng. Đọc không hết, nói vô cùng. Nói có cũng trúng, nói không cũng chẳng sai. “Lìa tứ cú, tuyệt bách phi”. “Bất khả thuyết, bất khả tư nghì”. Nói hoài nói mãi cũng chẳng hết. Vì thế, e rằng Tăng sĩ, Cư sĩ sau này học nhiều học cao chỉ để nói hay, viết giỏi mà hành dở, nói nhiều mà hành ít. Chính vì vậy chữ Khẩu 口 ghép bên chữ Nữ 女 tạo thành chữ Như cũng là cách phương tiện thiện xảo ẩn ý nhắc nhở mọi người phải luôn luôn cảnh giác đề phòng hai món đó.
Xưa kia, đức Phật nói pháp ròng rã suốt bao nhiêu năm, cuối cùng Ngài tuyên bố “thẳng” suốt bao nhiêu năm ta chưa từng nói một chữ. Cầm đóa hoa sen chỉ mỉm cười. Còn Tổ là đệ tử Phật, không bằng Phật nên phải học, mà học Phật “không thiếu” tức nhiều lắm, và không học những thứ không cần thiết cho nên “không dư”. Để rồi cuối cùng chỉ còn nhớ vỏn vẹn một chữ NHƯ.

Chỉ nhớ một chữ NHƯ, tức chữ NHƯ đã chứa đựng đủ lời Phật dạy. Nhớ nhiều cũng trật, nhớ ít cũng sai. Chỉ nhớ đúng là đủ. Vì đúng không phụ thuộc nhiều ít thiếu dư. Ngoài ra, Tổ muốn nhắc nhở các hàng đệ tử xuất gia, và tại gia muốn học gì thì học, tam tạng nội điển, hay thiên kinh vạn quyển thế gian, học trong nước, ngoài nước, bằng cấp Thạc sĩ, Tiến sĩ v.v. trong Phật giáo hay ngoài thế gian đi chăng nữa, phải luôn luôn nhớ đến Như, và cuối cùng cũng phải bỏ hết chỉ cần nhớ đến Như là cần thiết và đủ rồi, không thiếu mà cũng không dư!
Hàng đệ tử Phật chúng ta ngày nay, học rồi để quên, quên đi để mà nhớ. Nhớ cái gì? Có gì đáng nhớ hơn chữ NHƯ. Có phải vậy không?! Vậy mà không phải vậy. Không phải vậy mà chính là vậy. Đó mới đúng là tinh thần học Phật: Một là tất cả, Tất cả là một, như kinh Hoa Nghiêm, Phật đã nói vậy.
 
Top