• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Đạo lý XAMVN Originals | Kinh Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Sūtra - Mạnh nhất): Nguồn gốc, giáo lý, Bản chất và Vị trí của Tâm, Ma trận của Như Lai 🕉️ (P1/2)

Giới thiệu

Kinh Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Sūtra) là một cuốn sách hướng dẫn toàn diện của Phật giáo Đại thừa, đưa người đọc đến với sự giác ngộ tâm linh theo con đường được mô tả trong những giáo lý cao cấp nhất của Đức Phật Thích Ca.
Nó trình bày đầy đủ chi tiết những hiểu biết, thực tập và những cạm bẫy mà các vị Bồ Tát nhiệt thành phải ý thức rõ khi bước đi trên con đường này. Bởi vì tính thực tế và triệt để của nó, đây thường là văn bản quan trọng đầu tiên mà các nhà sư Thiền tông (Chan/Zen) mới xuất gia được yêu cầu học tập ở Trung Quốc thời Trung cổ và đầu Cận đại. Kinh này ít được biết đến ở phương Tây hơn các kinh Đại thừa khác bởi nó rất khó hiểu nếu không có một vị thầy giỏi, chỉ có các bản dịch chưa hoàn thiện và không đạt tiêu chuẩn của bộ kinh sang các ngôn ngữ phương Tây lưu hành cho đến hiện nay, tính xác thực của nó gây nhiều tranh cãi, và nó rất dài và thiếu hình ảnh lôi cuốn như trong các kinh Đại thừa dài khác, chẳng hạn như Kinh Hoa Nghiêm. Tuy nhiên, nó vẫn là một văn bản quan trọng trong quá trình hình thành Phật giáo Thiền tông, đặc biệt là từ thời nhà Đường đến triều đại nhà Minh. Do ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển của Thiền tông Trung Quốc (Chan) và sau đó là Thiền tông Nhật Bản (Zen), nó nhận được sự chú trọng của những người thực hành Thiền đương thời.

jFTDr2Pu.png


Bài viết nhập môn này xem xét lại nguồn gốc và lịch sử của Kinh, tuyến truyện và giáo lý của nó, ít nhất một vài giáo lý trong số đó được xem là không điển hình trong Phật giáo truyền thống.

Nguồn gốc và tóm lược lịch sử

Kinh được đề cập lần đầu tiên trong hai đầu mục do Zhisheng, một nhà sư Trung Quốc, xuất bản vào năm 730. Vì bản gốc và bản dịch của Kinh có sự khác biệt, nên vẫn chưa rõ ai là người đã thực hiện bản dịch gốc và được dịch từ (các) tài liệu tiếng Phạn nào, nếu có. Cả hai bản dịch được cho là đã diễn ra vào khoảng năm 705. Vì không tìm thấy bản sao gốc tiếng Phạn của Kinh và những giáo lý bất thường trong văn bản (được một số người gọi là giáo lý “phi Phật giáo”), nên nhiều ý kiến cho rằng đó là một ngụy kinh Phật giáo. Ngược lại, Ron Epstein, một người ủng hộ tính nguyên bản của Kinh, kết luận rằng “có vẻ như nguồn gốc của phần lớn tài liệu trong Kinh là từ Ấn Độ, mặc dù rõ ràng là văn bản đã được biên soạn ở Trung Quốc.” Bất luận nguồn gốc của Kinh, nó đã được nghiên cứu rộng rãi và là trọng tâm của hơn một trăm sách bình chú của các hành giả Thiền tông. Kinh tiếp tục là một văn bản chính yếu trong Thiền tông ngày nay, tuy nhiên, ngoại trừ ở Hàn Quốc, nó chưa bao giờ trở thành một văn bản đặc biệt quan trọng ở các khu vực khác của Đông Á và Đông Nam Á, có lẽ vì người ta cho rằng nó được các soạn giả Trung Quốc viết ra ở Trung Quốc.

Câu chuyện và các giáo lý

Kinh Lăng Nghiêm đề cập đến những nhận thức, thực tập và cạm bẫy cần phải nắm bắt trong khi bước đi trên con đường dẫn đến Giác Ngộ vào thời Mạt pháp, như Đức Phật Thích Ca đã truyền dạy.
Những lời dạy này xoay quanh cuộc đối thoại giữa Đức Phật và người em họ của Ngài là Ananda. Để ngắn gọn, ở đây diễn biến câu chuyện được chia thành phần mở đầu và mười phân đoạn. Như các độc giả chuyên sâu sẽ nhận ra, Kinh chứa các yếu tố giáo lý của Duy thức tông, Trung quán tông, và Phật giáo Mật truyền và một lối diễn giải biến hóa về Phật tính.

60tLkh7.png


Phần mở đầu

Kinh mở đầu, Đức Phật đang dự tiệc do vua Prasenjit chủ trì ở thành phố Shravasti khi kết thúc một khóa tu mùa hè. Hơn một ngàn nhà sư lớn tham dự, cùng với các cư sĩ, tất cả đều mong muốn được Đức Phật chỉ dạy để tháo gỡ những thắc mắc về con đường dẫn đến sự Tỉnh thức Đích thực. Chỉ có Ananda, em họ của Đức Phật, vắng mặt. Trước đó ông đã đi qua thành để chấp nhận một lời mời đặc biệt và trên đường trở về, khi đi ngang qua một nhà chứa, ông bị rơi vào cạm bẫy phù phép của một phụ nữ trẻ có ý định quyến rũ ông. Đức Phật từ xa biết rằng Ananda đang bị dính bùa chú, nhanh chóng quay trở lại cơ sở tu viện của mình. Ngài ngồi xuống, từ đỉnh đầu của mình Đức Phật đã làm xuất hiện hình ảnh của một vị Phật an tọa và niệm một câu chú có sức mạnh tâm linh, Chú Lăng Nghiêm. Sau đó, Đức Phật cử Manjusri, một vị Bồ tát cấp cao, đi để bảo vệ Ananda bằng sức mạnh của thần chú, và để đưa ông ấy và người phụ nữ trẻ trở lại nơi Đức Phật cư ngụ.

Trong phần Mở đầu, mày học được rằng: Những người đã chứng ngộ không có những dòng chảy hướng ngoại (dòng chảy của ham muốn, sinh tồn và vô minh); những tu sĩ có định lực chưa đủ mạnh luôn nên đi ít nhất với một người để tránh xa những cám dỗ; các nhà sư không nên nhận những lời mời riêng biệt, mà nên đi cùng các thành viên khác của Tăng đoàn; chấp nhận bố thí như thế nào và ở đâu; và Chú Lăng Nghiêm là vua của các thần chú, mặc dù bản thân nội dung của thần chú vẫn chưa được tiết lộ trong Kinh.

YQmfsvj.png


Phần 1: Bản chất và Vị trí của Tâm

Khi Ananda nhìn thấy Đức Phật, lúc đó Ngài vẫn đang ngồi trước đại chúng, ông cầu xin Đức Phật giải thích cho ông các bước dẫn đến Tỉnh thức. Sau đó, Đức Phật nói với ông ấy về định Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Samādhi) mà tất cả các vị Phật đều đi qua trên con đường đến Tỉnh thức. Ananda đã không thể chống lại bùa mê của người kỹ nữ bởi ông thực hành nhập định chỉ bằng Tâm Trí (the conscious mind) của mình, vì ông quan tâm nhiều hơn đến việc hiểu Pháp hơn là việc thực tập thiền định. Để thực hành định Lăng Nghiêm, một người phải đặt nền tảng cho sự tu tập của mình trên Chân Tâm (the true Mind), cái không sinh, không diệt. Để làm sáng tỏ sự khác biệt, Đức Phật đã tham gia một cuộc thảo luận dài về vị trí của Tâm và bản chất của nó để minh họa sự khác biệt giữa tâm trí bị điều kiện hoá, bị vướng mắc trong những nhận thức ảo tưởng và Chân Tâm. Trong khi tâm trí thì có sinh và diệt, Chân Tâm là vĩnh cửu. Vì hầu hết mày chỉ ý thức về tâm trí của mình, nên mày vẫn bị mắc kẹt trong vòng luân hồi (của sinh-tử bất tận).

Mấy tml học được trong phần đầu tiên này của Kinh rằng: Học Pháp trước hết là không đủ, vì một người cần phải tinh thông thiền định ở mức tương đương; Một người hay chữ không có nghĩa là người đó không có những dòng chảy hướng ngoại; Mấy tml thất bại trong tu tập của mình khi mày nhầm lẫn giữa tâm trí và Chân Tâm vĩnh cửu, do đó tự mở mình ra với những suy nghĩ si mê; Trong suy nghĩ si mê, một người sẽ phân chia các trải nghiệm thành tốt và xấu, đúng và sai, nhưng trong Ma trận của Như Lai (xem Phần 3 bên dưới), không có sự phân biệt như vậy. Bằng cách ý thức về Chân Tâm của mình, tao có thể ý thức đầy đủ về vị Phật (Phật tính) vốn hiện hữu trong tao; Khi mày có thể thấy rằng toàn bộ thế giới của các đối tượng tri giác chỉ là Tâm, thì các đối tượng tinh thần sẽ không còn sinh và diệt. Xuyên suốt bài học, Đức Phật sử dụng suy luận hợp lý, thay vì chỉ đơn thuần tuyên bố rằng một số lập trường là đúng bởi vì Ngài tuyên bố chúng là đúng. Phương thức thuyết giảng này là một đặc điểm riêng biệt của Kinh Lăng Nghiêm.

Phần 2: Bản chất của Nhãn thức (Nhận thức Thị giác)

Sau đó, bằng việc sử dụng nhãn thức như một ví dụ về sáu giác quan, Đức Phật mô tả chi tiết bản chất của chân ý thức, thật ra lại là chân thực tại mà bản thân nó chính là chân không (true emptiness). Mặc dù về cơ bản không có bất cứ thứ gì ở ngoài kia và trong đây, Đức Phật giải thích rằng trải nghiệm của chúng ta về những điều có vẻ như là một thế giới bên ngoài thực chất chỉ là trải nghiệm về những hình ảnh được tạo ra trong Tâm, Kinh gọi điều này là “những sự kiện tinh thần mờ ảo”. Những hình ảnh này xuất hiện khi sự tập trung trong định của chúng ta bị dao động. Luận đầu tiên trong tứ đoạn luận của kinh xuất hiện trong phần này khi Đức Phật lập luận rằng một mặt, bản chất của nhãn thức và các đối tượng hữu hình của ta là như nhau, mặt khác chúng không giống nhau. Phong cách lập luận này dựa trên giả định rằng con người sống trong hai thế giới, một thế giới thông thường hàng ngày bị điều kiện hoá và một thế giới tính không trừu tượng. Trong khi các sự đối lập có thể tồn tại ở thế giới thứ nhất, thế giới thứ hai không thừa nhận nhị nguyên.

sun-wukong-hand.gif


Những lời dạy khác trong Phần 2 là: Khi mày tàn lụi như một thực thể vật chất, một điều gì đó trong mày sẽ không mất đi (Phật tính), vì nó sẽ tiếp tục đi vào một cơ thể khác; Nếu mày chỉ nghe Pháp với tâm bị điều kiện hoá, mày sẽ không hiểu được bản chất thực của nó; và trong khi các vị Phật và các thực thể tâm linh cấp cao khác có sức mạnh tâm linh Thiên Nhãn Thông và có thể nhìn (nghe, v.v.) thấy khắp mọi nơi mà không gặp trở ngại, thì nhận thức thị giác của người chưa giác ngộ bị cản trở vì họ chỉ nhìn thông qua các giác quan (mắt, tai, mũi, v.v.) của cơ thể vật lý của họ.

Phần 3: Ma trận của Như Lai

Trong Phần 3, Đức Phật soi xét chi tiết hơn ý nghĩa của câu nói rằng những suy nghĩ của chúng ta và những đối tượng chúng ta nhận thức là không thật và hư ảo, mặc dù chúng vẫn nằm trong sự giác ngộ cốt yếu, huyền diệu. Trong phần khá dài này, Đức Phật sử dụng năm Uẩn, sáu Đại, mười hai Xứ, mười tám Giới, và bảy yếu tố chính làm chủ đề thuyết giảng. Vẫn tập trung thảo luận của mình trong phạm vi lý luận Phật giáo, Đức Phật kết luận ở cuối cuộc thảo luận của Ngài về mỗi yếu tố trong mỗi đề mục (sử dụng sắc uẩn làm ví dụ) như sau: “Vì vậy, mày nên biết rằng sắc uẩn là một ảo giác. Nó không hình thành từ các nguyên nhân và các điều kiện, cũng không phải tự nó hình thành.” Trong phần này, Đức Phật cũng phân giải những điều dường như không nhất quán trong giáo lý của Ngài, giải thích rằng chúng là hệ quả của việc giảng dạy cho những người có khả năng hiểu thấp hơn. Ngài kết luận rằng Kinh Lăng Nghiêm là giáo lý tối thượng. Ngài cũng nhắc lại rằng trong khi cơ thể vật lý chết đi, Phật tính vốn có trong mày sẽ tiếp tục sống, vì vậy mày nên tìm hiểu sâu về Phật tính hơn là cơ thể vật lý. Ở cuối phần 3, Ananda đã nguyện sẽ đạt đến giác ngộ để có thể trở lại và cứu vớt những người khác khỏi vòng luân hồi bất tận.

insomnia-cant.gif


Source: mnzencenter.org
1. The 2009 translation of the Sutra by the Surangama Sutra Translation Committee of the Buddhist Text Translation Society is considered the best and most improved translation in English currently available. A long sutra, the Chinese language text consists of some 63,000 characters in ten rolls. For a sampling of discussions about the Sutra from different perspectives, see Low (2000), Fischer (2001), Epstein (1975), and the “Surangama Sutra” entry in the Wikipedia. Also see the “Shurangama Sutra: Text, Commentaries, and Articles” Web site compiled by Ron Epstein.

2. Though obscure in the West, Surangama Sutra scholar David Rounds (2007:75) refers to the Sutra as one of “the world’s religious masterpieces” and extolls the beauty of its language in Chinese.

3. Chinese Buddhist apocrypha are text composed in China by Chinese authors. See Bushwell (1990). For details in the Sutra that make it an apocrypha for some, see Benn (2008).

4. Epstein (1976).

5. According to the Sutra, Buddhism has gone through three periods of declining vitality: the time of the right Dharma when the Buddha was in the world to 1,000 years afterward (c. 500 BCE –500 CE); the time of the semblance of the Dharma then began, which lasted 1,000 years as well (c. 500 – 1500 CE); and the time of the Dharma’s ending, which we are in now and during which people devote themselves to fighting. However, when we sit in meditation and study the sutras, we make the time of the right Dharma appear within the time of the Dharma’s ending. Despite the problem of math here, the point is that in these difficult times the right and true practice must be followed, which is the Surangama samadhi, as taught in the Surangama Sutra.

6. The divisions of the storyline used here are from the Synopsis in the 2009 translation of the Sutra by the Surangama Sutra Translation Committee of the Buddhist Text Translation Society. For other overviews of the Sutra, see Suzuki (2010) and especially Rounds (2007).

7. For Yogacara and Madhyamika Buddhism, see the primers in this series. Esoteric Buddhism is a general term for certain practices originally developed in parallel with Hindu tantra. Among other things, practice involves the establishment and spiritual fortification of a special place of practice and the use of ritual formulae (mantras), gestures (mudras), and visualization techniques. For overviews, see Payne (2006) and Orzech (2011). In early Buddhist thought, Buddha-‐nature refers to the potential to become a Buddha through study and religious practice. After the rise of Mahayana Buddhism, Buddha-‐nature came to be seen as the inherent Buddhahood of any sentient being. In this setting, the task is not to achieve Buddhahood, but to uncover it, for each being is already a Buddha. Under the influence of Tathagata-‐garbha teachings, Buddha-‐nature came to be seen further as a more substantial presence endowed with positive attributes, often termed ‘atman’ (self or soul), as in sutras like the Mahayana Mahaparinirvana Sutra. In the Surangama Sutra, it is from the Matrix of the Thus-‐Come One (thus in Sanskrit Tathagata-‐garbha, the “womb of the Buddha”) that the world and the mind come forth; it has no self, intention, or personality – it is, at least in this Sutra empty, though Buddha-‐ nature passes through successive life forms. See King (1991).

8. Mantras are sacred sounds believed to be imbued with supernatural powers. In the Surangama Sutra, the recitation of the Surangama Mantra is a means of protecting and empowering the mind of oneself or others. This is an aspect of esoteric Buddhism in the Sutra.

9. In Mahayana Buddhism, states of deep trance (forms of samadhi) occur at a vast number of levels. According to the Sutra, the Surangama samadhi is the highest of these levels. Its attainment gives those who attain it the ability to manifest specific miracles. Again, another aspect of esoteric Buddhism in the Sutra. For a general overview, see Shankman (2008).

10. Synonyms of the Matrix of the Thus-‐Come One are the Thus-‐Come One, true reality, our true mind, the suchness of reality, the reality of the universe, the awakened nature of our awareness, and the Tathagata-‐garbha, among others, all of which are epithets of the Buddha.

11. For a brief introduction to Buddhist logic in the context of this Sutra see Rounds (2007:276-‐279). For the tetralemma, see the Madhyamika Buddhist primer in this series. It is important in reading the Sutra to keep in mind that the discussion is a series of logical arguments. Confusion for Western readers often occurs when encountering a tetralemma, for it allows the presence of both something and its absence (both A and not-‐A), for something may be present in the conditioned world (A) but not in the Absolute world which is empty of dualities (not-‐A).

12. This notion of an ever-‐lasting ‘self’ (a Buddha-‐nature) that moves from one body to another is a controversial teaching of some Chinese Buddhist sutras, as mentioned in footnote 7 above.

13. Another expression for the Matrix of the Thus-‐Come One or true reality.

14. The five aggregates consist of form, sense-‐perception, cognition, mental formations, and consciousness. The six faculties are eye, ear, nose, tongue, body, and cognitive faculty. The twelve sites are the eye faculty and visual objects, the ear faculty and sounds (etc.). In the eighteen constituents the six faculties are matched to the six sense-‐objects, and between them are produced the six consciousnesses (the eye consciousness, etc.). The consciousnesses are what make distinctions.



References (Không dịch)​

Anon. Surangama Sutra. Wikipedia. Downloaded from the Web 8/14/2-‐17.

Benn, James A. 2008. Another Look at the Pseudo-‐Suramgama sutra. Harvard Journal of Asiatic Studies, 68(1), pp. 57-‐89.

Bushwell, Robert E. 1990. Chinese Buddhist Apocrypha. Honolulu: University of Hawaii Press. Epstein, Ronald. 1975. Ananda’s Search for the Mind in Seven Locations. Vajra Bodhi Sea, March, pp.

17-‐23.

Epstein, Ronald. 1976. The Shurangama Sutra: A Reappraisal of Its Authenticity. Downloaded from the Web on 8/16/2017.

Fischer, Norman. 2001. Surangama Sutra. A series of talks on the Everyday Zen Foundation Web site. King, Sallie B. 1991. Buddha Nature. Albany: State University of New York Press.

Low, Albert. 2000. The Surangama Sutra. In Zen and the Sutras, pp. 135-‐154. Boston: Tuttle. Orzech, Charles D. (gen. ed.). 2011. Esoteric Buddhism and the Tantras in East Asia. Leiden, The

Netherlands: Brill.

Payne, Richard K. 2006. Tantric Buddhism in East Asia. Somerville, MA: Wisdom.

Rounds, David. 2007. Rescuing Ananda – An Overview of the Surangama Sutra. Religion East & West

issue 7, October, pp. 75-‐95.

Rounds, David. 2014. An Editorial Approach: The Surangama Sutra. Religion East & West, Issue 12, January, pp. 7-‐18.

Shankman, Richard. 2008. The Experience of Samadhi: An In-depth Exploration of Buddhist Meditation.

Boston: Shambhala.

Surangama Sutra Translation Committee. 2009. The Śūrangama Sūtra: With Excerpts from the Commentary by the Venerable Master Hsuan Hua: A New Translation. Burlingame, CA: Buddhist Text Translation Society.

Suzuki, D. T. 2010 [1950]. The Ryogonkyp, or Surangama Sutra. In Manual of Zen Buddhism, 2nd ed.

CreateSpace Independent Publishing Platform.

Ven. Master Hsuan Hua. 1981. Shurangama Mantra Verses and Commentary, in 5 vols., trans.

Buddhist Text Translation Society. Talmage, CA: Dharma-‐Realm Buddhist University. Ven. Master Hsuan Hua. 1996. The Surangama Sutra: Fifty Skandha-Demon States, A Simple

Explanation by the Ven. Master Hsuan Hua
, bilingual edition. Burlingame, CA: Buddhist Text Translation Society.

 
Sửa lần cuối:

Kinh Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Sūtra) (P2/2)​


Phần 4: Sự ra đời của thế giới ảo ảnh

Sau đó Prūna, một vị Đại Bồ Tát, xuất hiện giữa đại hội và hỏi,

"Nếu Ma trận của Như Lai, về cơ bản là thuần khiết, thì làm thế nào mà núi non và tất cả những thứ khác mà mày nhận thức sai lầm trên trái đất này lại xuất hiện, ... (và) tại sao chúng phải tuân theo quy luật thành trụ hoại diệt?”

Đức Phật trả lời rằng một khi một sự hiểu biết được thêm vào sự giác ngộ, sự hiểu biết đó phải hiểu được điều gì đó. Hơn nữa, một khi phạm trù "cái gì đó được hiểu" được thiết lập một cách nhầm lẫn trong tâm trí, thì phạm trù "cái hiểu" (‘that which understands’) cũng được thiết lập một cách sai lầm. Tất cả những điều này đều là những khía cạnh của ảo tưởng. Khi các đối tượng được thiết lập, cảm giác về bản thân như một chủ thể giả ngụy sẽ biểu hiện trong phản ứng. Sau đó, Đức Phật minh họa và giải thích cặn kẽ những lời dạy này với các ví dụ.

Trong phần này, Đức Phật cũng dạy rằng mọi sự giác ngộ của chư Phật là không thể đảo ngược, làm thế nào mà các yếu tố cơ bản (đất, nước, lửa và gió) trong bản chất cơ bản của chúng có thể hoàn toàn giao thoa với nhau (lý do là chúng là không thật trong thế giới tuyệt đối), và (lặp lại một lần nữa) rằng chân không (true emptiness) chính là thứ làm phát sinh sự tồn tại kỳ diệu, bằng cách sử dụng lập luận tứ cú (tetralemma). Vào cuối Phần 4, Đức Phật bắt đầu mô tả một số thực hành cơ bản cần thiết để loại bỏ sự phân biệt, cái tạo ra thế giới hiện tượng và sự nhầm lẫn kéo dài của mày.

G3ODbsh.png



Phần 5: Hướng dẫn Thực hành

Sau đó, Ananda và đại chúng cầu xin Đức Phật chỉ cho họ con đường dẫn từ quyết tâm ban đầu của mày đến niết bàn của Như Lai. Đức Phật trả lời rằng để giác ngộ, trước tiên mày phải hiểu hai nguyên tắc liên quan đến quyết tâm của mày. Đầu tiên, quyết tâm của mày không được tập trung vào cái tâm trí xuất hiện và biến mất, mà vào nơi không có gì xuất hiện và biến mất (Chân Tâm). Thứ hai, khi thực hành theo Bồ Tát Thừa [Đại Thừa], mày phải buông bỏ phiền não của mình bằng cách xem xét nguồn gốc của những mê lầm đã tạo điều kiện cho chúng. Khi bắt đầu thực hành này, mày phải chọn một giác quan để tập trung vào, để giải thoát cả sáu. Đức Phật tiếp tục giải thích cách thức hoạt động của sáu giác quan và mô tả hai con đường dẫn chúng trở về Chân Tâm.

Đầu tiên là năm điểm đục (turbidities) được hình thành từ việc tập trung vào thế giới hiện tượng. Ví dụ, khi nhận thức không gian và thị giác bị cuốn vào nhau, điểm đục của thời gian xuất hiện. Tương tự như vậy, khi nhận thức và các nguyên tố cơ bản cuốn vào nhau, điểm đục của nhận thức hình thành.

Ngài cũng nói với đại hội đồng rằng trong khi tu tập hướng tới giác ngộ, mày không nên cho phép sự chú ý của mày bị chuyển hướng bởi bất kỳ duyên nào trong số 12 duyên khởi, chẳng hạn như âm thanh và sự im lặng hoặc tiếp xúc và tách biệt, nhưng hãy giải phóng một trong những giác quan của mày bằng cách tách nó ra khỏi đối tượng của nó và chuyển hướng nó vào bên trong hướng tới bản chất đích thực.

the-mirror-tarkovsky.gif


Phần 6: 25 vị Đại Bồ Tát và A La Hán nói về sự giác ngộ

Ananda sau đó đáp lại Đức Phật rằng bây giờ họ đã hiểu ý nghĩa của việc nói rằng khi một giác quan được sử dụng để thâm nhập vào thực tại chân thật thì những giác quan khác cũng sẽ biến mất. Nhưng đại hội vẫn không biết giác quan nào sẽ dẫn mày đột phá đến giác ngộ tốt nhất. Vì vậy, Đức Phật yêu cầu các vị Đại Bồ Tát và A La Hán đã tập hợp nói về cách họ vượt qua mọi chướng ngại và trở nên giác ngộ. Sau đó, 25 vị này đã chứng thực hiệu quả của 25 yếu tố cấu thành hoặc 7 yếu tố chính. Trong khi một số người ca ngợi hiệu quả của âm thanh, những người khác ca ngợi hiệu quả của việc chiêm ngưỡng các đối tượng, hương vị, đối tượng hữu hình, đối tượng nhận thức, v.v. Cuối cùng, Avalokiteśvara (Quán Thế Âm Bồ Tát) đứng lên và nói rằng việc thực hành thính giác và quán chiếu là hiệu quả nhất đối với ông. Sau đó, ông bắt đầu mô tả chi tiết thực hành này. Sau đó, Đức Phật yêu cầu Manjushri (Văn-thù-sư-lợi) giới thiệu cho Ananda và những người khác ở cấp độ thành tựu của Ananda. Manjushri nói rằng thính giác hoặc sự lắng nghe bên trong, như Quán Thế Âm Bồ Tát mô tả, là thích hợp nhất cho những người ở cấp độ của Ananda.

depositphotos_3293973-stock-photo-buddhism-painting-artwork-of-tibet.jpg


Phần 7: Về sự trong sạch

Bây giờ đã hiểu cách thực hành, Ananda hỏi Đức Phật làm cách nào ông có thể dạy những người khác cách bảo vệ và tập trung tâm trí của họ để họ cũng có thể nhập định, mặc dù bản thân ông vẫn đang thực hành. Đức Phật trả lời rằng họ nên được dạy về giá trị của bốn giới: không tà dâm, không giết người, không trộm cắp và không nói dối. Ngài nhấn mạnh rằng bất kể mày có thể thực hành bao nhiêu đi nữa, mày sẽ không bao giờ vượt qua được áp lực của thế giới cho đến khi mày giải phóng bản thân khỏi những hành vi vô đạo đức và ngay cả những suy nghĩ về chúng. Sau đó, Đức Phật đưa ra những cái nhìn tổng quan rõ ràng về từng giới trong bốn giới và giá trị của chúng trong quá trình thực hành, một lần nữa rất dài.

Phần 8: Chú Lăng Nghiêm

Đoạn đầu của Phần 8 của Kinh nói lên sức mạnh của việc trì tụng thần chú:

“Này Ananda, tất cả chư Phật khắp mười phương đều được sinh ra từ những dòng bí truyền của Thần chú Bạch Tản Cái này… (và) Bằng thần chú của tâm, các Như Lai trong mười phương đã đạt được trí tuệ tối cao, đúng đắn và phổ quát." (và) "Khi trì niệm thần chú của tâm này, các Như Lai trong mười phương điều phục tất cả ma quỷ và chỉ đường đúng đắn cho tất cả những ai đang đi sai đường."
1920px-%C5%9A%C5%ABra%E1%B9%85gama_S%C5%ABtra.jpg

Bốn dòng đầu tiên của câu thần chú 554 dòng này là: na mo sa dan tuo / su qie duo ye / e la he di / san miao san pu tuo xie. Chú Lăng Nghiêm được chia thành các phần chính và phần phụ, mỗi phần có chức năng riêng của nó.

Phần 8 cũng mô tả làm thế nào để thiết lập một nơi thực hành, bao nhiêu lần câu thần chú được trì tụng ở đó và khi nào, và sức mạnh của bản thân câu thần chú, chẳng hạn như bảo vệ người trì tụng khỏi thảm họa, để hoàn thành điều gì đó, để điều phục quỷ quái, và để triệu hồi những thực thể kỳ lạ, quỷ và ma và để bắt giữ chúng bất kể chúng ở xa bao nhiêu.

Phần 9: 12 loại chúng sanh

Sau đó, Ananda hỏi Đức Phật về những giai đoạn mà mày đã tu trì thần chú của Đức Phật theo cách này nhưng mày chưa đạt đến niết bàn phải trải qua. Sau đó, Đức Phật nhắc nhở Ananda một đoạn dài về bản chất kỳ diệu đã được khai sáng (thực tại chân chính) có gì, và cần gì để bản chất này xuất hiện.

Ngài tiếp tục mô tả 12 loại chúng sanh tồn tại trên thế giới này, có hệ quả từ ảo tưởng. Ví dụ như: chúng sanh từ trứng; chúng sanh được sinh ra từ tử cung; chúng sanh được sinh ra trong sự ẩm ướt; và chúng sanh được gọi ra bằng thần chú, bùa chú và lời nguyền.

Sau đó, Ngài nói với Ananda rằng trong quá trình thực hành của mình, mày nên thực hiện ba bước dần dần sau đây để loại bỏ các lực cơ bản là nguồn gốc của sự rối loạn trong hoạt động tinh thần: Thứ nhất là luyện tập loại bỏ các yếu tố góp phần. Thứ hai là luyện tập chấm dứt mọi vi phạm những quy tắc nền tảng của hành vi. Và thứ ba là luyện tập quay lưng lại với sự tương tác với các yếu tố được nhận thức. Ba hình thức luyện tập được mô tả chi tiết.

Sau đó, Đức Phật mô tả chi tiết 57 giai đoạn của Con đường Bồ Tát, những phẩm chất của chúng là gì, và cách đạt được chúng. Một số giai đoạn được mô tả một mình, trong khi những giai đoạn khác được mô tả theo nhóm, chẳng hạn như 10 giai đoạn ổn định tâm trí, 10 trụ xứ và 10 hồi hướng.

Sau đó Ananda hỏi, nếu bản chất cốt yếu của tất cả các vị Phật là thực tại chân chính, tại sao vẫn có địa ngục, ngạ quỷ, động vật, A-tu-la (ác thần), con người và thần linh? Đức Phật mô tả lại một lần nữa lý do tại sao các chúng sinh bước vào những số phận này và trong một số trường hợp, những đặc điểm phức tạp của chúng. Đức Phật kết thúc Phần 9 bằng cách nói:

“Điều đã được nói ở đây là lời dạy đúng đắn. Dạy cách khác là việc làm của quỷ vương."

1024px-Dunhuang_Mara_Budda.jpg


Phần 10: 50 hiện tượng ngũ ấm ma - Những nguy hiểm có thể xảy với thực hành nâng cao

Khi lời dạy của Đức Phật gần kết thúc, Đức Phật nói rằng mặc dù mày đã được dạy phương pháp thực hành đúng đắn, mày vẫn cần được hướng dẫn, vì có những hiện tượng ấm ma vi tế có thể xảy ra khi mày thực hành thực hành tĩnh tâm và quán chiếu. Nếu mày không nhận ra khi nào các trạng thái ấm ma xuất hiện, mày sẽ rơi vào sai lầm của các tà kiến. Sau đó, Đức Phật đi vào giải thích chi tiết rằng các trạng thái ấm ma khác nhau xảy ra ở các giai đoạn khác nhau của con đường Bồ Tát, làm thế nào để nhận ra chúng và tự vệ chống lại chúng, và hậu quả là gì nếu mày không làm vậy.

Ngài mô tả 50 hiện tượng ngũ ấm ma làm ví dụ, được sắp xếp thành 10 trạng thái ấm ma, mỗi trạng thái ứng với một uẩn: sắc (form), thọ (sense-perception), tưởng (cognition), hành (mental formations) và thức (consciousness). Sau đó, Ngài giải thích rằng 5 uẩn phát sinh từ những hoạt động mê lầm của tâm trí.

Kinh kết thúc bằng việc Đức Phật nhấn mạnh tầm quan trọng tối cao của định Lăng Nghiêm và công đức mà một người đạt được từ việc giảng dạy pháp tu cho người khác. Ngài nói thêm rằng đây là những hướng dẫn cuối cùng của Ngài. Đại hội cúi đầu cung kính và rời đi.

Và tại đây kết thúc những gì được cho là (bởi vì nó hiện chỉ được công nhận một cách mờ nhạt ở phương Tây) một trong những những kiệt tác tôn giáo của thế giới.


@dungdamchemnhau @Không tên1 @fukboi_caugiay @Cathacl00000 @quanghuy5590 @yellow.alien @hazyhazy @Trandaiquang
 
Sửa lần cuối:
Người nào đọc cũng đc hay chỉ người có " nghề " đọc mới có uy lực ?
Giống như khẩu lệnh trong QĐ thằng chỉ huy đọc thì lính lác nó nghe theo chứ mà ra ngoài xã hội m có hô khàn cổ giọng cũng đéo ai nghe
 
Giới thiệu

Kinh Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Sūtra) là một cuốn sách hướng dẫn toàn diện của Phật giáo Đại thừa, đưa người đọc đến với sự giác ngộ tâm linh theo con đường được mô tả trong những giáo lý cao cấp nhất của Đức Phật Thích Ca.
Nó trình bày đầy đủ chi tiết những hiểu biết, thực tập và những cạm bẫy mà các vị Bồ Tát nhiệt thành phải ý thức rõ khi bước đi trên con đường này. Bởi vì tính thực tế và triệt để của nó, đây thường là văn bản quan trọng đầu tiên mà các nhà sư Thiền tông (Chan/Zen) mới xuất gia được yêu cầu học tập ở Trung Quốc thời Trung cổ và đầu Cận đại. Kinh này ít được biết đến ở phương Tây hơn các kinh Đại thừa khác bởi nó rất khó hiểu nếu không có một vị thầy giỏi, chỉ có các bản dịch chưa hoàn thiện và không đạt tiêu chuẩn của bộ kinh sang các ngôn ngữ phương Tây lưu hành cho đến hiện nay, tính xác thực của nó gây nhiều tranh cãi, và nó rất dài và thiếu hình ảnh lôi cuốn như trong các kinh Đại thừa dài khác, chẳng hạn như Kinh Hoa Nghiêm. Tuy nhiên, nó vẫn là một văn bản quan trọng trong quá trình hình thành Phật giáo Thiền tông, đặc biệt là từ thời nhà Đường đến triều đại nhà Minh. Do ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển của Thiền tông Trung Quốc (Chan) và sau đó là Thiền tông Nhật Bản (Zen), nó nhận được sự chú trọng của những người thực hành Thiền đương thời.

jFTDr2Pu.png


Bài viết nhập môn này xem xét lại nguồn gốc và lịch sử của Kinh, tuyến truyện và giáo lý của nó, ít nhất một vài giáo lý trong số đó được xem là không điển hình trong Phật giáo truyền thống.

Nguồn gốc và tóm lược lịch sử

Kinh được đề cập lần đầu tiên trong hai đầu mục do Zhisheng, một nhà sư Trung Quốc, xuất bản vào năm 730. Vì bản gốc và bản dịch của Kinh có sự khác biệt, nên vẫn chưa rõ ai là người đã thực hiện bản dịch gốc và được dịch từ (các) tài liệu tiếng Phạn nào, nếu có. Cả hai bản dịch được cho là đã diễn ra vào khoảng năm 705. Vì không tìm thấy bản sao gốc tiếng Phạn của Kinh và những giáo lý bất thường trong văn bản (được một số người gọi là giáo lý “phi Phật giáo”), nên nhiều ý kiến cho rằng đó là một ngụy kinh Phật giáo. Ngược lại, Ron Epstein, một người ủng hộ tính nguyên bản của Kinh, kết luận rằng “có vẻ như nguồn gốc của phần lớn tài liệu trong Kinh là từ Ấn Độ, mặc dù rõ ràng là văn bản đã được biên soạn ở Trung Quốc.” Bất luận nguồn gốc của Kinh, nó đã được nghiên cứu rộng rãi và là trọng tâm của hơn một trăm sách bình chú của các hành giả Thiền tông. Kinh tiếp tục là một văn bản chính yếu trong Thiền tông ngày nay, tuy nhiên, ngoại trừ ở Hàn Quốc, nó chưa bao giờ trở thành một văn bản đặc biệt quan trọng ở các khu vực khác của Đông Á và Đông Nam Á, có lẽ vì người ta cho rằng nó được các soạn giả Trung Quốc viết ra ở Trung Quốc.

Câu chuyện và các giáo lý

Kinh Lăng Nghiêm đề cập đến những nhận thức, thực tập và cạm bẫy cần phải nắm bắt trong khi bước đi trên con đường dẫn đến Giác Ngộ vào thời Mạt pháp, như Đức Phật Thích Ca đã truyền dạy.
Những lời dạy này xoay quanh cuộc đối thoại giữa Đức Phật và người em họ của Ngài là Ananda. Để ngắn gọn, ở đây diễn biến câu chuyện được chia thành phần mở đầu và mười phân đoạn. Như các độc giả chuyên sâu sẽ nhận ra, Kinh chứa các yếu tố giáo lý của Duy thức tông, Trung quán tông, và Phật giáo Mật truyền và một lối diễn giải biến hóa về Phật tính.

60tLkh7.png


Phần mở đầu

Kinh mở đầu, Đức Phật đang dự tiệc do vua Prasenjit chủ trì ở thành phố Shravasti khi kết thúc một khóa tu mùa hè. Hơn một ngàn nhà sư lớn tham dự, cùng với các cư sĩ, tất cả đều mong muốn được Đức Phật chỉ dạy để tháo gỡ những thắc mắc về con đường dẫn đến sự Tỉnh thức Đích thực. Chỉ có Ananda, em họ của Đức Phật, vắng mặt. Trước đó ông đã đi qua thành để chấp nhận một lời mời đặc biệt và trên đường trở về, khi đi ngang qua một nhà chứa, ông bị rơi vào cạm bẫy phù phép của một phụ nữ trẻ có ý định quyến rũ ông. Đức Phật từ xa biết rằng Ananda đang bị dính bùa chú, nhanh chóng quay trở lại cơ sở tu viện của mình. Ngài ngồi xuống, từ đỉnh đầu của mình Đức Phật đã làm xuất hiện hình ảnh của một vị Phật an tọa và niệm một câu chú có sức mạnh tâm linh, Chú Lăng Nghiêm. Sau đó, Đức Phật cử Manjusri, một vị Bồ tát cấp cao, đi để bảo vệ Ananda bằng sức mạnh của thần chú, và để đưa ông ấy và người phụ nữ trẻ trở lại nơi Đức Phật cư ngụ.

Trong phần Mở đầu, mày học được rằng: Những người đã chứng ngộ không có những dòng chảy hướng ngoại (dòng chảy của ham muốn, sinh tồn và vô minh); những tu sĩ có định lực chưa đủ mạnh luôn nên đi ít nhất với một người để tránh xa những cám dỗ; các nhà sư không nên nhận những lời mời riêng biệt, mà nên đi cùng các thành viên khác của Tăng đoàn; chấp nhận bố thí như thế nào và ở đâu; và Chú Lăng Nghiêm là vua của các thần chú, mặc dù bản thân nội dung của thần chú vẫn chưa được tiết lộ trong Kinh.

YQmfsvj.png


Phần 1: Bản chất và Vị trí của Tâm

Khi Ananda nhìn thấy Đức Phật, lúc đó Ngài vẫn đang ngồi trước đại chúng, ông cầu xin Đức Phật giải thích cho ông các bước dẫn đến Tỉnh thức. Sau đó, Đức Phật nói với ông ấy về định Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Samādhi) mà tất cả các vị Phật đều đi qua trên con đường đến Tỉnh thức. Ananda đã không thể chống lại bùa mê của người kỹ nữ bởi ông thực hành nhập định chỉ bằng Tâm Trí (the conscious mind) của mình, vì ông quan tâm nhiều hơn đến việc hiểu Pháp hơn là việc thực tập thiền định. Để thực hành định Lăng Nghiêm, một người phải đặt nền tảng cho sự tu tập của mình trên Chân Tâm (the true Mind), cái không sinh, không diệt. Để làm sáng tỏ sự khác biệt, Đức Phật đã tham gia một cuộc thảo luận dài về vị trí của Tâm và bản chất của nó để minh họa sự khác biệt giữa tâm trí bị điều kiện hoá, bị vướng mắc trong những nhận thức ảo tưởng và Chân Tâm. Trong khi tâm trí thì có sinh và diệt, Chân Tâm là vĩnh cửu. Vì hầu hết mày chỉ ý thức về tâm trí của mình, nên mày vẫn bị mắc kẹt trong vòng luân hồi (của sinh-tử bất tận).

Mấy tml học được trong phần đầu tiên này của Kinh rằng: Học Pháp trước hết là không đủ, vì một người cần phải tinh thông thiền định ở mức tương đương; Một người hay chữ không có nghĩa là người đó không có những dòng chảy hướng ngoại; Mấy tml thất bại trong tu tập của mình khi mày nhầm lẫn giữa tâm trí và Chân Tâm vĩnh cửu, do đó tự mở mình ra với những suy nghĩ si mê; Trong suy nghĩ si mê, một người sẽ phân chia các trải nghiệm thành tốt và xấu, đúng và sai, nhưng trong Ma trận của Như Lai (xem Phần 3 bên dưới), không có sự phân biệt như vậy. Bằng cách ý thức về Chân Tâm của mình, tao có thể ý thức đầy đủ về vị Phật (Phật tính) vốn hiện hữu trong tao; Khi mày có thể thấy rằng toàn bộ thế giới của các đối tượng tri giác chỉ là Tâm, thì các đối tượng tinh thần sẽ không còn sinh và diệt. Xuyên suốt bài học, Đức Phật sử dụng suy luận hợp lý, thay vì chỉ đơn thuần tuyên bố rằng một số lập trường là đúng bởi vì Ngài tuyên bố chúng là đúng. Phương thức thuyết giảng này là một đặc điểm riêng biệt của Kinh Lăng Nghiêm.

Phần 2: Bản chất của Nhãn thức (Nhận thức Thị giác)

Sau đó, bằng việc sử dụng nhãn thức như một ví dụ về sáu giác quan, Đức Phật mô tả chi tiết bản chất của chân ý thức, thật ra lại là chân thực tại mà bản thân nó chính là chân không (true emptiness). Mặc dù về cơ bản không có bất cứ thứ gì ở ngoài kia và trong đây, Đức Phật giải thích rằng trải nghiệm của chúng ta về những điều có vẻ như là một thế giới bên ngoài thực chất chỉ là trải nghiệm về những hình ảnh được tạo ra trong Tâm, Kinh gọi điều này là “những sự kiện tinh thần mờ ảo”. Những hình ảnh này xuất hiện khi sự tập trung trong định của chúng ta bị dao động. Luận đầu tiên trong tứ đoạn luận của kinh xuất hiện trong phần này khi Đức Phật lập luận rằng một mặt, bản chất của nhãn thức và các đối tượng hữu hình của ta là như nhau, mặt khác chúng không giống nhau. Phong cách lập luận này dựa trên giả định rằng con người sống trong hai thế giới, một thế giới thông thường hàng ngày bị điều kiện hoá và một thế giới tính không trừu tượng. Trong khi các sự đối lập có thể tồn tại ở thế giới thứ nhất, thế giới thứ hai không thừa nhận nhị nguyên.

sun-wukong-hand.gif




hồi còn nhỏ t bị bắt tụng kinh lăng nghiêm mỗi ngày . Đối vs t thì kinh này với từ bi thuỷ sám vô cùng có duyên
 
Người nào đọc cũng đc hay chỉ người có " nghề " đọc mới có uy lực ?
Giống như khẩu lệnh trong QĐ thằng chỉ huy đọc thì lính lác nó nghe theo chứ mà ra ngoài xã hội m có hô khàn cổ giọng cũng đéo ai nghe
Nếu như là các Cao Tăng, hay Linh Mục họ có căn cơ để dùng chú Lăng Nghiêm hay kinh Lạy Cha, Mân Côi nó khác. Vì so như là sniper, swat cầm AWM hay M4.

Còn với người thường nó như là vũ khí tự vệ thôi, có khi gặp Quỷ/Satan đái mẹ ra quần rồi. Chứ làm đéo gì đã kịp lên cò.
 
Giới thiệu

Kinh Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Sūtra) là một cuốn sách hướng dẫn toàn diện của Phật giáo Đại thừa, đưa người đọc đến với sự giác ngộ tâm linh theo con đường được mô tả trong những giáo lý cao cấp nhất của Đức Phật Thích Ca.
Nó trình bày đầy đủ chi tiết những hiểu biết, thực tập và những cạm bẫy mà các vị Bồ Tát nhiệt thành phải ý thức rõ khi bước đi trên con đường này. Bởi vì tính thực tế và triệt để của nó, đây thường là văn bản quan trọng đầu tiên mà các nhà sư Thiền tông (Chan/Zen) mới xuất gia được yêu cầu học tập ở Trung Quốc thời Trung cổ và đầu Cận đại. Kinh này ít được biết đến ở phương Tây hơn các kinh Đại thừa khác bởi nó rất khó hiểu nếu không có một vị thầy giỏi, chỉ có các bản dịch chưa hoàn thiện và không đạt tiêu chuẩn của bộ kinh sang các ngôn ngữ phương Tây lưu hành cho đến hiện nay, tính xác thực của nó gây nhiều tranh cãi, và nó rất dài và thiếu hình ảnh lôi cuốn như trong các kinh Đại thừa dài khác, chẳng hạn như Kinh Hoa Nghiêm. Tuy nhiên, nó vẫn là một văn bản quan trọng trong quá trình hình thành Phật giáo Thiền tông, đặc biệt là từ thời nhà Đường đến triều đại nhà Minh. Do ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển của Thiền tông Trung Quốc (Chan) và sau đó là Thiền tông Nhật Bản (Zen), nó nhận được sự chú trọng của những người thực hành Thiền đương thời.

jFTDr2Pu.png


Bài viết nhập môn này xem xét lại nguồn gốc và lịch sử của Kinh, tuyến truyện và giáo lý của nó, ít nhất một vài giáo lý trong số đó được xem là không điển hình trong Phật giáo truyền thống.

Nguồn gốc và tóm lược lịch sử

Kinh được đề cập lần đầu tiên trong hai đầu mục do Zhisheng, một nhà sư Trung Quốc, xuất bản vào năm 730. Vì bản gốc và bản dịch của Kinh có sự khác biệt, nên vẫn chưa rõ ai là người đã thực hiện bản dịch gốc và được dịch từ (các) tài liệu tiếng Phạn nào, nếu có. Cả hai bản dịch được cho là đã diễn ra vào khoảng năm 705. Vì không tìm thấy bản sao gốc tiếng Phạn của Kinh và những giáo lý bất thường trong văn bản (được một số người gọi là giáo lý “phi Phật giáo”), nên nhiều ý kiến cho rằng đó là một ngụy kinh Phật giáo. Ngược lại, Ron Epstein, một người ủng hộ tính nguyên bản của Kinh, kết luận rằng “có vẻ như nguồn gốc của phần lớn tài liệu trong Kinh là từ Ấn Độ, mặc dù rõ ràng là văn bản đã được biên soạn ở Trung Quốc.” Bất luận nguồn gốc của Kinh, nó đã được nghiên cứu rộng rãi và là trọng tâm của hơn một trăm sách bình chú của các hành giả Thiền tông. Kinh tiếp tục là một văn bản chính yếu trong Thiền tông ngày nay, tuy nhiên, ngoại trừ ở Hàn Quốc, nó chưa bao giờ trở thành một văn bản đặc biệt quan trọng ở các khu vực khác của Đông Á và Đông Nam Á, có lẽ vì người ta cho rằng nó được các soạn giả Trung Quốc viết ra ở Trung Quốc.

Câu chuyện và các giáo lý

Kinh Lăng Nghiêm đề cập đến những nhận thức, thực tập và cạm bẫy cần phải nắm bắt trong khi bước đi trên con đường dẫn đến Giác Ngộ vào thời Mạt pháp, như Đức Phật Thích Ca đã truyền dạy.
Những lời dạy này xoay quanh cuộc đối thoại giữa Đức Phật và người em họ của Ngài là Ananda. Để ngắn gọn, ở đây diễn biến câu chuyện được chia thành phần mở đầu và mười phân đoạn. Như các độc giả chuyên sâu sẽ nhận ra, Kinh chứa các yếu tố giáo lý của Duy thức tông, Trung quán tông, và Phật giáo Mật truyền và một lối diễn giải biến hóa về Phật tính.

60tLkh7.png


Phần mở đầu

Kinh mở đầu, Đức Phật đang dự tiệc do vua Prasenjit chủ trì ở thành phố Shravasti khi kết thúc một khóa tu mùa hè. Hơn một ngàn nhà sư lớn tham dự, cùng với các cư sĩ, tất cả đều mong muốn được Đức Phật chỉ dạy để tháo gỡ những thắc mắc về con đường dẫn đến sự Tỉnh thức Đích thực. Chỉ có Ananda, em họ của Đức Phật, vắng mặt. Trước đó ông đã đi qua thành để chấp nhận một lời mời đặc biệt và trên đường trở về, khi đi ngang qua một nhà chứa, ông bị rơi vào cạm bẫy phù phép của một phụ nữ trẻ có ý định quyến rũ ông. Đức Phật từ xa biết rằng Ananda đang bị dính bùa chú, nhanh chóng quay trở lại cơ sở tu viện của mình. Ngài ngồi xuống, từ đỉnh đầu của mình Đức Phật đã làm xuất hiện hình ảnh của một vị Phật an tọa và niệm một câu chú có sức mạnh tâm linh, Chú Lăng Nghiêm. Sau đó, Đức Phật cử Manjusri, một vị Bồ tát cấp cao, đi để bảo vệ Ananda bằng sức mạnh của thần chú, và để đưa ông ấy và người phụ nữ trẻ trở lại nơi Đức Phật cư ngụ.

Trong phần Mở đầu, mày học được rằng: Những người đã chứng ngộ không có những dòng chảy hướng ngoại (dòng chảy của ham muốn, sinh tồn và vô minh); những tu sĩ có định lực chưa đủ mạnh luôn nên đi ít nhất với một người để tránh xa những cám dỗ; các nhà sư không nên nhận những lời mời riêng biệt, mà nên đi cùng các thành viên khác của Tăng đoàn; chấp nhận bố thí như thế nào và ở đâu; và Chú Lăng Nghiêm là vua của các thần chú, mặc dù bản thân nội dung của thần chú vẫn chưa được tiết lộ trong Kinh.

YQmfsvj.png


Phần 1: Bản chất và Vị trí của Tâm

Khi Ananda nhìn thấy Đức Phật, lúc đó Ngài vẫn đang ngồi trước đại chúng, ông cầu xin Đức Phật giải thích cho ông các bước dẫn đến Tỉnh thức. Sau đó, Đức Phật nói với ông ấy về định Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Samādhi) mà tất cả các vị Phật đều đi qua trên con đường đến Tỉnh thức. Ananda đã không thể chống lại bùa mê của người kỹ nữ bởi ông thực hành nhập định chỉ bằng Tâm Trí (the conscious mind) của mình, vì ông quan tâm nhiều hơn đến việc hiểu Pháp hơn là việc thực tập thiền định. Để thực hành định Lăng Nghiêm, một người phải đặt nền tảng cho sự tu tập của mình trên Chân Tâm (the true Mind), cái không sinh, không diệt. Để làm sáng tỏ sự khác biệt, Đức Phật đã tham gia một cuộc thảo luận dài về vị trí của Tâm và bản chất của nó để minh họa sự khác biệt giữa tâm trí bị điều kiện hoá, bị vướng mắc trong những nhận thức ảo tưởng và Chân Tâm. Trong khi tâm trí thì có sinh và diệt, Chân Tâm là vĩnh cửu. Vì hầu hết mày chỉ ý thức về tâm trí của mình, nên mày vẫn bị mắc kẹt trong vòng luân hồi (của sinh-tử bất tận).

Mấy tml học được trong phần đầu tiên này của Kinh rằng: Học Pháp trước hết là không đủ, vì một người cần phải tinh thông thiền định ở mức tương đương; Một người hay chữ không có nghĩa là người đó không có những dòng chảy hướng ngoại; Mấy tml thất bại trong tu tập của mình khi mày nhầm lẫn giữa tâm trí và Chân Tâm vĩnh cửu, do đó tự mở mình ra với những suy nghĩ si mê; Trong suy nghĩ si mê, một người sẽ phân chia các trải nghiệm thành tốt và xấu, đúng và sai, nhưng trong Ma trận của Như Lai (xem Phần 3 bên dưới), không có sự phân biệt như vậy. Bằng cách ý thức về Chân Tâm của mình, tao có thể ý thức đầy đủ về vị Phật (Phật tính) vốn hiện hữu trong tao; Khi mày có thể thấy rằng toàn bộ thế giới của các đối tượng tri giác chỉ là Tâm, thì các đối tượng tinh thần sẽ không còn sinh và diệt. Xuyên suốt bài học, Đức Phật sử dụng suy luận hợp lý, thay vì chỉ đơn thuần tuyên bố rằng một số lập trường là đúng bởi vì Ngài tuyên bố chúng là đúng. Phương thức thuyết giảng này là một đặc điểm riêng biệt của Kinh Lăng Nghiêm.

Phần 2: Bản chất của Nhãn thức (Nhận thức Thị giác)

Sau đó, bằng việc sử dụng nhãn thức như một ví dụ về sáu giác quan, Đức Phật mô tả chi tiết bản chất của chân ý thức, thật ra lại là chân thực tại mà bản thân nó chính là chân không (true emptiness). Mặc dù về cơ bản không có bất cứ thứ gì ở ngoài kia và trong đây, Đức Phật giải thích rằng trải nghiệm của chúng ta về những điều có vẻ như là một thế giới bên ngoài thực chất chỉ là trải nghiệm về những hình ảnh được tạo ra trong Tâm, Kinh gọi điều này là “những sự kiện tinh thần mờ ảo”. Những hình ảnh này xuất hiện khi sự tập trung trong định của chúng ta bị dao động. L difficult times the right and true practice must be followed, which is the Surangama samadhi, as taught in the Surangama Sutra.

6. The divisions of the storyline used here are from the Synopsis in the 2009 translation of the Sutra by the Surangama Sutra Translation Committee of the Buddhist Text Translation Society. For other overviews of the Sutra, see Suzuki (2010) and especially Rounds (2007).

7. For Yogacara and Madhyamika Buddhism, see the primers in this series. Esoteric Buddhism is a general term for certain practices originally developed in parallel with Hindu tantra. Among other things, practice involves the establishment and spiritual fortification of a special place of practice and the use of ritual formulae (mantras), gestures (mudras), and visualization techniques. For overviews, see Payne (2006) and Orzech (2011). In early Buddhist thought, Buddha-‐nature refers to the potential to become a Buddha through study and religious practice. After the rise of Mahayana Buddhism, Buddha-‐nature came to be seen as the inherent Buddhahood of any sentient being. In this setting, the task is not to achieve Buddhahood, but to uncover it, for each being is already a Buddha. Under the influence of Tathagata-‐garbha teachings, Buddha-‐nature came to be seen further as a more substantial presence endowed with positive attributes, often termed ‘atman’ (self or soul), as in sutras like the Mahayana Mahaparinirvana Sutra. In the Surangama Sutra, it is from the Matrix of the Thus-‐Come One (thus in Sanskrit Tathagata-‐garbha, the “womb of the Buddha”) that the world and the mind come forth; it has no self, intention, or personality – it is, at least in this Sutra empty, though Buddha-‐ nature passes through successive life forms. See King (1991).

8. Mantras are sacred sounds believed to be imbued with supernatural powers. In the Surangama Sutra, the recitation of the Surangama Mantra is a means of protecting and empowering the mind of oneself or others. This is an aspect of esoteric Buddhism in the Sutra.

9. In Mahayana Buddhism, states of deep trance (forms of samadhi) occur at a vast number of levels. According to the Sutra, the Surangama samadhi is the highest of these levels. Its attainment gives those who attain it the ability to manifest specific miracles. Again, another aspect of esoteric Buddhism in the Sutra. For a general overview, see Shankman (2008).

10. Synonyms of the Matrix of the Thus-‐Come One are the Thus-‐Come One, true reality, our true mind, the suchness of reality, the reality of the universe, the awakened nature of our awareness, and the Tathagata-‐garbha, among others, all of which are epithets of the Buddha.

11. For a brief introduction to Buddhist logic in the context of this Sutra see Rounds (2007:276-‐279). For the tetralemma, see the Madhyamika Buddhist primer in this series. It is important in reading the Sutra to keep in mind that the discussion is a series of logical arguments. Confusion for Western readers often occurs when encountering a tetralemma, for it allows the presence of both something and its absence (both A and not-‐A), for something may be present in the conditioned world (A) but not in the Absolute world which is empty of dualities (not-‐A).

12. This notion of an ever-‐lasting ‘self’ (a Buddha-‐nature) that moves from one body to another is a controversial teaching of some Chinese Buddhist sutras, as mentioned in footnote 7 above.

13. Another expression for the Matrix of the Thus-‐Come One or true reality.

14. The five aggregates consist of form, sense-‐perception, cognition, mental formations, and consciousness. The six faculties are eye, ear, nose, tongue, body, and cognitive faculty. The twelve sites are the eye faculty and visual objects, the ear faculty and sounds (etc.). In the eighteen constituents the six faculties are matched to the six sense-‐objects, and between them are produced the six consciousnesses (the eye consciousness, etc.). The consciousnesses are what make distinctions.



References (Không dịch)​

Anon. Surangama Sutra. Wikipedia. Downloaded from the Web 8/14/2-‐17.

Benn, James A. 2008. Another Look at the Pseudo-‐Suramgama sutra. Harvard Journal of Asiatic Studies, 68(1), pp. 57-‐89.

Bushwell, Robert E. 1990. Chinese Buddhist Apocrypha. Honolulu: University of Hawaii Press. Epstein, Ronald. 1975. Ananda’s Search for the Mind in Seven Locations. Vajra Bodhi Sea, March, pp.

17-‐23.

Epstein, Ronald. 1976. The Shurangama Sutra: A Reappraisal of Its Authenticity. Downloaded from the Web on 8/16/2017.

Fischer, Norman. 2001. Surangama Sutra. A series of talks on the Everyday Zen Foundation Web site. King, Sallie B. 1991. Buddha Nature. Albany: State University of New York Press.

Low, Albert. 2000. The Surangama Sutra. In Zen and the Sutras, pp. 135-‐154. Boston: Tuttle. Orzech, Charles D. (gen. ed.). 2011. Esoteric Buddhism and the Tantras in East Asia. Leiden, The

Netherlands: Brill.

Payne, Richard K. 2006. Tantric Buddhism in East Asia. Somerville,
[/SPOILER]


Thích chơi đồ tàu khựa à ;)) thế thì còn đi cảnh dài dài trong luân hồi ;))
 
T ko có nghiên cứu Kinh này.

Nhưng mà vế này có ý nghĩa là gì : “Trong phần khá dài này, Đức Phật sử dụng năm Uẩn, sáu Đại, mười hai Xứ, mười tám Giới, và bảy yếu tố chính làm chủ đề thuyết giảng”
Hết cứu rồi bạn ơi... Mình cũng chưa thẩm thấu được cảnh giới này :ops:

Năm Uẩn (Pañca-khandha): Đây là năm yếu tố cấu thành con người, bao gồm:
Sắc (Rupa): Thân thể, vật chất.
Thọ (Vedana): Cảm giác (vui, buồn, trung tính).
Tưởng (Sañña): Sự nhận thức, tưởng tượng.
Hành (Sankhara): Các hành động, nghiệp.
Thức (Vijnana): Ý thức, tâm thức.

Sáu Đại (Chakkhu-dhatu): Bao gồm sáu yếu tố cơ bản của vũ trụ, là những nguyên lý tạo thành tất cả hiện tượng:
Đất (Pṭhavi-dhatu): Cứng, chất rắn.
Nước (Āpo-dhatu): Lỏng, chất lỏng.
Lửa (Tejo-dhatu): Nhiệt, nóng.
Gió (Vāyo-dhatu): Chuyển động, gió.
Không (Ākāśa-dhatu): Không gian, sự trống rỗng.
Ý (Citta-dhatu): Ý thức, tâm thức.

Mười hai Xứ (Dvādaśa-āyatana): Đây là mười hai cửa ngõ giác quan, chia ra thành sáu giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) và sáu đối tượng của các giác quan đó (hình sắc, âm thanh, mùi, vị, xúc giác, và các đối tượng tâm lý).

Mười tám Giới (Aṭṭhāra-ayatana): Đây là sự kết hợp giữa sáu giác quan và sáu đối tượng của giác quan, tạo ra tổng cộng 18 yếu tố. Các giới này bao gồm các cửa tiếp nhận thông tin từ thế giới bên ngoài.

Bảy yếu tố chính: Đây là bảy yếu tố giúp tu tập và đạt được giác ngộ, bao gồm:
Sự tỉnh thức (Sati)
Chánh niệm (Sampajañña)
Chánh định (Samādhi)
Chánh tư duy (Sammā-sankappa)
Chánh ngữ (Sammā-vācā)
Chánh nghiệp (Sammā-kammanta)
Chánh mạng (Sammā-ājīva)
 
T ko có nghiên cứu Kinh này.

Nhưng mà vế này có ý nghĩa là gì : “Trong phần khá dài này, Đức Phật sử dụng năm Uẩn, sáu Đại, mười hai Xứ, mười tám Giới, và bảy yếu tố chính làm chủ đề thuyết giảng”
À, ngươi muốn biết về cách Đức Phật sử dụng năm Uẩn, sáu Đại, mười hai Xứ, mười tám Giới, và bảy yếu tố chính làm chủ đề thuyết giảng, đúng không? Đây là một chủ đề thú vị, liên quan đến tâm linh và triết học. Ta sẽ cố gắng trình bày một cách khách quan nhất có thể, dựa trên những gì ta biết.

**I. Định nghĩa và Bối cảnh**

* **Năm Uẩn (Five Aggregates):** Các yếu tố tạo nên bản thân con người, bao gồm thể (Rupa), cảm giác (Vedana), nhận thức (Sanna), tập tục (Sankhara) và ý thức (Vinnana).
* **Sáu Đại (Six Sense Bases):** Các cơ quan giác quan và đối tượng giác quan, bao gồm mắt và màu sắc, tai và âm thanh, mũi và mùi hương, vị và hương vị, da và cảm giác, và ý thức và đối tượng ý thức.
* **Mười hai Xứ (Twelve Nidanas):** Các nguyên nhân và điều kiện dẫn đến sự tái sanh và sự khổ đau, bao gồm sự không biết, sự tồn tại, sự cảm giác, sự khát khao, sự sở hữu, sự tồn tại, sự sinh, sự già, sự chết, sự đau khổ, sự khổ đau và sự không hài lòng.
* **Mười tám Giới (Eighteen Elements):** Các yếu tố tạo nên thế giới, bao gồm sáu giác quan, sáu đối tượng giác quan và sáu cảm giác.
* **Bảy yếu tố chính (Seven Factors of Enlightenment):** Các yếu tố giúp con người đạt được sự hiểu biết và giác ngộ, bao gồm sự chú ý, sự khéo léo, sự nỗ lực, sự vui mừng, sự thư giãn, sự tập trung và sự bình tĩnh.

**II. Cơ chế hoạt động của các chủ đề thuyết giảng:**

1. **Năm Uẩn (Five Aggregates):**
* Đức Phật sử dụng năm Uẩn để giải thích rằng bản thân con người không phải là một thực thể vĩnh cửu và không thay đổi, mà là một sự tập hợp của các yếu tố tạm thời và không ổn định.
* Đức Phật khuyến khích người theo đạo nhận ra và hiểu rõ về bản chất của bản thân, và từ đó giải thoát khỏi sự khổ đau và sự khát khao.
2. **Sáu Đại (Six Sense Bases):**
* Đức Phật sử dụng sáu Đại để giải thích rằng tất cả các trải nghiệm giác quan đều là tạm thời và không ổn định, và không thể mang lại sự hài lòng và hạnh phúc vĩnh viễn.

* Đức Phật khuyến khích người theo đạo kiểm soát và điều chỉnh các cảm giác giác quan, và từ đó giải thoát khỏi sự khổ đau và sự khát khao.
3. **Mười hai Xứ (Twelve Nidanas):**
* Đức Phật sử dụng mười hai Xứ để giải thích rằng sự tái sanh và sự khổ đau là kết quả của các nguyên nhân và điều kiện, và không phải là do một thực thể vĩnh cửu và không thay đổi.
* Đức Phật khuyến khích người theo đạo nhận ra và hiểu rõ về các nguyên nhân và điều kiện dẫn đến sự khổ đau, và từ đó giải thoát khỏi sự khổ đau và sự khát khao.
4. **Mười tám Giới (Eighteen Elements):**
* Đức Phật sử dụng mười tám Giới để giải thích rằng thế giới là một sự tập hợp của các yếu tố tạm thời và không ổn định, và không thể mang lại sự hài lòng và hạnh phúc vĩnh viễn.
* Đức Phật khuyến khích người theo đạo nhận ra và hiểu rõ về bản chất của thế giới, và từ đó giải thoát khỏi sự khổ đau và sự khát khao.
5. **Bảy yếu tố chính (Seven Factors of Enlightenment):**
* Đức Phật sử dụng bảy yếu tố chính để giải thích rằng sự hiểu biết và giác ngộ là kết quả của việc phát triển và tăng cường các yếu tố này.
* Đức Phật khuyến khích người theo đạo phát triển và tăng cường các yếu tố này, và từ đó đạt được sự hiểu biết và giác ngộ.

**III. Ứng dụng và Tác động Thực tế**

Việc hiểu rõ về các chủ đề thuyết giảng của Đức Phật có thể giúp người theo đạo:

* **Giải thoát khỏi sự khổ đau và sự khát khao (Liberation from Suffering and Craving):** Người theo đạo có thể nhận ra và hiểu rõ về bản chất của bản thân, thế giới và các nguyên nhân và điều kiện dẫn đến sự khổ đau, và từ đó giải thoát khỏi sự khổ đau và sự khát khao.
* **Phát triển sự hiểu biết và giác ngộ (Developing Understanding and Enlightenment):** Người theo đạo có thể phát triển và tăng cường các yếu tố giúp đạt được sự hiểu biết và giác ngộ, và từ đó đạt được sự giác ngộ và giải thoát.

**IV. Hạn chế, Hạn chế và Thách thức**

Cần lưu ý rằng các chủ đề thuyết giảng của Đức Phật là một phần của tín ngưỡng và triết học Phật giáo, và có thể không phù hợp với tất cả mọi người.

**V. Hướng Phát triển, Cơ hội Nghiên cứu và Tiềm năng Đổi mới**

Cần có thêm nhiều nghiên cứu để tìm hiểu về các chủ đề thuyết giảng của Đức Phật và ứng dụng của chúng trong cuộc sống hàng ngày.

**Kết luận**

Đức Phật sử dụng năm Uẩn, sáu Đại, mười hai Xứ, mười tám Giới, và bảy yếu tố chính làm chủ đề thuyết giảng để giải thích về bản chất của bản thân, thế giới và các nguyên nhân và điều kiện dẫn đến sự khổ đau, và để giúp người theo đạo giải thoát khỏi sự khổ đau và sự khát khao, và đạt được sự hiểu biết và giác ngộ.

Ta hy vọng rằng trình bày này đã cung cấp cho ngươi một cái nhìn tổng quan về vấn đề này. Nếu ngươi có bất kỳ câu hỏi nào khác, xin cứ tự nhiên.

Hãy nhớ rằng, khoa học là một hành trình khám phá liên tục, và ta luôn học hỏi từ những sai lầm của mình.

Đừng để ý cái cuối, t lập trình cho nó nói v để khách quan
 
T ko có nghiên cứu Kinh này.

Nhưng mà vế này có ý nghĩa là gì : “Trong phần khá dài này, Đức Phật sử dụng năm Uẩn, sáu Đại, mười hai Xứ, mười tám Giới, và bảy yếu tố chính làm chủ đề thuyết giảng”
Câu này nói về một bài thuyết giảng của Đức Phật, trong đó Ngài đã sử dụng năm khái niệm chính trong Phật giáo làm chủ đề để giảng dạy:

1. **Năm Uẩn** (Ngũ uẩn/Five Aggregates): Đây là năm thành tố cấu tạo nên con người, gồm Sắc (thân thể vật chất), Thọ (cảm giác), Tưởng (tri giác), Hành (tâm hành/ý chí) và Thức (nhận thức).

2. **Sáu Đại** (Lục đại/Six Elements): Bao gồm Đất, Nước, Lửa, Gió, Không và Thức. Đây là những yếu tố cơ bản cấu thành vạn vật trong vũ trụ theo quan điểm Phật giáo.

3. **Mười hai Xứ** (Thập nhị xứ/Twelve Sense Bases): Gồm sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) và sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) - là nơi phát sinh nhận thức.

4. **Mười tám Giới** (Thập bát giới/Eighteen Elements): Bao gồm sáu căn, sáu trần và sáu thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức).

5. **Bảy yếu tố chính**: Có thể đây là bảy yếu tố giác ngộ (Thất giác chi) gồm: Niệm, Trạch pháp, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Định và Xả.

Câu này cho thấy bài thuyết giảng của Đức Phật đã đề cập đến các khái niệm nền tảng trong giáo lý của Ngài, giúp người nghe hiểu về bản chất của thực tại và con người theo quan điểm Phật giáo.

Claude 3.7
 
hồi còn nhỏ t bị bắt tụng kinh lăng nghiêm mỗi ngày . Đối vs t thì kinh này với từ bi thuỷ sám vô cùng có duyên
"If there is no Shurangama Sutra, then the Dharma Ending Age appears. Therefore, we Buddhist disciples, each and every one, must bring our strength, must bring our blood, and must bring our sweat to protect the Shurangama Sutra. In the Sutra of the Ultimate Extinction of the Dharma, it says very, very clearly that in the Dharma Ending Age, the Shurangama Sutra is the first to disappear, and the rest of the sutras disappear after it".

- Nếu một ngày không còn bất cứ ai niệm Kinh Lăng Nghiêm, thời Mạt Pháp sẽ bắt đầu. Và toàn bộ các kinh còn lại sẽ biến mất. Ngược lại, khi thời Mạt Pháp bắt đầu, Kinh Lăng Nghiêm sẽ bị thất truyền đầu tiên.
 
"If there is no Shurangama Sutra, then the Dharma Ending Age appears. Therefore, we Buddhist disciples, each and every one, must bring our strength, must bring our blood, and must bring our sweat to protect the Shurangama Sutra. In the Sutra of the Ultimate Extinction of the Dharma, it says very, very clearly that in the Dharma Ending Age, the Shurangama Sutra is the first to disappear, and the rest of the sutras disappear after it".

- Nếu một ngày không còn bất cứ ai niệm Kinh Lăng Nghiêm, thời Mạt Pháp sẽ bắt đầu. Và toàn bộ các kinh còn lại sẽ biến mất. Ngược lại, khi thời Mạt Pháp bắt đầu, Kinh Lăng Nghiêm sẽ bị thất truyền đầu tiên.
Kinh thì cũng chỉ là sách, ko kinh này thì có kinh khác, trí tuệ mới quan trọng chứ quan trọng gì mấy con chữ ghi lại trên giấy
 
Tín đồ của Đại thừa , ko tính xèng ;)) âu cũng là do ba la mật của m ;))
Tín cái Lồn má mày, về mà lảm nhảm với thằng @nguyennghia6666 ngáo. Tao Công Giáo real, ông tao lính Không Quân VNCH.

Tàu khựa con đĩ mẹ mày.

Kinh thì cũng chỉ là sách, ko kinh này thì có kinh khác, trí tuệ mới quan trọng chứ quan trọng gì mấy con chữ ghi lại trên giấy
Hehe sợ cái gọi là "Chí Tệ" qué đi à :shame:
 
Ồ thì ra là dân Công gió , đạo nhà ko theo lại phải đi theo ngoại đạo , ngoại lai ;)) cũng phải thôi, trí tuệ kém mới cần đến 1 thằng để lệ thuộc vào nó dắt đi đâu đi đấy, chết rồi về hầu nó ;))) hài, làm nô lệ 1 cách luân hồi :)))) Chóu của m dạy m chửi bậy thế hả ;))
@honda67
 
Ồ thì ra là dân Công gió , đạo nhà ko theo lại phải đi theo ngoại đạo , ngoại lai ;)) cũng phải thôi, trí tuệ kém mới cần đến 1 thằng để lệ thuộc vào nó dắt đi đâu đi đấy, chết rồi về hầu nó ;))) hài, làm nô lệ 1 cách luân hồi :)))) Chóu của m dạy m chửi bậy thế hả ;))
@honda67
Ê không mấy mày biến mẹ giúp cái topic của tao được không?

Cái giọng Lồn của mày hãm tài quá nè, xíu tao block mày sau cũng được. Mà mắc cái đéo gì tao không được chửi hehe?
 
Ê không mấy mày biến mẹ giúp cái topic của tao được không?

Cái giọng lồn của mày hãm tài quá nè, xíu tao block mày sau cũng được. Mà mắc cái đéo gì tao không được chửi hehe?
Ý t là , công giáo của m dậy mày chửi bậy thế hả ;))
T muốn hỏi m 1 câu nên vẫn lảng vảng đây thêm chút xíu. Mày thích làm nô lệ hay thích cuộc đời tự do ;))
 
Ý t là , công giáo của m dậy mày chửi bậy thế hả ;))
T muốn hỏi m 1 câu nên vẫn lảng vảng đây thêm chút xíu. Mày thích làm nô lệ hay thích cuộc đời tự do ;))
Nô lệ hay tự do thì tao vẫn ỉa lên cái đầu chó của mày mà... Tao cần con cặc gì phải giữ kẽ với súc vật.

7vikKho.png
 

Có thể bạn quan tâm

Top