• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Có Hình [Tổng Hợp]: Lịch Sử Hiện Đại Việt Nam

Topic này sẽ tổng hợp các bài viết nhỏ lẻ, ngắn, tùy hứng do t đọc đc ở đâu, đọc đến đâu thì up lên đây đến đó.

6 Sự kiện đặt nền móng cho Chiến tranh Việt Nam (Nam -Bắc)

Cuộc xung đột ở Việt Nam bắt nguồn từ phong trào giành độc lập chống lại sự cai trị của thực dân Pháp và phát triển thành một cuộc đối đầu trong Chiến tranh Lạnh.

Chiến tranh Việt Nam (1955-1975) diễn ra giữa miền Bắc Việt Nam cộng sản, được Liên Xô và Trung Quốc hậu thuẫn, và miền Nam Việt Nam, được Hoa Kỳ hỗ trợ. Cuộc xung đột đẫm máu này có nguồn gốc từ sự cai trị của thực dân Pháp và một phong trào độc lập do lãnh đạo cộng sản Hồ Chí Minh dẫn đầu.

Việt Nam trở thành chiến trường trong Chiến tranh Lạnh khi Hoa Kỳ và Liên Xô tranh giành quyền thống trị thế giới. Đến khi chiến tranh kết thúc, miền Bắc và miền Nam Việt Nam đã được thống nhất, nhưng với cái giá rất đắt. Dưới đây là sáu sự kiện dẫn đến Chiến tranh Việt Nam.


1. Sự sụp đổ của Đông Dương thuộc Pháp và sự trỗi dậy của Hồ Chí Minh

Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp vào năm 1877 với sự thành lập Đông Dương thuộc Pháp, bao gồm Tonkin, An Nam, Cochin China và Campuchia. (Lào được thêm vào năm 1893.) Pháp mất quyền kiểm soát thuộc địa của mình trong thời gian ngắn trong Thế chiến II khi quân đội Nhật chiếm đóng Việt Nam.

Khi Nhật Bản và Pháp tranh giành Việt Nam, một phong trào độc lập đã hình thành dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, một nhà cách mạng được truyền cảm hứng từ Cách mạng Bolshevik của Lenin. Ông đã thành lập Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam, được biết đến nhiều hơn với tên gọi Việt Minh, vào tháng 5 năm 1941.

Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập cho Việt Nam khỏi Pháp vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, chỉ vài giờ sau khi Nhật Bản đầu hàng trong Thế chiến II. Khi Pháp từ chối kế hoạch của ông, Việt Minh đã sử dụng chiến tranh du kích để chiến đấu vì một Việt Nam độc lập.

Bạn có biết không? Hồ Chí Minh đã sử dụng Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ làm mẫu cho Tuyên ngôn Độc lập của mình, viết: “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng: Đấng Tạo Hóa đã ban cho chúng ta những quyền bất khả xâm phạm, cuộc sống, tự do và hạnh phúc!”


2. Trận Điện Biên Phủ

Cuộc xung đột giữa Pháp và Việt Minh lên đến đỉnh điểm tại Trận Điện Biên Phủ quyết định, khi, sau bốn tháng bao vây, Pháp thua trước Việt Minh dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp, đánh dấu sự kết thúc của sự cai trị của Pháp ở Việt Nam. Câu hỏi ai sẽ cai trị Việt Nam và như thế nào đã thu hút sự quan tâm của các siêu cường thế giới, những người đang theo dõi tình hình ở Việt Nam với sự lo lắng ngày càng tăng.


3. Hiệp định Geneva năm 1954 chia cắt Việt Nam

1954 Geneva Accords

CÁC NHÀ NGOẠI GIAO TỪ HOA KỲ, LIÊN XÔ, CỘNG HÒA NHÂN DÂN TRUNG QUỐC, VƯƠNG QUỐC ANH, BẮC VÀ NAM HÀN, VÀ PHÁP CŨNG NHƯ CÁC ĐẠI DIỆN TỪ VIẾT MINH (BẮC VIỆT NAM), NHÀ NƯỚC VIỆT NAM (Miền Nam Việt Nam), CAMPUCHIA VÀ LÀO TRONG PHIÊN HỌP TẠI HỘI NGHỊ GENEVA THÁNG 7 NĂM 1954. HIỆP ĐỊNH GENEVA SẼ GIẢI QUYẾT LIÊN MINH ĐÔNG DƯƠNG PHÁP.

Hiệp định Geneva được ký kết vào tháng 7 năm 1954 và chia cắt Việt Nam tại vĩ tuyến 17. Miền Bắc Việt Nam sẽ do chính phủ cộng sản của Hồ Chí Minh cai trị và miền Nam Việt Nam sẽ do hoàng đế Bảo Đại lãnh đạo. Một cuộc bầu cử được lên lịch trong hai năm để thống nhất Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ, lo sợ rằng một cuộc bầu cử quốc gia sẽ dẫn đến sự cai trị của cộng sản, đã đảm bảo rằng nó không bao giờ diễn ra.

“Sự chia cắt ‘tạm thời’ của đất nước tại vĩ tuyến thứ mười bảy thành hai quốc gia đối lập về ý thức hệ có nghĩa là cuộc xung đột dân sự ở Việt Nam sẽ va chạm toàn diện với sự cạnh tranh Đông-Tây,” giáo sư Lien-Hang T. Nguyen, Giáo sư Lịch sử Hoa Kỳ và Đông Á tại Đại học Columbia cho biết.


4. Chiến tranh Lạnh

Việt Nam bị chia cắt trong Chiến tranh Lạnh khi căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Liên Xô đang ở mức cao nhất mọi thời đại. Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949, và vào tháng 1 năm 1950, Trung Quốc cùng với Liên Xô chính thức công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cộng sản.

Trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ thực hành chính sách ngăn chặn. Học thuyết Truman của Tổng thống Harry S. Truman cam kết hỗ trợ chính trị, quân sự và kinh tế cho các quốc gia dân chủ đối mặt với các mối đe dọa từ lực lượng cộng sản. Người kế nhiệm ông, Tổng thống Dwight D. Eisenhower, đưa ra Thuyết Domino rằng một chiến thắng của cộng sản ở Việt Nam sẽ tạo ra hiệu ứng domino ở Đông Nam Á... và do đó phải ngăn chặn bằng mọi giá.

“Chiến tranh Việt Nam vừa là một cuộc chiến để giải quyết các vấn đề của chủ nghĩa đế quốc châu Âu trong không gian hậu thuộc địa mới, một cuộc chiến giữa chủ nghĩa Marx-Lenin và Chủ nghĩa Tư bản-Dân chủ, và một cuộc chiến giữa các phe phái Việt Nam,” Nguyễn nói.


5. Sự lật đổ của Ngô Đình Diệm
Ngo Dinh Diem

Ngô Đình Diệm


Hoàng đế Bảo Đại được kế nhiệm bởi nhà dân tộc Công giáo Ngô Đình Diệm. Lập trường chống cộng mạnh mẽ của ông được người Mỹ yêu thích, những người đã giúp ông lên nắm quyền. Nhưng sự ưu đãi của Diệm đối với thiểu số Công giáo đã dẫn đến các cuộc biểu tình trên khắp miền Nam Việt Nam. Vào tháng 5 năm 1963, tám người biểu tình Phật giáo đã bị quan chức chính phủ giết hại ở Huế.

Để đáp lại, nhà sư Thích Quảng Đức đã tự thiêu giữa một giao lộ đông đúc ở Sài Gòn. Các nhà sư khác bắt đầu tự thiêu trong cái gọi là “khủng hoảng Phật giáo.” Hoa Kỳ mất niềm tin vào khả năng lãnh đạo của Diệm.

Tháng 11 đó, Hoa Kỳ ủng hộ một cuộc đảo chính quân sự trong đó Diệm và anh trai, Ngô Đình Nhu, bị sát hại. (Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy sẽ bị ám sát chưa đầy ba tuần sau đó.) Cuộc đảo chính được theo sau bởi một loạt các chính phủ kế nhiệm hỗn loạn ở miền Nam Việt Nam từ năm 1963 đến năm 1965.


6. Sự kiện Vịnh Bắc Bộ

Sự kiện Vịnh Bắc Bộ, còn được gọi là sự kiện U.S.S. Maddox, đánh dấu sự tham gia chính thức của Hoa Kỳ vào Chiến tranh Việt Nam.

“Vào mùa hè năm 1964, chính quyền Johnson đang lập kế hoạch bí mật cho việc mở rộng sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Các quan chức xác định rằng bất kỳ hành động rộng lớn nào như vậy đều nên có sự ủng hộ của quốc hội, và sự kiện Vịnh Bắc Bộ đã cung cấp cơ hội để đạt được sự ủy quyền này,” Fredrik Logevall, Giáo sư Fredrik D. Belfer về Các vấn đề Quốc tế tại Trường Chính phủ John F. Kennedy thuộc Đại học Harvard cho biết.

Vào ngày 2 tháng 8 năm 1964, tàu U.S.S. Maddox đã gặp ba tàu phóng lôi do Liên Xô chế tạo của miền Bắc Việt Nam trong Vịnh Bắc Bộ. Maddox đã bắn những gì nó mô tả là phát cảnh cáo và bị đáp trả bằng ngư lôi và súng máy. Vào ngày 4 tháng 8, tàu khu trục U.S.S. Turner Joy và U.S.S. Maddox báo cáo rằng họ đã bị phục kích, mặc dù tài khoản của Turner Joy kể từ đó đã bị các nhà sử học đặt câu hỏi.
 
Sửa lần cuối:
M có thấy giết Diệm là một sai lầm của nước Mỹ ko. Thời Diệm làm tổng thống là 8 năm hoàng kim của VNCH, csan phía bắc ko dám động thủ.

Mà đến giờ t vẫn thắc mắc tại sao Nhu là kiến trúc sư tư tưởng lý luận của VNCH lại có những chính sách đàn áp tôn giáo, vv.
 
M có thấy giết Diệm là một sai lầm của nước Mỹ ko. Thời Diệm làm tổng thống là 8 năm hoàng kim của VNCH, csan phía bắc ko dám động thủ.

Mà đến giờ t vẫn thắc mắc tại sao Nhu là kiến trúc sư tư tưởng lý luận của VNCH lại có những chính sách đàn áp tôn giáo, vv.
Ông Diệm dính tới đàn áp tôn giáo + ko thân Mỹ nên bị khử.
Chính trị thì quyền lợi luôn luôn đi đầu.
 
Ông Diệm dính tới đàn áp tôn giáo + ko thân Mỹ nên bị khử.
Chính trị thì quyền lợi luôn luôn đi đầu.
Ông Nhu mới là người đàn áp tôn giáo, ông Diệm còn là người ủng hộ xây dựng, trùng tu chùa chiền.


Mà nghĩ lại thì t nói nó là sai lầm của ng Mỹ cx ko hẳn đúng, nó là sai lầm của ng VNCH. Còn theo cách nhìn của csan thì nói là việc giết Diệm dẫn đến VNCH suy yếu và sụp đổ, Mỹ rút quân là sai lầm thì có thể đúng. Nhưng ở hướng nhìn của người Mỹ thì ko hẳn vì trước giờ Mỹ đổ quân hay rút quân ở đâu đều có lợi nhuận cả. Mỹ đổ quân và VN để ngăn chặn hiệu ứng Domino. Khi Mỹ "thua cuộc" rút quân thì cx là lúc hiệu ứng Domino hết tác dụng, CNCS ở các nc ĐNÁ khác đều ko còn cơ hội phát triển, kèm theo kéo đc TQ về phe mình chống lại LX. Rốt cục người thua cuối cùng là ng VNCH nói riêng và tất cả ng VN nói chung; chúng ta là những con cờ trên bàn cờ lợi ích của các nước lớn. Người VN chém giết nhau vì lợi ích của nước khác, mỗi lần nghe bài "Gia tài của mẹ" của TCS t lại thấy buồn.

Mà dù sao cái j xảy ra thì cx xảy ra rồi ko thể nói nếu đc. Nếu nó mà ko xảy ra như thế thì thời gian đã rẽ sang hướng khác. Trong dòng thời gian đấy thì có khi t với m hay thg thầy @Olineasdf đều ko tồn tại, ko gặp đc nhau; mọi sự trên đời đều là cái dell j ấy nhỉ.
 
M có thấy giết Diệm là một sai lầm của nước Mỹ ko. Thời Diệm làm tổng thống là 8 năm hoàng kim của VNCH, csan phía bắc ko dám động thủ.

Mà đến giờ t vẫn thắc mắc tại sao Nhu là kiến trúc sư tư tưởng lý luận của VNCH lại có những chính sách đàn áp tôn giáo, vv.
Cuộc đời nghiên cứu lịch sử của tao thì tao nhận thấy toàn bộ lịch sử Việt Nam người ngu dốt nhất về chính trị là anh em Diệm Nhu và sau đó là Hồ Quý Ly.
Mỹ lẽ ra phải giết Diệm ngay từ lúc hắn chưa lên tổng thống kìa.
 
Cuộc đời nghiên cứu lịch sử của tao thì tao nhận thấy toàn bộ lịch sử Việt Nam người ngu dốt nhất về chính trị là anh em Diệm Nhu và sau đó là Hồ Quý Ly.
Mỹ lẽ ra phải giết Diệm ngay từ lúc hắn chưa lên tổng thống kìa.
Tại sao?
 
Trận Điện Biên Phủ (1954)

Trận Điện Biên Phủ, diễn ra từ ngày 13 tháng 3 đến ngày 7 tháng 5 năm 1954, là một chiến thắng quân sự quyết định của Việt Nam, kết thúc sự cai trị thực dân của Pháp tại Việt Nam. Sau trận đánh này, đất nước được chia thành Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam, tạo ra cơ sở chính trị cho xung đột tiếp theo và cuối cùng là Chiến tranh Việt Nam.


Các cuộc xâm lược quân sự của Pháp bắt đầu ở Việt Nam

Sau khi kiểm soát của Trung Quốc đối với Đông Nam Á và Việt Nam kết thúc vào năm 969, một loạt các triều đại phong kiến đã cai trị trong 915 năm tiếp theo. Các thương nhân Pháp bắt đầu buôn bán ở Việt Nam vào thế kỷ 17, và sau đó các nhà truyền giáo Thiên Chúa giáo Pháp cũng đến. Để bảo vệ họ, các cuộc xâm lược quân sự của Pháp bắt đầu vào năm 1858. Đến năm 1884, Việt Nam, Lào và Campuchia đã trở thành một thuộc địa của Pháp, được gọi là Đông Dương thuộc Pháp.

Sau Thế chiến II, Pháp tìm cách tái lập quyền kiểm soát của mình đối với khu vực này. Họ cử quân đội đến để khôi phục quyền cai trị thuộc địa. Họ đã phải đối đầu với Việt Minh, một phong trào dựa trên nền tảng Cộng sản do nhà dân tộc chủ nghĩa Việt Nam Hồ Chí Minh đứng đầu, tìm kiếm độc lập cho Việt Nam.


Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất

Việt Minh bắt đầu chiến đấu chống lại quân đội Pháp vào năm 1946 trong cái được gọi là Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, ban đầu sử dụng chiến thuật du kích và sau đó là các phương pháp chiến tranh thông thường khi nhận được vũ khí và hỗ trợ tài chính từ Liên Xô và Trung Quốc.

Vào tháng 11 năm 1953, hàng ngàn lính dù Pháp đổ bộ vào thung lũng Điện Biên Phủ ở vùng núi phía tây bắc Việt Nam gần biên giới Lào. Họ chiếm được một sân bay nhỏ ở đó và bắt đầu xây dựng một pháo đài quân sự bao gồm một chuỗi các cứ điểm kiên cố trên chu vi 40 dặm xung quanh sân bay.

Pháp đưa vào hơn 15.000 binh sĩ nhưng lực lượng lớn này bị căng mỏng để bảo vệ chu vi rộng lớn. Họ bị thiếu hụt nghiêm trọng về quân số. Việt Minh có gần 50.000 binh sĩ dưới sự chỉ huy của Tướng Võ Nguyên Giáp, một người cộng sản nhiệt thành và được coi là một trong những chiến lược gia quân sự vĩ đại nhất của thế kỷ 20.

Pháp có hai mục tiêu chính trong việc chiếm đóng Điện Biên Phủ. Họ muốn có một căn cứ để có thể tấn công và làm suy yếu các tuyến đường tiếp tế vào Lào, hỗ trợ cuộc nổi dậy ngày càng tăng ở quốc gia này. Và họ muốn khiêu khích Việt Minh vào một cuộc tấn công lớn, tin rằng lực lượng Pháp sẽ chiến thắng trong loại chiến tranh này.

Pháp đã đánh giá thấp sự lãnh đạo của Giáp cũng như vũ khí và khả năng của quân đội Việt Minh. Lực lượng Pháp dự kiến sẽ dựa vào sân bay để tiếp tế, cho rằng Việt Minh không có vũ khí chống máy bay.

Giap không làm gì để ngăn chặn cuộc xâm lược ban đầu. Trong bốn tháng, quân đội của ông chuẩn bị. Họ trải dài qua các ngọn đồi dốc cho đến khi quân đội thực sự bao vây thung lũng Điện Biên Phủ. Họ đào các vị trí pháo binh được bảo vệ tốt và bằng cách nào đó đã di chuyển những khẩu pháo lớn lên xuống các sườn đồi dốc và qua những cánh rừng rậm rạp đến vị trí của họ.


Việt Minh bao vây lực lượng Pháp

Vào ngày 13 tháng 3 năm 1954, dưới bầu trời tối của đêm không trăng, pháo binh Việt Minh bắt đầu pháo kích vào một trong những cứ điểm kiên cố của Pháp và quân đội bao vây toàn bộ tiền đồn của Pháp. Ngày hôm sau, pháo binh của Giáp đã làm tê liệt sân bay và quân đội của ông tấn công và chiếm được một cứ điểm kiên cố khác.

Trong hai tháng tiếp theo, dưới sự che chở của pháo binh mà Pháp không thể chế ngự, lực lượng Việt Minh đã áp dụng kiểu chiến tranh chiến hào như trong Thế chiến I, đào bới càng ngày càng gần các tuyến của Pháp trong khi cố gắng cô lập các cứ điểm còn lại của Pháp. Không có sân bay hoạt động, không quân Pháp phải thả tiếp tế bằng dù trong khi bị bắn hạ. Họ mất 62 máy bay trong trận chiến; thêm 167 chiếc khác bị hư hại.

Vào ngày 30 tháng 3 năm 1954, quân đội Việt Minh tấn công hai cứ điểm kiên cố nữa. Các cuộc tấn công và phản công đẫm máu và tuyệt vọng đã diễn ra trong gần một tuần khi người Pháp chiến đấu với sự quyết tâm dữ dội nhưng vẫn tiếp tục lùi bước. Đến ngày 22 tháng 4, quân của Giáp đã chiếm được 90% sân bay, buộc phải ngừng các cuộc thả dù và khiến quân đội Pháp rơi vào tình trạng tồi tệ và xấu đi.

Tổn thất về người của cả hai bên là rất lớn và Giáp phải kêu gọi quân tiếp viện từ Lào trước khi tiếp tục các cuộc tấn công trên bộ vào chu vi của Pháp đang thu hẹp vào ngày 1 tháng 5. Kết thúc đến vào ngày 7 tháng 5, khi sự kháng cự cuối cùng của Pháp tan rã, và một người lính Việt Nam đứng trên đỉnh trụ sở của Pháp, vẫy cờ đỏ vàng của Việt Minh trong chiến thắng.


Số lượng thương vong cao cho cả hai bên

Trận chiến kéo dài 57 ngày là một thất bại hoàn toàn đối với quân đội Pháp
, họ mất hơn 2.200 binh sĩ tử trận, và gần 11.000 người khác bị bắt, trong đó có hơn 5.100 người bị thương.
Chỉ có khoảng 3.300 tù binh Pháp sống sót trở về. Hàng ngàn người đã chết trong tù khi Pháp đàm phán rút lui khỏi Đông Dương trong Hội nghị Geneva năm 1954.

Các điều khoản của thỏa thuận hòa bình tháng 7 năm 1954 kêu gọi tạm thời chia cắt Việt Nam thành Bắc và Nam, dự định sẽ kết thúc bằng các cuộc bầu cử quốc gia thống nhất vào năm 1956. Tuy nhiên, các cuộc bầu cử này không bao giờ diễn ra. Hai quốc gia khác biệt đã xuất hiện, với Bắc Việt Nam Cộng sản được hỗ trợ bởi Liên Xô và Trung Quốc, và Nam Việt Nam được hỗ trợ bởi Hoa Kỳ và một số đồng minh.


Dẫn đến Chiến tranh Việt Nam

Cuộc đấu tranh đòi độc lập hoàn toàn của Việt Nam không dừng lại, và ở Nam Việt Nam, các lực lượng nổi dậy đã hợp nhất thành Việt Cộng. Với sự hỗ trợ của Bắc Việt Nam và quân đội của họ, Việt Cộng tiến hành chiến tranh du kích để thách thức lực lượng Mỹ ngày càng lớn, dẫn đến Chiến tranh Việt Nam, còn được gọi là Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, kéo dài từ những năm 1950 đến những năm 1970.

Năm 1973, Hoa Kỳ rút quân đội của mình. Hai năm sau, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, Nam Việt Nam sụp đổ và Việt Nam trở thành một quốc gia cộng sản thống nhất và độc lập. Thủ đô cũ của nó, Sài Gòn, được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh.


Điện Biên Phủ ngày nay

Ngày nay, Điện Biên Phủ là một điểm thu hút khách du lịch lịch sử nổi tiếng của Việt Nam. Nó có một bảo tàng hiện đại và nhiều phần của chiến trường được bảo tồn, bao gồm một số vị trí kiên cố của Pháp, trụ sở Pháp và khu phức hợp trụ sở Việt Minh. Các chuyến bay thương mại thường xuyên từ Hà Nội hạ cánh tại cùng một sân bay, hiện đã được lát bê tông.

Nguồn
  • “An Analysis of the French Defeat at Dien Bien Phu,” by Major Harry D. Bloomer, USA, GlobalSecurity.org.
  • “Dien Bien Phu and the Fall of French Indochina,” Office of the Historian, Foreign Service Institute, United States Department of State.
  • “Dien Bien Phu: Digging Into History,” (Dien Bien Phu today), by Stephen Grenville, The Interpreter, Lowy Institute.
  • “Dien Bien Phu,” FactsandDetails.com.
  • “What the French Lost at Dien Bien Phu,” by Geoffrey Norman, history.net.
 
Những quốc gia nào đã tham gia vào Chiến tranh Việt Nam?


Làm thế nào mà tám quốc gia bị mắc kẹt trong trận chiến ủy nhiệm của Chiến tranh Lạnh tại Việt Nam.

Chiến tranh Việt Nam thoạt nhìn là một cuộc nội chiến giữa miền Bắc cộng sản và miền Nam thân phương Tây.

Tuy nhiên, người Việt không phải là những người duy nhất chiến đấu. Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác đã can thiệp, hỗ trợ cả hai phía—nhưng chủ yếu là miền Nam Việt Nam—với quân đội, vũ khí và nguồn cung. Việc làm này đã biến cuộc nổi dậy du kích nhỏ thành một cuộc xung đột lớn trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.

Dưới đây là danh sách các quốc gia đã đóng vai trò trong Chiến tranh Việt Nam và chi tiết về lý do họ tham gia.

Pháp


Pháp đã là một quốc gia chiếm đóng lâu dài ở Việt Nam trước năm 1954 và không muốn dính líu vào cuộc xung đột mới.

Sau Chiến tranh Thế giới thứ II, Pháp tái chiếm Việt Nam như một phần trong nỗ lực khôi phục đế chế trước chiến tranh của mình. “Người Pháp đã kiểm soát Việt Nam trong vài thế hệ,” Ed Moise, giáo sư lịch sử tại Đại học Clemson và tác giả cuốn sách "Tonkin Gulf and the Escalation of the Vietnam War" giải thích. “Họ quyết tâm tiếp tục nắm giữ nó, vừa vì lòng tự hào dân tộc, vừa vì nếu họ để một thuộc địa tự do, thì những thuộc địa khác có thể cũng có ý tưởng tương tự.”

Tuy nhiên, hầu hết người Việt phản đối sự cai trị thực dân và một cuộc nổi dậy do lãnh đạo cộng sản và người ủng hộ độc lập Hồ Chí Minh lãnh đạo đã nổ ra. Năm 1954, lực lượng của Hồ giành chiến thắng quyết định tại Điện Biên Phủ và thành công trong việc trục xuất người Pháp một lần và mãi mãi.


French Indochina War

BOM SẴN SÀNG LÊN TÀU BAY PHÁP CHO CUỘC CHIẾN ĐIỆN BIÊN PHÚ CỦA
CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG NGÀY 10 THÁNG 4 NĂM 1954.​

Khi Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, hay còn được biết đến ở Hoa Kỳ là Chiến tranh Việt Nam, bắt đầu không lâu sau đó, Pháp đã tránh xa. Thực tế, Tổng thống Pháp Charles de Gaulle đã cảnh báo người đồng cấp Hoa Kỳ của mình, John F. Kennedy Jr., rằng Việt Nam sẽ là một “vũng lầy quân sự và chính trị không đáy.” Dù có cái nhìn xa, nhưng lời khuyên này cuối cùng đã không được chú ý.


Hoa Kỳ

Hoa Kỳ tham gia để ngăn cản miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản. Ban đầu, Hoa Kỳ hoạt động đằng sau hậu trường, nhưng sau năm 1964, họ đã gửi quân chiến đấu và ngày càng bị lún sâu vào cuộc chiến.

Sau thất bại của Pháp trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, một thỏa thuận quốc tế đã chia Việt Nam làm đôi. Hồ Chí Minh lãnh đạo miền Bắc, trong khi Ngô Đình Diệm được Hoa Kỳ hậu thuẫn nắm quyền ở miền Nam. Các cuộc bầu cử đã được lên kế hoạch để thống nhất đất nước trong vòng hai năm, nhưng Diệm, với sự chấp thuận của Hoa Kỳ, không bao giờ tổ chức cuộc bầu cử mà ông sợ sẽ thua. Thay vào đó, một cuộc nổi dậy cộng sản bùng nổ, đối đầu giữa cái gọi là Việt Cộng, được miền Bắc Việt Nam tài trợ, và lực lượng của Diệm.

Quyết tâm ngăn miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản, Hoa Kỳ đã hỗ trợ Diệm hàng tỷ đô la viện trợ, cũng như số lượng ngày càng tăng của các cố vấn quân sự. Như sau này Pentagon Papers đã tiết lộ, “chế độ Diệm chắc chắn, và một miền Nam Việt Nam độc lập gần như chắc chắn, không thể tồn tại” nếu không có sự giúp đỡ của Hoa Kỳ.


Những ngày đầu của lính Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam




Các quan chức Hoa Kỳ cuối cùng đã mất niềm tin vào Diệm, ngầm chấp thuận một cuộc đảo chính năm 1963 dẫn đến cái chết của ông. Tuy nhiên, sự ủng hộ của họ đối với miền Nam Việt Nam không bao giờ dao động, bất kể ai là người đứng đầu Nhà Trắng.

Sau một thời gian, “không ai nghĩ rằng họ sẽ chiến thắng,” James McAllister, giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Williams, nói, “nhưng họ chắc chắn rằng một thất bại sẽ không diễn ra dưới sự giám sát của họ.”

Ban đầu, Hoa Kỳ chủ yếu hoạt động đằng sau hậu trường. Tuy nhiên, vào năm 1964, sự kiện Vịnh Bắc Bộ đã thúc đẩy Tổng thống Lyndon B. Johnson cam kết gửi quân chiến đấu và khởi động một chiến dịch ném bom lớn, và sự can thiệp của Hoa Kỳ chỉ ngày càng sâu hơn từ đó.

Đến khi quân đội Hoa Kỳ cuối cùng rút lui vào năm 1973, khoảng 2,7 triệu binh sĩ Hoa Kỳ đã phục vụ tại Việt Nam, hơn 58,000 người đã chết, và quốc gia này đã tích lũy được một hóa đơn khổng lồ ít nhất 111 tỷ đô la (cộng thêm hàng tỷ đô la nữa cho chi phí phi quân sự).

Trải nghiệm của Pháp và Mỹ tại Việt Nam khác nhau trên nhiều phương diện. Tuy nhiên, như Moise chỉ ra, họ đều học được một bài học quan trọng: “Rất nguy hiểm khi tham gia vào một cuộc chiến khi bên kia quan tâm đến chiến thắng hơn bạn.”


Trung Quốc

Trung Quốc mới cộng sản đã ủng hộ Hồ Chí Minh trong cuộc chiến với Pháp, và tiếp tục làm như vậy trong cuộc chiến với Hoa Kỳ bằng cách cung cấp vũ khí, chuyên môn và nhân lực.

Bất chấp tình hình kinh tế kém vào thời điểm đó, Trung Quốc mới cộng sản đã giúp đỡ Hồ Chí Minh trong cuộc chiến với Pháp, và lại làm như vậy trong cuộc chiến với Hoa Kỳ, cung cấp vũ khí, chuyên môn và nhân lực.

Tất cả các chi phí, người Trung Quốc tuyên bố đã chi hơn 20 tỷ đô la để hỗ trợ miền Bắc Việt Nam và triển khai 320,000 nhân sự quân sự, hơn 4,000 người trong số họ đã chết.

Hầu hết, người Trung Quốc ở lại phía sau, xây dựng lại các khu vực bị phá hủy bởi bom Mỹ và đảm nhận các khẩu đội pháo phòng không. Nhưng có lẽ vai trò lớn nhất của họ là phòng ngừa: Họ đã làm rõ rằng nếu quân đội Mỹ xâm lược miền Bắc Việt Nam, họ sẽ đáp trả tương tự.


china-vietnam-war-gettyimages-527130336.jpg

Poster có tựa đề “Ủng hộ nhân dân Việt Nam” vào khoảng năm 1969, thể hiện
sự ủng hộ của Trung Quốc đối với chính nghĩa cộng sản ở Việt Nam.



Không giống như trong Chiến tranh Triều Tiên, Hoa Kỳ đã nhượng bộ trước mối đe dọa này. “Chức năng của họ là như một dây cảnh báo,” Moise nói, “cảnh báo người Mỹ: ‘Đừng đi quá xa… hoặc bạn sẽ chiến đấu với chúng tôi.’”

Trung Quốc và Liên Xô không cần phải làm nhiều như người Mỹ, Moise giải thích, vì họ đang củng cố phía mạnh hơn. Tuy nhiên, “nếu không có sự hỗ trợ của Trung Quốc hay Liên Xô, miền Bắc Việt Nam không thể chiến thắng,” ông nói, chỉ ra rằng ngân sách quân sự của Hoa Kỳ lớn hơn khoảng 30 lần tổng sản phẩm quốc gia của miền Bắc Việt Nam.



Liên Xô

Là quốc gia cộng sản ban đầu, Liên Xô đã hỗ trợ miền Bắc Việt Nam, với sự hỗ trợ ngày càng tăng vào cuối những năm 1960. Trong khi Liên Xô cung cấp một số quân đội, đóng góp lớn nhất của họ là về vũ khí.

Mặc dù ban đầu không quan tâm nhiều đến Chiến tranh Việt Nam, Liên Xô đã bí mật tăng cường hỗ trợ cho miền Bắc Việt Nam sau khi Nikita Khrushchev bị hạ bệ. Người Liên Xô muốn “làm cho cuộc sống của Hoa Kỳ trở nên khó khăn,” McAllister nói, “nhưng họ không muốn làm điều đó theo cách gây ra xung đột với Hoa Kỳ.”


soviet-union-vietnam-war-gettyimages-170984744.jpg

MỘT BẢNG BIỂU PHÍ KỲ CHIẾN TRANH LẠNH Ở MOSCOW CÓ HÌNH THẤY BOM RƠI
TRÊN BÁC SAM ĐỌC, 'KẺ XẤU HẠI NGOÀI VN!' VÀO NĂM 1968.​

Sự tham gia của Liên Xô vào cuộc chiến gia tăng vào cuối những năm 1960, khi ảnh hưởng của Trung Quốc giảm dần. (Hai nước này đang trải qua một cuộc chia rẽ cay đắng vào thời điểm đó.)

Trong số các loại vũ khí khác, Liên Xô đã cung cấp tên lửa đất đối không mà người Trung Quốc chưa đủ khả năng công nghệ để sản xuất. Người Liên Xô thậm chí được cho là đã bắn hạ một số máy bay của Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, tổng thể, họ chỉ đưa vào khoảng 3,000 quân, ít hơn nhiều so với người Trung Quốc.


Lào


Lào ban đầu trung lập trong cuộc xung đột, nhưng miền Bắc Việt Nam đã di chuyển quân đội qua nước này và hỗ trợ một cuộc nổi dậy cộng sản. Cuộc nổi dậy này đã dẫn đến cuộc ném bom nặng nề của Hoa Kỳ.


vietnam-war-gettyimages-515118544.jpg

"Quân đội bí mật" do CIA tài trợ của Thiếu tướng. VANG PAO TẠI LONG CHENG, NƠI CHÍNH PHỦ MỸ VÀ LÀO CHO PHÉP BÁO CHÍ MỘT CÁI NHÌN HIẾM VỀ CĂN CỨ NĂM 1972. MỘT MÁY BAY HUẤN LUYỆN T-28 ĐƯỢC CHUYỂN ĐỔI GẦN BOM 250 POUND DO PHI CÔNG MEO CỦA "LỰC LƯỢNG KHÔNG KHÍ MINI" CỦA MEO SỬ DỤNG CHỐNG NGƯỜI BẮC Ở BẮC LÀO.


Năm 1962, Hoa Kỳ, cả hai miền Việt Nam và một số quốc gia khác đã đồng ý tôn trọng tính trung lập của Lào và không can thiệp vào các vấn đề của nước này, nơi nằm ở phía tây Việt Nam. Tuy nhiên, miền Bắc Việt Nam ngay lập tức vi phạm thỏa thuận, di chuyển quân đội và nguồn cung qua Lào thay vì đi qua khu vực phi quân sự được bảo vệ nghiêm ngặt chia cách miền Bắc và miền Nam Việt Nam.

Miền Bắc Việt Nam cũng thống trị cuộc nổi dậy cộng sản chống lại chính phủ hoàng gia của Hoàng tử Souvanna Phouma, đẩy người cộng sản Lào vào vai trò “đối tác cấp dưới,” theo mô tả của Moise.

Để đáp trả những vi phạm của miền Bắc Việt Nam, người Mỹ bí mật ném hàng tỷ pound bom xuống Lào. Chiến dịch kéo dài chín năm này rất khốc liệt đến mức, trung bình, mỗi tám phút một chiếc máy bay ném bom rơi xuống, biến Lào trở thành quốc gia bị ném bom nặng nề nhất trên thế giới tính trên đầu người. Đạn chưa nổ từ thời Chiến tranh Việt Nam vẫn tiếp tục giết hại người Lào (và người Việt Nam và Campuchia) đến ngày nay.

Trong khi đó, Tổng thống Richard Nixon đã cho phép cuộc xâm lược qua biên giới vào Lào vào năm 1971. Tuy nhiên, dù người Mỹ đã thử mọi cách, họ không bao giờ thành công trong việc làm gián đoạn nghiêm trọng các tuyến cung cấp của miền Bắc Việt Nam, cũng như không ngăn cản sự sụp đổ của Lào vào tay cộng sản vào năm 1975.


Campuchia

Campuchia, dù chính thức trung lập, đã chịu đựng sự xâm nhập của cộng sản và bị Hoa Kỳ ném bom vì những xâm nhập này.

Không có gì ngạc nhiên, miền Bắc Việt Nam cũng di chuyển quân đội và nguồn cung qua Campuchia lân cận, nơi dù chính thức trung lập, đã chịu đựng sự xâm nhập của cộng sản.

Hoàng thân Norodom Sihanouk “cơ bản cảm thấy rằng ông bị bao quanh bởi những kẻ thù nguy hiểm, và ông phải làm thân với một số trong số họ,” Moise nói, thêm rằng “ông không thể xúc phạm” miền Bắc Việt Nam dù ông “chống cộng sản trong chính trị Campuchia.”

Hoa Kỳ đáp trả bằng một chiến dịch ném bom bí mật mà Nixon đã tăng cường đáng kể vào năm 1969. Sau đó, Nixon đã gửi quân qua biên giới vào năm 1970, lợi dụng một cuộc đảo chính đã lật đổ Sihanouk để ủng hộ một tướng quân thân Mỹ.

Bom Mỹ đã giết chết hàng chục ngàn người Campuchia, điều mà một số sử gia cho rằng có thể đã tăng cường sự ủng hộ cho Khmer Đỏ, một nhóm nổi dậy cộng sản đã bắt đầu một cuộc diệt chủng tàn bạo khi lên nắm quyền vào năm 1975.

Dù cộng sản Việt Nam đã liên minh với Khmer Đỏ trong Chiến tranh Việt Nam, họ cuối cùng đã lật đổ chế độ này vào năm 1979.



Hàn Quốc và các đồng minh khác của Hoa Kỳ

Hàn Quốc là đối tác chính của Hoa Kỳ và miền Nam Việt Nam, đóng góp hơn 300,000 binh sĩ vào cuộc chiến.


Không muốn bị coi là đang tự mình hành động, chính quyền Johnson đã gây áp lực lên các quốc gia khác để tham gia vào Chiến tranh Việt Nam, giống như George W. Bush sau này đã thành lập một “liên minh sẵn sàng” để chiến đấu trong Chiến tranh Iraq.

Hàn Quốc là đối tác chính của Hoa Kỳ và miền Nam Việt Nam, cung cấp hơn 300,000 binh sĩ và chịu thiệt hại khoảng 5,000 người chết. “Người Hàn Quốc đã gửi nhiều binh sĩ hơn và binh sĩ hung hãn hơn [so với các đồng minh khác của Hoa Kỳ],” Moise nói.

Ông giải thích rằng họ một phần được thúc đẩy bởi cảm giác nghĩa vụ và sự đồng cảm về mặt tư tưởng: Sau tất cả, họ không thể không nhận thấy những điểm tương đồng lịch sử giữa họ và miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, họ cũng được Hoa Kỳ trả công bằng viện trợ kinh tế và quân sự.

Viện trợ tài chính, cùng với mong muốn lấy lòng Hoa Kỳ, cũng thu hút các quốc gia khác. Cũng vậy, nỗi sợ hãi thực sự về chủ nghĩa cộng sản, Moise nói.

Cuối cùng, gần 60,000 người Úc đã phục vụ (521 người trong số họ đã chết), khoảng 40,000 người Thái Lan đã phục vụ (321 người đã chết), và hơn 3,000 người New Zealand đã phục vụ (37 người đã chết).

Philippines, Đài Loan và Tây Ban Nha cũng đã hỗ trợ nỗ lực chiến tranh của Hoa Kỳ, trong khi phía cộng sản, Bắc Triều Tiên và Cuba được cho là đã gửi hỗ trợ tượng trưng.


Việt Nam


Chiến tranh Việt Nam được mô tả là một cuộc nội chiến trong miền Nam Việt Nam, mặc dù nó trở thành một cuộc chiến ủy nhiệm giữa các cường quốc trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.

Kết quả là, người Việt Nam chịu thiệt hại cao nhất trong cuộc xung đột này.

Các chiến thuật tàn bạo là tiêu chuẩn trong Chiến tranh Việt Nam, và không ai chịu đựng nhiều hơn chính người Việt Nam, cả ở miền Bắc và miền Nam.

Đến năm 1975, khi quân đội miền Bắc Việt Nam chiếm Sài Gòn và thống nhất đất nước dưới sự cai trị cộng sản, ước tính từ 1 triệu đến 3 triệu người Việt Nam đã chết, nhiều người trong số đó là dân thường.
 
Sửa lần cuối:
Dòng thời gian Chiến tranh Việt Nam
 
Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh lần đầu tiên nổi lên như một tiếng nói mạnh mẽ ủng hộ độc lập cho Việt Nam khi còn là một thanh niên sống ở Pháp trong Thế chiến I. Bị ảnh hưởng bởi Cách mạng Bolshevik, ông gia nhập Đảng Cộng sản và đến Liên Xô. Ông đã giúp thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào năm 1930 và Mặt trận Việt Minh vào năm 1941.

Vào cuối Thế chiến II, các lực lượng Việt Minh chiếm thành phố Hà Nội ở miền Bắc Việt Nam và tuyên bố thành lập Nhà nước Dân chủ Việt Nam (hay Bắc Việt Nam) với Hồ làm Chủ tịch.

Được gọi là “Bác Hồ,” ông sẽ giữ chức vụ này trong 25 năm tiếp theo, trở thành biểu tượng của cuộc đấu tranh thống nhất Việt Nam trong một cuộc xung đột dài và tốn kém với chính quyền chống Cộng sản mạnh mẽ ở Nam Việt Nam và đồng minh quyền lực của họ, Hoa Kỳ.

Hồ Chí Minh là ai?

Hồ Chí Minh tên thật là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, tại một ngôi làng ở miền trung Việt Nam (khi đó thuộc thuộc địa Pháp Đông Dương) thuộc tỉnh Nghệ An, con của Hoàng Thị Loan và Nguyễn Sinh Sắc. Hồ học tại Học viện Quốc gia ở Huế trước khi bị đuổi học vì phản đối hoàng đế Bảo Đại và ảnh hưởng của Pháp ở Đông Dương. Vào năm 1911, ông tìm được việc làm là đầu bếp trên một tàu hơi nước của Pháp và dành những năm tiếp theo trên biển, đi đến các địa điểm như Châu Phi, Hoa Kỳ và Anh.

Đến năm 1919, ông sống ở Pháp, nơi ông tổ chức một nhóm người di cư Việt Nam và kiến nghị với các đại biểu tại Hội nghị Hòa bình Versailles yêu cầu chính phủ thuộc địa Pháp ở Đông Dương trao quyền lợi giống như những quyền mà nó dành cho các nhà cai trị của nó.

Bị ảnh hưởng bởi thành công của Cách mạng Bolshevik của Vladimir Lenin, ông gia nhập Đảng Cộng sản Pháp mới vào năm 1920 và đến Moscow ba năm sau. Ông nhanh chóng bắt đầu tuyển dụng thành viên cho một phong trào dân tộc chủ nghĩa Việt Nam sẽ trở thành nền tảng của Đảng Cộng sản Đông Dương (thành lập tại Hồng Kông vào năm 1930) và đã đi khắp thế giới, bao gồm Brussels, Paris và Xiêm (hiện nay là Thái Lan), nơi ông làm việc như một đại diện của tổ chức Quốc tế Cộng sản.

Hồ Chí Minh: Thành lập Việt Minh và Bắc Việt Nam

Khi Đức đánh bại Pháp vào năm 1940, trong Thế chiến II, Hồ thấy đây là cơ hội cho sự nghiệp dân tộc chủ nghĩa Việt Nam. Vào thời điểm này, ông bắt đầu sử dụng tên Hồ Chí Minh (tạm dịch là “Người mang ánh sáng”). Với các cộng sự Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng, Hồ trở về Việt Nam vào tháng 1 năm 1941 và tổ chức Việt Minh, hay Mặt trận Độc lập Việt Nam. Bị buộc phải tìm sự trợ giúp của Trung Quốc cho tổ chức mới, Hồ bị chính quyền chống Cộng sản của Tưởng Giới Thạch giam giữ trong 18 tháng.

Với chiến thắng của Đồng minh vào năm 1945, quân Nhật rút khỏi Việt Nam, để lại Hoàng đế Bảo Đại, người được giáo dục ở Pháp, làm người đứng đầu một Việt Nam độc lập. Dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp, các lực lượng Việt Minh chiếm thành phố Hà Nội ở miền Bắc và tuyên bố thành lập Nhà nước Dân chủ Việt Nam (thường được gọi là Bắc Việt Nam, hay Cộng hòa Dân chủ Việt Nam) với Hồ làm Chủ tịch. Bảo Đại thoái vị để nhường quyền cho cách mạng, nhưng quân đội Pháp chiếm quyền kiểm soát miền Nam Việt Nam, bao gồm Sài Gòn, và các lực lượng Trung Quốc của Tưởng Giới Thạch di chuyển vào miền Bắc theo các điều khoản của một thỏa thuận của Đồng minh. Hồ bắt đầu đàm phán với Pháp nhằm đạt được sự rút lui của Trung Quốc cũng như sự công nhận độc lập của Việt Nam và thống nhất Bắc và Nam Việt Nam. Nhưng vào tháng 10 năm 1946, một tàu tuần dương của Pháp đã nổ súng vào thành phố Hải Phòng sau một cuộc đụng độ giữa quân Pháp và quân Việt Nam. Dù Hồ đã nỗ lực hết sức để duy trì hòa bình, các người theo chủ nghĩa cách mạng của ông kêu gọi chiến tranh, và chiến tranh bùng nổ vào tháng 12 năm đó.

Bạn có biết?

Vào tháng 2 năm 1967, Hồ Chí Minh đã trả lời một thông điệp cá nhân từ Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson bằng cách thông báo rằng người Bắc Việt Nam sẽ không bao giờ đàm phán dưới sự đe dọa của bom.

Hồ Chí Minh: Hướng tới chiến tranh với Hoa KỳTrong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, Pháp đã đưa Bảo Đại trở lại quyền lực và thiết lập nhà nước Việt Nam (Nam Việt Nam) vào tháng 7 năm 1949, với Sài Gòn làm thủ đô. Xung đột vũ trang giữa hai nhà nước tiếp tục cho đến khi một trận đánh quyết định tại Điện Biên Phủ kết thúc với thất bại của Pháp trước các lực lượng Việt Minh. Các cuộc đàm phán hiệp định tiếp theo tại Geneva (nơi Hồ được đại diện bởi cộng sự của ông Phạm Văn Đồng) phân chia Đông Dương và kêu gọi tổ chức các cuộc bầu cử để thống nhất vào năm 1956.

Được Hoa Kỳ ủng hộ, chính phủ Nam Việt Nam chống Cộng sản mạnh mẽ của Ngô Đình Diệm từ chối ủng hộ các hiệp định Geneva và trì hoãn các cuộc bầu cử vô thời hạn. Vào năm 1959, xung đột vũ trang bùng nổ trở lại, khi các du kích Cộng sản được gọi là Việt Cộng bắt đầu phát động các cuộc tấn công vào các mục tiêu (bao gồm cả các cơ sở quân sự của Mỹ) ở Nam Việt Nam. Việt Cộng kêu gọi sự giúp đỡ từ Bắc Việt Nam, và vào tháng 7, ủy ban trung ương của Đảng Lao Động (Đảng Cộng sản) của Hồ đã bỏ phiếu liên kết việc thiết lập chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc với sự nghiệp thống nhất với miền Nam.

Con đường Hồ Chí Minh

Con đường Hồ Chí Minh được đặt theo tên Hồ Chí Minh và là một tuyến đường cung cấp quân sự được sử dụng bởi Việt Minh để gửi hàng hóa từ Bắc Việt Nam (qua Lào và Campuchia) đến những người ủng hộ ở Nam Việt Nam. Tại thời kỳ cao điểm, mỗi ngày có hàng tấn hàng hóa, vũ khí và đạn dược được gửi đi. Trong những năm 1960, đây là một mục tiêu phổ biến cho các cuộc tấn công bằng bom của Mỹ.

Hồ Chí Minh và Chiến tranh Việt Nam

Tại cuộc họp cùng thời điểm đó, Hồ đã nhượng chức vụ tổng bí thư đảng cho Lê Duẩn. Ông sẽ tiếp tục giữ chức vụ chủ tịch danh nghĩa của Bắc Việt Nam trong cuộc chiến Việt Nam, nhưng sẽ đóng vai trò ít nổi bật hơn. Đối với nhân dân của ông, “Bác Hồ” cũng vẫn là một biểu tượng quan trọng của sự thống nhất Việt Nam. Hoa Kỳ tiếp tục tăng cường sự hỗ trợ cho Nam Việt Nam, gửi viện trợ kinh tế và – bắt đầu từ tháng 12 năm 1961 – quân đội. Các cuộc không kích của Mỹ chống lại Bắc Việt Nam bắt đầu vào năm 1965, và vào tháng 7 năm 1966, Hồ gửi một thông điệp đến nhân dân của quốc gia rằng “không có gì quan trọng hơn trong lòng người Việt Nam hơn độc lập và giải phóng.” Đây trở thành phương châm của sự nghiệp Bắc Việt Nam.

Ngay sau cuộc Tổng tiến công Tết của Bắc Việt Nam vào đầu năm 1968, Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson quyết định ngừng leo thang chiến tranh và kêu gọi bắt đầu các cuộc đàm phán hòa bình. Xung đột vẫn tiếp tục cho đến ngày 2 tháng 9 năm 1969, khi Hồ Chí Minh qua đời tại Hà Nội ở tuổi 79. Các lực lượng Mỹ cuối cùng rời Việt Nam vào tháng 3 năm 1973.

Sự sụp đổ của Sài Gòn

Vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, bài hát “White Christmas” phát từ các đài radio khắp Sài Gòn, báo hiệu cho người Mỹ rời khỏi thủ đô. Bảy nghìn người, chủ yếu là người Mỹ và người Nam Việt Nam, đã được sơ tán khỏi thành phố. Những bức ảnh về sự hỗn loạn trên đường phố khi đàn ông, phụ nữ và trẻ em chen chúc tìm chỗ trên các trực thăng cuối cùng đã được phát sóng trên toàn thế giới.

Vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, vài người Mỹ còn lại ở Nam Việt Nam được không vận ra khỏi quốc gia khi Sài Gòn rơi vào tay các lực lượng cộng sản. Đại tá Bùi Tin của Bắc Việt, khi tiếp nhận sự đầu hàng của Nam Việt Nam vào cuối ngày, đã nói, “Bạn không có gì phải sợ; giữa người Việt Nam không có kẻ thắng và kẻ bại. Chỉ có người Mỹ bị đánh bại.” Vào ngày hôm đó, Sài Gòn được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh.

Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh nước ngoài dài nhất và không được ưa chuộng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ và đã gây ra cái chết của 58.000 người Mỹ và lên đến hai triệu quân nhân và dân thường Việt Nam
 

Chiến tranh Việt-Trung 1979


Tác giả: Việt Long

Mục tiêu tuyên bố của cuộc “phản kích tự vệ” là để dạy cho Việt Nam một bài học. Giới phân tích nhận định, thay vì dạy cho Việt Nam một bài học, Trung Quốc đã học được bài học quân sự đắt giá của chính mình.[1] Đánh giá về hệ quả cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung 1979 cần đối chiếu với các mục tiêu của các bên đề ra trước cuộc chiến.

Về mục tiêu chính trị: Trung Quốc không thể “dạy cho Việt Nam một bài học” như lời Đặng Tiểu Bình đã nói. Trung Quốc không tác động được đường lối đối ngoại độc lập tự chủ của Việt Nam. Họ đã không buộc được Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia, cứu được chính quyền Pol Pot. Trung Quốc cũng không gây được ảnh hưởng lên chính phủ Việt Nam trong vấn đề Hoa kiều, chính sách của Việt Nam đối với Trung Quốc, với Liên Xô, với Mỹ. Họ cũng không đánh bại được ý chí của người Việt Nam trong tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Cuộc chiến tranh này tiếp tục thể hiện truyền thống Đại Hán theo đó Trung Quốc là cái nôi của thế giới, các quốc gia nhỏ bé khác bên ngoài Trung Quốc, trong đó có Việt Nam, là man di và phải là những chư hầu trong vùng ảnh hưởng của Trung Quốc, chịu sự dạy dỗ của Trung Quốc. Ý đồ đã được tuyên bố của Trung Quốc là “dạy cho Việt Nam bài học” đã biến mục tiêu hàng đầu của cuộc chiến tranh thành một “hành động trả thù”.[2] Cuộc chiến tranh đã làm các nước trong khu vực lo sợ về hình ảnh một nước lớn sẵn sàng đặt mình trên nước khác, sử dụng vũ lực nếu vị thế và uy lực của mình bị thách thức. Không nước ASEAN nào vui vẻ với sự trừng phạt Việt Nam của Trung Quốc. Đại diện của Singapore tại Liên Hiệp Quốc, Tommy Koh nói tại Liên Hiệp Quốc: “Lẽ ra Trung Quốc không nên tự mình quyết định luật lệ…”[3] Thái độ kẻ cả, không tôn trọng bình đẳng chủ quyền giữa các nước, không phù hợp với luật pháp quốc tế đã bị nhân loại phê phán. “Bất kể vì lý do gì”, Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Sunao Sonoda bình luận rằng “việc gửi quân xâm nhập nước khác là không đúng”.[4] Tuy nhiên, Trung Quốc đạt được những mục tiêu nhất định trong quan hệ với các cường quốc. “Washington vừa công khai lên án cả cuộc xâm lược của Việt Nam vào Campuchia và cả cuộc xâm lược của Trung Quốc vào Việt Nam lại vừa chia sẻ mối quan tâm của Trung Quốc trong việc ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô tại Đông Nam Á. Ý chí sẵn sàng sử dụng vũ lực của Bắc Kinh, bất chấp gánh chịu thương vong, đã biến Trung Quốc thành “một bức tường ngăn chặn có giá trị” chủ nghĩa bành trướng Xô-Việt. Washington vào thời điểm đó đã tiếp tục tìm kiếm một mối quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc để cân bằng cán cân với Liên Xô”.[5] Trung Quốc tỏ rõ quyết tâm ngả về Mỹ, làm hả hê Mỹ vì trả được nhục thất bại tại Việt Nam, tận dụng được viện trợ Mỹ và tiếp tục gây sức ép làm Việt Nam kiệt quệ chảy máu, buộc phải rút khỏi Campuchia vào năm 1989. Trung Quốc cũng đã thành công trong việc tiên liệu đúng phản ứng của Liên Xô qua đó đạt được phần nào mục tiêu hạ thấp vai trò và uy tín của Liên Xô. Với quyết tâm của mình, sự giúp đỡ của Mỹ và khả năng tận dụng các biến cố chính trị, Trung Quốc có đủ thời gian và điều kiện thực hiện hiện đại hóa, thực hiện mục tiêu “cường quốc, cường quân” và vươn lên trở thành cường quốc thứ hai trên thế giới.

Về mục tiêu quân sự: Trung Quốc không thể tiêu diệt được sư đoàn nào của Việt Nam. Họ đã thể hiện trình độ chiến đấu kém trong cuộc chiến. Tại Lạng Sơn, 2 Quân đoàn Trung Quốc đã bị một trung đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam cầm chân trong 1 tuần, một Quân đoàn khác cần 10 ngày để tiến vào Lào Cai và Cam Đường – hai đô thị cách biên giới không đến 15 km. Trung Quốc chiếm Cao Bằng vất vả đến mức cần ít nhất 2 Quân đoàn để tiếp tục tấn công một thị xã mà Trung Quốc tuyên bố đã chiếm được. Tại Quảng Ninh, một trung đội QĐND Việt Nam đã cầm chân 5 tiếng đồng hồ một trung đoàn Trung Quốc đang trên đường chiếm núi Cao Ba Lanh giáp biên giới, gây thương vong cho 360 người trong quân số 2.800 của trung đoàn này.[6] Số chết và thương vong của Trung Quốc trong cuộc chiến là quá cao.[7] Mục tiêu quân sự lớn nhất mà Trung Quốc đạt được có lẽ là Đặng Tiểu Bình đã thành công trong việc sử dụng các thiệt hại đau đớn của cuộc chiến tranh Trung – Việt để thuyết phục lãnh đạo Trung Quốc về nhu cầu cần hiện đại hóa[8].

Về mục tiêu kinh tế: Trung Quốc đã phá hủy tận diệt các cơ sở kinh tế của Việt Nam ở vùng biên giới song không làm kiệt quệ kinh tế Việt Nam, buộc phải phụ thuộc vào Trung Quốc. King C. Chen đã mô tả mức độ triệt hạ như sau: “Ở mọi nơi các cây cầu bị giật sập và các đường xá bị gài mìn và phá hủy. Các bệnh viện tại Lào Cai, Lạng Sơn và Cao Bằng bị triệt hạ. Tại cả ba thị trấn … mọi sự bị đổ nát và tất cả đều câm lặng. Khoảng 80% các kiến trúc bị phá hủy. Không một cột điện duy nhất nào còn đứng lại trong hay quanh ba thị trấn … Có sự khan hiếm nước uống khắp nơi trong vùng và dòng điện bị cắt đứt. Các ngôi làng kề cận cũng nằm trong sự đổ nát …”[9] Các thiệt hại này cộng thêm bao vây cấm vận của Mỹ về lâu dài đã làm cho kinh tế Việt Nam khó khăn.

Về mục tiêu biên giới lãnh thổ: Trung Quốc không thay đổi được đường biên giới Việt – Trung theo ý Trung Quốc nhất là tại những nơi Công ước Pháp – Thanh chưa giải quyết triệt để. Song Trung Quốc cũng không tôn trọng tuyên bố rút quân ngày 5/3/1979 của mình, vẫn tiếp tục chiếm đóng một số vùng đất và điểm cao trong lãnh thổ Việt Nam, khống chế để hợp thức hóa và gây áp lực trong đàm phán.[10] Chiến tranh biên giới vẫn tiếp diễn ở quy mô nhỏ hơn nhưng không kém phần ác liệt cho đến tận 1988. Tình hình này buộc Việt Nam luôn ở trong tình trạng chiến tranh, duy trì lực lượng quân thường trực lớn, gây khó khăn cho kinh tế.

Gerald Segal kết luận, cuộc chiến tranh chống Việt Nam của Trung Quốc năm 1979 là một thất bại hoàn toàn: “Trung Quốc đã không thể buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia, không chấm dứt được các cuộc đụng độ ở biên giới, không tạo được sự nghi ngờ về sức mạnh của Liên Xô, không xua đi được hình ảnh về Trung Quốc là một con hổ giấy, và không kéo được Mỹ vào một liên minh chống Liên Xô”.[11]

Harlan W. Jencks đánh giá: Bất kể mọi tính toán bá đạo tinh vi kiểu Machiavelli trong việc ấn định thời biểu của cuộc “tự vệ hoàn kích”, và bất kể mọi sự hy sinh của các binh sĩ và dân chúng của họ, các giới chức thẩm quyền Trung Quốc có lẽ đã thiệt hại nhiều hơn những gì họ thu được”.[12] James Mulvenon và một số tác giả khác kết luận: “cuộc xâm lăng của Trung Quốc đã là một sự thất bại đáng kinh ngạc”.[13]

Lãnh đạo và các nhà nghiên cứu Trung Quốc lại có cái nhìn khác về chiến thắng khi coi trọng các kết quả địa chính trị hơn là hiệu năng tác chiến trên chiến trường.[14] Đặng Tiểu Bình đã xác quyết một sự chiến thắng chính trị của cuộc chiến tranh bất kể có một số tổn thất về quân sự và tuyên bố nó vẫn là một cuộc chiến thắng của Trung Quốc. Alnie Ginck trong nghiên cứu công bố năm 1992 lại cho rằng: “Cuộc chiến tranh đã đạt được thành công nhất định khi nó được xem như một chiến thuật trong chiến lược chiến tranh tiêu hao kéo dài của Trung Quốc”.[15]

Trung tướng Lưu Á Châu, Chính ủy Đại học Quốc phòng Trung Quốc, nhận xét về thành công của Trung Quốc trong chiến tranh 1979: “Cuộc chiến của Đặng Tiểu Bình là đánh để hai người xem, một là Đảng Cộng sản Trung Quốc, hai là người Mỹ…Về chính trị, cuộc chiến này không thể không đánh.

Sau khi Đặng Tiểu Bình trở lại nắm quyền, thực hiện chương trình cải cách mở cửa, cần thống nhất quyền lực. Cách tốt nhất là qua chiến tranh. Đánh Việt Nam là lấy lòng tin của Mỹ, không phải giúp Mỹ trả nợ thất bại ở Việt Nam mà vì chính lợi ích của Trung Quốc. Cuộc chiến đã tạo nền tảng bình thường hóa quan hệ với Mỹ, có 10 năm quan hệ nồng ấm, mang lại cho Trung Quốc sự viện trợ ồ ạt kinh tế, kỹ thuật, khoa học, nguồn vốn và cả quân sự cần thiết cho cải cách… Tuần trăng mật giữa Mỹ và Trung Quốc kéo dài đến mười năm, đến ngày 4/6/1989 mới tạm lắng.

Cuộc chiến này đem lại cho Trung Quốc những gì? Đó là một lượng lớn thời gian, tiền bạc và kỹ thuật. Nhờ những yếu tố này, Trung Quốc tiếp tục đứng vững sau khi Liên Xô sụp đổ. Đây là thành công vĩ đại. Thậm chí có thể nói, bước đi đầu tiên của cải cách mở cửa Trung Quốc chính là từ cuộc chiến tranh này. Với ý nghĩa đó, cống hiến của quân đội Trung Quốc đối với công cuộc cải cách mở cửa thật to lớn vô cùng”.[16]

Trương Hiếu Minh đưa ra nhận xét: “Đối với Đặng, dạy Việt Nam “bài học” là thông điệp không chỉ gửi cho Việt Nam mà cả cho Liên Xô, Mỹ và các nước phương Tây. Phản ứng của Việt Nam trước cuộc xâm lược là phòng thủ biên giới phía bắc, tiếp tục chính sách thù địch với Trung Quốc, dựa vào Liên Xô để có hỗ trợ tài chính và kinh tế.

Để đáp lại, Mỹ và phương Tây từ 1979 có vẻ quan tâm hơn việc cung cấp hỗ trợ tài chính và công nghệ giúp Trung Quốc cải cách kinh tế. Mỹ không còn nghĩ Trung Quốc là đe dọa, tuy chưa phải là đồng minh. Vì thế Mỹ có thể dốc toàn lực để đánh bại Liên Xô trong thập niên cuối cùng của Chiến tranh Lạnh.

Bên trong Trung Quốc, Đặng không chỉ củng cố được quyền lực chính trị mà cũng thực hiện cả nghị trình cải tổ kinh tế. Liên Xô ở trong tình thế nhiều khó khăn trong thập niên cuối của Chiến tranh Lạnh. Vừa phải cạnh tranh với Mỹ trên toàn cầu, Moskva cũng đối diện thách thức của Trung Quốc ở châu Á. Từ góc nhìn chiến lược, cả Việt Nam và Liên Xô đều gặp khó khăn hơn Trung Quốc. Vì thế Liên Xô rốt cuộc nhận ra họ không thể tiếp tục hỗ trợ Việt Nam vào cuối thập niên 1980.

Việt Nam phải tìm đến Trung Quốc, thừa nhận sai lầm chính sách từ 1978. Rốt cuộc, Trung Quốc đã vượt mặt Việt Nam cả về chính trị và chiến lược”.[17] Cuộc chiến cũng thay đổi cách nhìn nhận chuẩn bị chiến tranh hiện đại cho quân đôi Trung Quốc. Bắc Kinh đã rút ra các bài học cần thiết để hiện đại hóa quân đội. Những thay đổi sau 1979 đã tái sinh Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, giúp họ vươn xa, vươn rộng hơn trên cục diện địa chính trị quân sự thế giới.[18] Lực lượng đặc biệt tinh nhuệ (SOF – special-operations forces) của Trung Quốc, một mô hình giống đặc công Việt Nam, được thành lập và triển khai ngay trong chiến dịch Lão Sơn ở biên giới Việt-Trung[19]

Cuộc chiến biên giới kéo dài và những bất ổn của tình hình quốc tế buộc Việt Nam phải rút khỏi Campuchia, sớm tính đến bình thường hóa quan hệ và nhanh chóng giải quyết vấn đề biên giới.

Một số nhà bình luận quốc tế cũng cho rằng Trung Quốc chịu thất bại về chiến thuật và quân sự trên chiến trường nhưng đạt được một số thành công trong dài hạn.[20] Đây là trận cần đánh để thể hiện với Mỹ sự dứt khoát không chung đường với Liên Xô và Việt Nam, tranh thủ sự giúp đỡ của Mỹ để thực hiện bốn hiện đại hóa. Washington nhìn thấy mối quan tâm của Bắc Kinh và tìm kiếm quan hệ chặt chẽ nhằm kiềm chế ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông Nam Á thông qua Việt Nam.

Cuộc chiến cũng làm phơi bày sự yếu kém lạc hậu về quân sự và kinh tế của Trung Quốc, lý do để Đặng Tiểu Bình nắm thế lãnh đạo thực hiện hiện đại hóa.

Sau năm 1989 (khởi đầu sự sụp đổ của Liên Xô), Việt Nam phải điều chỉnh chiến lược đối ngoại của mình do hậu quả cuộc chiến biên giới và 10 năm suy thoái kinh tế. John M. Peppers[21] phân tích:

Thứ nhất,
Việt Nam đánh mất sự cân băng ảnh hưởng truyền thống, quý giá giữa các cường quốc, nối kết nhiều hơn với Liên Xô. Chính vì thế, Việt Nam, giống như Cuba, đã phải trả giá đắt hơn phần lớn các nước khác với sự sụp đổ của Liên Xô.

Thứ nhì, Việt Nam đã không đạt được mục đích hay vấn đề gì của mình với Trung Quốc. Từ ngay chính vấn đề biên giới, cho đến vùng biển Vịnh Bắc Bộ và các quyền đánh cá, cho đến Quần đảo Trường Sa, các cuộc đàm phán và tiến triển đã bị trì hoãn trong 20 năm. Thứ ba, Việt Nam đã bị gán nhãn hiệu trên bình diện quốc tế như một mối đe dọa cấp vùng (và một chư hầu của Liên Xô), mất đi viện trợ thiết yếu từ Australia, Nhật Bản, Thụy Điển, Đan Mạch, cũng như dầu hỏa của Trung Quốc. Kết quả là một hiệu ứng tàn phá chồng chất trên nền kinh tế trong thời gian dài. Sau cùng, sự căng thẳng và cạn kiệt các nguồn lực trong năm 1979 và hậu quả của nó trên các vấn đề đối nội của Việt Nam không thể bị đánh giá thấp, “bởi đối với Việt Nam, cái giá chiến đấu hai trận chiến tranh trong một thời kỳ ba tháng là quá đắt. Nền kinh tế dọc biên giới Trung Quốc đã bị tàn phá”.
 
Sửa lần cuối:
Trương Hiêu Minh tổng kết 6 bài học cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (QGPND) từ cuộc chiến tranh biên giới 1979:

  1. Bài học thứ nhất là đánh giá thấp khả năng chiến đấu của các đối thủ của mình. Cuộc chiến Việt-Trung năm 1979 cho thấy QGPND quan tâm rất ít đến binh pháp và chiến thuật của QĐND Việt Nam trước khi tấn công Việt Nam, vì vậy đã chịu tổn thất nặng, không đạt được các mục tiêu đề ra. Các tướng lĩnh Trung Quốc cũng phải thừa nhận rằng chiến thuật kiểu du kích, công binh và dân quân tự vệ của Việt Nam đã thành công đáng kinh ngạc trong việc kìm chân quân Trung Quốc.
  2. Bài học thứ hai liên quan đến tình báo và lập kế hoạch. Thiếu thốn thông tin từ lâu về một đồng minh truyền thống đã là một thách thức lớn cho việc lập kế hoạch chiến tranh và kế hoạch tác chiến của Trung Quốc. Các đánh giá về địa lý và địa hình miền Bắc Việt Nam của QGPND thường dựa trên các bản đồ và thông tin địa lý đã lỗi thời, trong khi khả năng trinh sát chiến trường lại bị hạn chế. Một trong những sai lầm lớn của quân đội Trung Quốc là đánh giá sai lực lượng dân quân rất lớn trong dự đoán về sức mạnh quân sự Việt Nam. Kinh nghiệm của QGPND cho thấy, dân quân Việt thể hiện sức đề kháng không hề nao núng và thực hiện các cuộc tấn công bất ngờ hơn vào quân xâm lược hơn cả bộ đội chính quy QĐND Việt Nam.
  3. Bài học thứ ba là về khả năng chiến đấu của QGPND vì đây là lần đầu tiên Trung Quốc áp dụng tác chiến phối hợp với nhiều binh chủng gồm xe tăng, đại bác, bộ binh cùng với một lực lượng không quân và hải quân yểm trợ. Lạc hậu trong binh pháp và chiến thuật khiến quân đội Trung Quốc không thể phối hợp một cách bài bản trong tác chiến.
  4. Bài học thứ tư, QGPND yếu kém về hiệu năng chỉ huy và điều khiển,
  5. Bài học thứ năm, QGPND thiếu một hệ thống và cơ cấu cung cấp hậu cần hiện đại để hỗ trợ cho những chiến dịch quân sự đòi hỏi di chuyển nhanh và ở vùng xa xôi.
  6. Bài học thứ sáu là làm thế nào để có thể diễn giải một học thuyết cũ về chiến tranh nhân dân vào các cuộc xung đột diễn ra bên ngoài biên giới Trung Quốc.[22]
Mục tiêu của Việt Nam trong cuộc chiến biên giới là bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ; tiếp tục ủng hộ nhân dân Campuchia tiêu diệt chế độ diệt chủng Pol Pot đồng thời bảo vệ được sườn phía nam đất nước; bảo vệ được tính độc lập trong chính sách đối ngoại; giải quyết các tranh chấp thông qua đàm phán hòa bình. Hầu hết các mục tiêu này đều đã đạt được. Về tầm nhìn chiến lược, Việt Nam đã thành công trong cứu mình, cứu dân tộc Campuchia khỏi nạn diệt chủng của Khmer Đỏ. Dù muộn mằn nhưng thế giới cũng đã nhìn nhận lại những cống hiến của Việt Nam trong đấu tranh chống tội ác diệt chủng của Pol Pot[23] và giúp dân tộc Campuchia hồi sinh trong nền hòa bình lâu dài. Quân tình nguyện Việt Nam đã đưa ra một thực tiễn sống động, đặt nền móng cho lý thuyết can thiệp nhân đạo mà thập niên 1990 Liên Hợp Quốc và các nước phương Tây áp dụng. Xét từ góc độ lý thuyết, trường hợp Campuchia là kết quả hoàn hảo của can thiệp nhân đạo từ ngoài vào, trong đó quốc gia được hỗ trợ đã hồi sinh và phát triển mạnh mẽ trong hòa bình trong khi các trường hợp Aghanistan, Iraq, Nam Tư cũ, Syria với sự can thiệp của Mỹ, phương Tây, NATO, Nga đến nay vẫn chưa giải quyết xong hậu quả.


Tuy nhiên một lần nữa, lịch sử lại nhắc lại các bài học đáng giá cho Việt Nam:

1. Bài học cảnh giác và lợi ích quốc gia trên hết
. Niềm tin vào những người anh em cùng chung ý ‎thức hệ đã làm Việt Nam mất cảnh giác, không tin bị tấn công trong cả hai cuộc chiến biên giới Tây Nam và phía Bắc.[24] Cuộc chiến 1979 cho thấy trong quan hệ quốc tế, lợi ích quốc gia là cao nhất, trên cả tinh thần quốc tế vô sản và nhiều khi các bên sẵn sàng sử dụng vũ lực để đạt mục tiêu chính trị. Henry J. Kenny nhận xét: “Dù có một điều nhìn chung được công nhận là Việt Nam đã dạy cho Trung Quốc một bài học quân sự trong năm 1979, điều cũng đúng không kém là Trung Quốc đã dạy cho Việt Nam một bài học chính trị. Bài học đầu tiên mà Việt Nam học được là Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực khi cần thiết để đạt được các mục tiêu chính trị quan trọng, bất kể các lời tuyên bố trong quá khứ về nguyên tắc”.[25]

Trung Quốc có thể đã nhận được những bài học và tổn thất về mặt chiến thuật tại chiến trường Campuchia và chiến tranh biên giới với Việt Nam năm 1979 nhưng sự kiên trì ngoại giao của Bắc Kinh đã giúp họ đạt được phần lớn các mục tiêu chính trị sau một giai đoạn chiến lược. Không phải vô cớ, Trung Quốc đã kiên trì kéo dài cuộc chiến ở biên giới phía Bắc tới tận năm 1989 trước khi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Trung Quốc đã tận dụng tốt thời gian 10 năm Mỹ ủng hộ vật chất, khoa học kỹ thuật làm đối trọng với Liên Xô để vươn lên thành cường quốc thứ hai thế giới và hiện đại hóa quân đội. Trung Quốc cũng đã thành công trong việc bao vây, cô lập và kìm hãm kinh tế Việt Nam. Chiến tranh biên giới 1979 là không thể tránh khỏi, khi Trung Quốc đã quyết tâm sử dụng biện pháp quân sự để đạt mục tiêu chính trị. Câu hỏi chỉ còn là làm thế nào, trong các hoàn cảnh tương tự, khôn khéo hạn chế thấp nhất những hậu quả không mong muốn và tránh được những cuộc chiến trong tương lai?

2. Bài học tự cường, độc lập trong các quyết định. Là nước nhỏ, Việt Nam rất cần sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước khác, cần đồng minh trong các mối quan hệ quốc tế song cũng cần tỉnh táo không nghiêng về bên nào, không đánh đổi độc lập chủ quyền lấy một sự giúp đỡ vật chất hay tinh thần. Cuộc chiến 1979 là hậu quả của hai trục quan hệ, ở cấp khu vực là Việt Nam – Campuchia – Trung Quốc, ở cấp quốc tế là trục Trung Quốc – Liên Xô – Mỹ. Hiệp ước Việt – Xô 1978 đóng vai trò phụ trong cuộc chiến. Liên Xô chỉ tăng cường viện trợ kinh tế, quân sự và chưa sẵn sàng dùng quân đội giúp Việt Nam chống xâm lược. Bằng sự độc lập, tự cường và lòng yêu nước cao độ của mình, Việt Nam đã thoát khỏi thế là con tốt trong bàn cờ chính trị quốc tế. Cuộc chiến đấu của Việt Nam đã được nhiều nước trên thế giới đồng tình, ủng hộ không vụ lợi. Chiến tranh 1979 đã tạo cảm hứng cho chính sách đối ngoại của Việt Nam những năm sau này; muốn làm bạn và sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt ý ‎thức hệ, thể chế, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tôn trọng luật quốc tế. Đó cũng là tiền đề cho chính sách “ba không” của quốc phòng Việt Nam: “không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia.”.[26] Đây là sự phát triển đã được đúc kết trong các sách trắng quốc phòng 1998, 2004 và 2009.[27]

3. Bài học chung sống với các nước láng giềng. Việt Nam cần áp dụng nhuần nhuyễn kinh nghiệm chung sống từ lịch sử của cha ông. Một vị tướng Việt Nam sau này đã nhận xét, “phải học cách sống chung với anh hàng xóm to lớn”.[28] Sau khi Trung Quốc tuyên bố rút quân, Việt Nam đã không tiến hành truy kích, một quyết sách giống như Lý Thường Kiệt mở đường cho đội quân của Quách Quỳ về nước năm 1077 hay Nguyễn Trãi ở Hội thề Đông Quan 1427 mở đường cho Vương Thông về nước. Chính trong những ngày tháng ác liệt nhất của chiến tranh biên giới 1979-1989, quyết định tưởng như không tưởng về tìm đường bình thường hóa quan hệ giữa hai nước đã dần được hình thành.

4. Bài học phải tận dụng mọi thời cơ để giảỉ quyết dứt điểm vấn đề biên giới lãnh thổ, tạo môi trường hòa bình ổn định để phát triển đất nước. Tranh chấp biên giới lãnh thổ luôn là ngòi nổ cho hầu hết các cuộc chiến tranh. Khía cạnh tranh chấp biên giới đã bị các yếu tố khác của cuộc chiến làm lu mờ[29] nhưng thực sự đó là vấn đề lớn. Vì vậy một trong những nhiệm vụ đầu tiên sau bình thường hóa quan hệ là đàm phán giải quyết biên giới lãnh thổ.

5. Bài học về xây dựng đất nước. Muốn xây dựng đất nước phải giữ cho được “trong ấm ngoài êm”[30]. Việt Nam mạnh lên mới có thể bảo đảm tránh được các cuộc xung đột vũ trang, mới có tiếng nói và tự quyết định vận mệnh mình. Chính sách đối ngoại của Việt Nam phải tạo được môi trường hòa bình, ổn định thuận lợi cho phát triển kinh tế, xây dựng tiềm lực cho đất nước.

Các bài học này có những mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Việc bình thường hóa và tập trung giải quyết vấn đề biên giới chính nhằm mục tiêu tạo môi trường hòa bình và ổn định cho phát triển một Việt Nam hùng cường trong tương lai.

Cuộc chiến 1979 là một vết đen trong quan hệ hai nước anh em, đã từng sát cánh giúp đỡ nhau trong đấu tranh giành độc lập. Quan hệ hữu nghị không thù nghịch giữa nhân dân hai nước không dễ thay đổi và một lần nữa lại vượt lên những bất đồng. Song nó không còn là quan hệ như trước vì vẫn còn tồn tại những bất đồng về đánh giá cuộc chiến.[31] Sau bình thường hóa quan hệ năm 1991, hai nước thỏa thuận không tuyên truyền nhiều về cuộc chiến 1979, không kỷ niệm chính thức cuộc chiến.[32] Trung Quốc không muốn gợi lại cuộc chiến với những yếu kém của quân đội; không muốn có những bằng chứng liên quan đến Khmer Đỏ khi Tòa án quốc tế xét xử tội ác diệt chủng; không muốn gây lại thù hằn với Việt Nam, đẩy nước này xích lại gần Mỹ.[33] Việt Nam không muốn lại tái hiện tình thế nằm giữa hai gọng kìm trên bộ và biển; không muốn bị cô lập với thị trường lớn thứ hai thế giới và đóng vai trò quan trọng trong trao đổi thương mại; không muốn các thế lực bên ngoài lợi dụng chủ nghĩa dân tộc gây mất ổn định. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày 19/2/2014 đã phát biểu: “Đảng, Nhà nước không bao giờ quên công lao của đồng chí, đồng bào chiến đấu, hy sinh để giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh biên giới xâm lược của Trung Quốc …Các hoạt động kỷ niệm cũng phải tính có lợi cho đất nước nhất”[34].

Lịch sử là lịch sử. Những bài học rút ra từ hai phía là cần thiết, không phải để nuôi dưỡng hận thù, mà để tránh những sai lầm lặp lại, vun đắp cho tình hữu nghị giữa hai nước láng giềng anh em.

Trong giai đoạn này, biên giới Việt – Trung trở lại vai trò phong vũ biểu phản ánh quan hệ xa gần giữa hai nước. Vấn đề biên giới đã bị chính trị hóa, đẩy từ xung đột lên chiến tranh. Cả hai bên đều không muốn những tác hại không lường được của cuộc chiến với mình, nhất là trường hợp của Việt Nam, song cũng không thể tránh khỏi cuộc chiến do tác động của các lực đẩy toan tính chính trị từ bên ngoài và trong nội bộ mỗi nước. Mối quan hệ địa chính trị lâu đời một lần nữa vẫn là dòng chảy chính để hai nước xếp lại bất đồng./.
 

Người TQ viết về sự kiện VN ‘xâm lược’ Campuchia



khmer_rouge_14

Người dân Campuchia tiễn quân tình nguyện Việt Nam về nước.

Biên dịch: Nguyễn Hải Hoành


Lời giới thiệu của người dịch: Việt Nam (VN) giải phóng nhân dân Campuchia khỏi cuộc diệt chủng của Khmer Đỏ là hoàn toàn chính nghĩa, là công trạng to lớn của VN đóng góp vào sự nghiệp tiến bộ của nhân loại. Thế nhưng nhà cầm quyền Trung Quốc (TQ) tìm đủ mọi thủ đoạn xuyên tạc vu khống sự kiện này. Nhưng cuối cùng chính nghĩa bao giờ cũng thắng. Những người TQ có lương tri cũng dần dần hiểu ra sự thật. Bạn đọc có thể thấy rõ điều đó qua bài dưới đây, đăng trên trang mạng Phượng Hoàng, một trang mạng chính thống hàng đầu của TQ, phục vụ người Hoa trên toàn cầu, bình quân hàng ngày có 671 triệu lượt truy cập.

Ngày 7/1/2009, hàng chục nghìn người Campuchia tụ tập tại sân vận động Olympic quốc gia ở Phnom Penh, nhiệt liệt chúc mừng 30 năm ngày kỷ niệm Campuchia thoát khỏi ách thống trị của Khmer Đỏ. Hoạt động kỷ niệm quy mô lớn này do Đảng Nhân dân Campuchia cầm quyền tổ chức và đã thu hút hơn 40 nghìn người tham gia.

Thủ tướng Hun Sen và một số đảng viên Đảng Nhân dân đã tham dự lễ hội trọng thể này. Chủ tịch Thượng viện Campuchia Chia Xim khi đọc diễn văn có nói ngày kỷ niệm này có ý nghĩa trọng đại, nó đánh dấu “một trang đen tối nhất trong lịch sử Campuchia” đã kết thúc. Chia Xim đặc biệt cảm ơn nước láng giềng Việt Nam “đã cứu Campuchia”, đánh giá cao quân tình nguyện Việt Nam đã có những hy sinh to lớn vì để tiêu diệt chính quyền Khmer Đỏ tàn sát nhân dân Campuchia và đã kịp thời ngăn chặn được số phận bất hạnh của nhân dân Campuchia tiếp tục bị Khmer Đỏ tàn sát. (“Tinh Châu nhật báo” của Campuchia ngày 8/1/2009).

Việc Chia Xim cảm ơn Việt Nam rất dễ khiến người ta liên tưởng tới “cuộc chiến phản kích tự vệ chống Việt Nam” do Trung Quốc phát động ngày 17/2/1979, cũng khiến người ta tỏ ý nghi ngờ tính chính đáng của cuộc chiến tranh đó. Tuy rằng hiện nay Trung Quốc cố gắng tránh không nhắc tới cuộc chiến này, nhưng đối mặt với lịch sử, chúng ta phải có dũng khí nhìn thẳng [vào sự thật], xem xét và phán đoán một cách khách quan và công bằng. Hồi ấy Trung Quốc phát động “cuộc chiến phản kích tự vệ chống Việt Nam” có nguyên nhân chính là do Việt Nam xâm lược Campuchia.

Ba chục năm sau, khi đối mặt với cuộc chiến tranh đó, vì sao người Campuchia lại tỏ ý chân thành cảm ơn nước láng giềng Việt Nam “xâm lược” mà không một chữ nhắc tới Trung Quốc? Chúng ta rất cần thiết ôn lại những ngày tháng thực sự khủng khiếp như bị bóng đè đối với người Campuchia ấy – thời kỳ chính quyền Khmer Đỏ thống trị nước này.

Đảng ******** Campuchia thành lập năm 1950, hồi ấy là một nhánh của Đảng ******** Việt Nam. Đến thập niên 1970, đổi tên là Đảng Campuchia Dân chủ (Party of Democratic Kampuchea), sau này được gọi theo tiếng Pháp là “Khmer Đỏ” [Khmer Rouge].

Ngày 18/3/1970, nhân dịp Hoàng thân Norodom Sihanouk đi thăm nước ngoài, tướng Lon Nol đã làm đảo chính lật đổ chính quyền Sihanouk. Sau đó Sihanouk lưu vong ở Bắc Kinh. Hồi đó Khmer Đỏ đối địch với chính phủ Lon Nol.

Được chính phủ Trung Quốc ủng hộ, Sihanouk giúp Khmer Đỏ giành lại chính quyền từ Lon Nol. Ngày 17/4/1975, Khmer Đỏ chiếm Phnom Penh, lật đổ chính phủ Lon Nol, và xây dựng “nước Cộng hòa Dân chủ Campuchia” do Pol Pot lãnh đạo. Từ đó trở đi chính quyền Khmer Đỏ bắt đầu sự thống trị đẫm máu trong gần 4 năm tại Campuchia, nhân dân Campuchia rơi vào thế giới bi thảm đen tối nhất của loài người.

Trong thời gian nắm chính quyền, Pol Pot thi hành sự thống trị vô cùng đáng sợ, hòng cải tạo Campuchia thành một xã hội không phân chia giai cấp, cưỡng chế xua đuổi toàn bộ dân đô thị về nông thôn, tiến hành cuộc đại thanh lọc trong cả nước.

Lấy cớ là máy bay Mỹ sẽ ném bom Phnom Penh, chính quyền Pol Pot kêu gọi dân Phnom Penh, yêu cầu họ sơ tán về thôn quê và hứa sau ba ngày sẽ có thể trở lại Phnom Penh, yêu cầu họ không cần mang theo bất cứ tài sản nào. Sau khi dân cư thủ đô đã xuống nông thôn, phần lớn họ bị chính quyền Khmer Đỏ sát hại, chưa đến một nửa số người sống sót trở về nơi cư trú cũ.

Trong thời kỳ đầu Khmer Đỏ cầm quyền, số người bị thanh trừng gồm dân cư các đô thị, đặc biệt những người có tiếp xúc với phương Tây, trí thức từng tiếp nhận sự giáo dục của phương Tây và các nhân viên làm việc cho chính phủ Lon Nol. Trong thời kỳ sau, những người bị thanh trừng còn có cán bộ các cấp trong thời gian cách mạng Khmer Đỏ.

Dưới sự thống trị của Pol Pot, tiền tệ bị hủy bỏ, nhân dân phải lao động trong các công xã, họ chỉ được ăn trong nhà ăn tập thể, cấm ăn ở ngoài. Trong gần 4 năm dưới sự thống trị của Khmer Đỏ, rất nhiều người đã chết vì đói ăn, đau ốm và lao lực quá mức. Cũng có nhiều người bị hành quyết vì nguyên nhân chính trị hoặc vì phạm các loại lỗi nhỏ nhặt. Theo các thống kê khác nhau, số người Campuchia chết trong thời gian Khmer Đỏ thống trị ước tính khoảng từ 1,2 triệu tới 3 triệu người, chiếm khoảng một phần tư dân số Campuchia, trong đó có 215 nghìn người Campuchia gốc Hoa, và hầu như toàn bộ hơn 10 nghìn người Campuchia gốc Việt Nam.

Cuộc thanh trừng của Khmer Đỏ đã châm ngòi cho cuộc nổi loạn chống Pol Pot nổ ra vào tháng 5/1978, khi những người Campuchia lưu vong ở Việt Nam lập ra “Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia” do Heng Samrin lãnh đạo – ông là một cán bộ lãnh đạo cấp cao trong Khmer Đỏ, nguyên sư đoàn trưởng quân đội Khmer Đỏ và Bí thư một Tỉnh ủy thuộc Đảng ******** Campuchia (nay là Chủ tịch danh dự Đảng Nhân dân Campuchia, Chủ tịch Quốc hội Campuchia).

Ngày 25/12/1978, dưới sự dẫn dắt [nguyên văn đái lĩnh] của Heng Samrin, 100 nghìn “quân tình nguyện” Việt Nam […] mở cuộc tấn công thế như chẻ tre. Tuy nhiều người Campuchia cảm thấy sợ hãi khi thấy quân Việt Nam đến, nhưng được sự dẫn đường của không ít người Khmer Đỏ đầu hàng và của dân chúng Campuchia chịu sự thống trị tàn khốc của Khmer Đỏ, quân đội Việt Nam chỉ sau hai tuần tấn công đã chiếm được Phnom Penh vào ngày 7/1/1979, lật đổ ách thống trị khủng bố của Khmer Đỏ.

Sau đó, lấy lý do quân đội Việt Nam xâm phạm Campuchia, ngày 17/2/1979, chính phủ Trung Quốc đã phát động “Cuộc chiến phản kích tự vệ chống Việt Nam”.

Ba chục năm sau, nhân dân Campuchia chúc mừng việc lật đổ chính quyền Khmer Đỏ, Chia Xim thay mặt nhân dân Campuchia cảm ơn Việt Nam đã giúp lật đổ chính quyền Pol Pot; điều đó khiến chúng ta cần nhận thức lại và tìm hiểu lại giai đoạn lịch sử này.

Trang ba báo “Tin tham khảo” của Trung Quốc ngày 25/1/2006 đưa tin dưới tiêu đề “Thủ tục xét xử Khmer Đỏ sắp khởi động”, cho biết: theo thỏa thuận ký giữa Liên Hợp Quốc và chính phủ Campuchia, một cơ quan quyền lực đặc biệt đang chuẩn bị cho việc thành lập tòa án xét xử Khmer Đỏ. “Giờ đây cuối cùng đã có hy vọng thấy việc sẽ áp dụng các biện pháp tư pháp nhất định để xem xét những người đã gây ra cái chết của hàng triệu dân Campuchia trong thời gian 1975 đến 1979”.

Năm 1998, nhà lãnh đạo Khmer Đỏ là Pol Pot đã chết vì bệnh tim, hiện nay một số nhà lãnh đạo Khmer Đỏ đã bị Tòa án bắt giữ chờ xét xử gồm có nhân vật số hai là Nuon Chea, cựu Bộ trưởng Ngoại giao Ieng Sary cùng vợ là Ieng Thirith, và Kaing Guek Eav. Dự kiến tháng 3/2009 sẽ xét xử Kaing Guek Eav. Những người khác do tuổi cao hoặc đau ốm sẽ hoãn lại đến năm 2010 hoặc muộn hơn mới xét xử. Họ sẽ đối mặt với cáo buộc và kết án phạm tội ác chiến tranh, tội ác diệt chủng hoặc tội chống nhân loại, nhằm an ủi mấy triệu dân chúng Campuchia vô tội bị chúng hãm hại tới chết.

Khi Khmer Đỏ do Pol Pot lãnh đạo dùng hành động đẫm máu tàn bạo viết những trang sử dã man của nhân loại, lịch sử tất nhiên sẽ tiến hành thanh toán những thứ rác rưởi tàn bạo không chút tính người ấy, mãi mãi đóng đinh chúng lên cây cột sỉ nhục của lịch sử.

Trung Quốc từng ủng hộ Khmer Đỏ, cho tới nay chưa ai đứng ra tiến hành suy nghĩ lại về giai đoạn lịch sử đó.

Pol Pot, kẻ tự xưng là “học trò của Mao Trạch Đông” (xem sách “Quốc tế quảng giác”, trang 222), tháng 6/1975 đang ở Trung Quốc, lúc đó Chu Ân Lai đang ốm nặng từng thiện chí khuyên họ không nên làm như thế. Pol Pot và các nhà lãnh đạo Khmer Đỏ hãnh diện tuyên bố: Những người cách mạng trên toàn thế giới có thể học được rất nhiều kinh nghiệm từ Campuchia, “Cách mạng ở bất cứ nước nào đều không thể thực hiện được sáng kiến của Campuchia là rút toàn bộ dân ra khỏi Phnom Penh” (trang 221 sách đã dẫn).

Thủ tướng Hun Sen của Campuchia đã xác minh [nguyên văn: ấn chứng] Pol Pot [là] “học trò của Mao Trạch Đông”. Tuần san châu Á xuất bản tại Hong Kong ngày 5/4/2007 đưa tin: Hun Sen cho rằng “Căn nguyên tư tưởng của cuộc Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc là tư tưởng Mao Trạch Đông. Tư tưởng của Pol Pot bắt nguồn từ tư tưởng Mao Trạch Đông. Tư tưởng Mao được thực thi tại Campuchia nhưng cũng đã bị chứng minh là thất bại”.

Cùng với sự xét xử chính nghĩa [của Tòa án nói trên], giai đoạn lịch sử tàn ác vô nhân đạo do Khmer Đỏ làm nên tất nhiên sẽ bị mổ xẻ, những hành vi bỉ ổi ẩn giấu dưới tư tưởng cách mạng trang nghiêm mà chúng tự xưng sẽ bị phanh phui. Dưới sự cảm hóa và kêu gọi của tinh thần hãy để cho mồi lửa cách mạng vô sản lan ra toàn thế giới, Trung Quốc từng vô tư “ủng hộ và viện trợ” Khmer Đỏ. Nhưng ngược lại, chính cái gọi là lý tưởng cách mạng cao cả của Pol Pot đã đẩy mấy triệu người Campuchia xuống địa ngục muôn đời không thể trở lại trần gian. Khmer Đỏ đội vòng hào quang màu đỏ, rốt cuộc dưới bánh xe chính nghĩa của lịch sử, cái vòng hào quang ấy đã bị chôn vùi, để lại một vệt sử đỏ máu thê thảm của nhân loại.

Nguyễn Hải Hoành biên dịch từ mạng Phương Hoàng, 越南入侵柬埔寨 30年后获尊重” (“[Sự kiện] Việt Nam xâm lược Campuchia – sau 30 năm được tôn trọng”), ngày 8/1/2009.


Sáng ngời chính nghĩa

Quân tình nguyện Việt Nam rút khỏi Campuchia năm 1989.
 

Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm (1955 - 1958)


Nhân Văn Giai Phẩm là phong trào đòi hỏi tự do dân chủ của văn nghệ sĩ và trí thức miền Bắc, có tầm vóc lớn lao, khởi xướng đầu năm 1955 và bị chính thức dập tắt vào tháng 6 năm 1958.

Từ 1959 cho đến nay, hai nguồn tư liệu tương đối đầy đủ về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP) vẫn chỉ là: Cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc(THĐNTĐB) của Hoàng Văn Chí, do Mặt Trận Tự Do Văn Hoá, in ở Sài Gòn năm 1959 và cuốn Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận (BNVGPTTADL) của Nxb Sự Thật, in ở Hà Nội, cùng năm 1959.

Từ thập niên 90 trở đi, ở ngoài nước, có thêm một số tư liệu mới, rải rác dưới dạng tự thuật, bút ký… của những nhà văn đã tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm như Phùng Quán, Phùng Cung, Hữu Loan, Hoàng Cầm… và hồi ký Trần Dần (Văn Nghệ, Californie, 2001). Những tư liệu này góp phần làm sáng tỏ thêm về Nhân Văn Giai Phẩm, giúp các nhà nghiên cứu sau này có thể xây dựng lại bối cảnh toàn diện của phong trào tranh đấu cho tự do sáng tác độc đáo trong lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ XX.

Ngày 13/4/1999, trong dịp nhà thơ Lê Đạt sang Pháp lần thứ nhì, chúng tôi đã đề nghị ghi âm ông, mong ông soi rõ những chỗ chưa được các tài liệu trước nói đến, hoặc nói sai. Buổi nói chuyện -được thu thanh với chủ đích giữ lại làm tài liệu văn học sử- vừa mang tính cách cá nhân, vừa có tính cách hệ thống về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Chúng tôi đã đồng ý với nhà thơ là sẽ chỉ công bố tài liệu sau khi ông qua đời, bởi lúc đó ông cho biết, ông không có ý định viết hồi ký.

Đầu năm 2004, nhân dịp kỷ niệm 50 năm trận Điện Biên Phủ 1954-2004, chúng tôi dự định làm một chương trình đặc biệt kỷ niệm 50 năm phong trào Nhân Văn Giai Phẩm (nếu coi 1954 như thời điểm manh nha sự gặp gỡ giữa các văn nghệ sĩ chủ trương phong trào), vì vậy đã cố gắng liên lạc với nhà thơ Lê Đạt qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội, nhưng không thể thực hiện một cuộc phỏng vấn mới, bởi chỉ qua vài lời đối thoại là đường dây bị nhiễu ngay.

Sau nhiều tháng phân vân, cuối cùng, với sự đồng ý của nhà thơ Lê Đạt, chúng tôi quyết định phát thanh trên RFI, toàn bộ buổi nói chuyện thu thanh ngày 13/4/1999 tại Paris, do đó mà tập tài liệu văn học sử này đến với người nghe và người đọc sớm hơn dự tính.

Đây là lần đầu tiên, một tư liệu trực tiếp qua lời thuật của một thành viên cột trụ trong Nhân Văn Giai Phẩm được công bố. Bên cạnh nhân chứng của Lê Đạt, còn có nhân chứng của hai nhân vật chủ chốt khác trong phong trào, đó là buổi phỏng vấn ngắn nhà chính trị và văn hoá Nguyễn Hữu Đang, ghi âm qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội tháng 8/1995, nhân dịp chúng tôi hỏi ông về việc ông tổ chức ngày lễ Độc Lập 2/9/1945.

Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng có thể ghi âm được ông Nguyễn Hữu Đang. Tất cả những cố gắng về sau đều vô hiệu: bởi chỉ nói vài câu là đường dây điện thoại bị nhiễu ngay. Những buổi nói chuyện với nhà thơ Hoàng Cầm được ghi âm tản mạn trong khoảng thời gian từ 1995 đến 2000, và truyền thanh trên RFI, trong những dịp khác nhau. Các bạn sẽ lưu ý thấy sự trả lời của Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội, không đạt mức độ tự do triệt để như trường hợp trò truyện trực tiếp với Lê Đạt ở Paris. Nhưng tựu trung cả ba chứng nhân cùng đồng quy ở điểm nói thẳng, nói thật cho nên có những câu hỏi cùng đặt ra cho Hoàng Cầm và Lê Đạt ở những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau nhưng những câu trả lời gần như tương tự.

Phần phát biểu của nhà thơ Lê Đạt, cho đến nay, là chứng từ quan trọng và đầy đủ nhất về lịch sử Nhân Văn Giai Phẩm.

* * *

Hoàng Văn Chí, tức Mạc Định, soạn giả Trăm hoa đua nở trên đất Bắc (Mặt Trận Tự Do Văn Hoá xuất bản tại Sài Gòn) cho biết: “Ở Hà Nội ra đi đầu năm 1955, tôi đã hẹn với các bạn ở lại là hễ có dịp sẽ nói lên tiếng nói của họ”, “Tôi làm việc một mình”, “Tôi liên lạc được với một ủy viên trong Ủy ban kiểm soát đình chiến. Họ đi Hà Nội như đi chợ. Mỗi tuần họ cắp về Sài Gòn cho tôi tất cả báo chí xuất bản ở Hà Nội”, ” Tôi làm việc trong hai năm 56-58″. “Bộ Thông tin và nói chung, chính quyền Sài Gòn không hề giúp. Lý Trung Dung đến chào Bộ Thông tin, yêu cầu mua cho một số, nhưng chẳng mua một cuốn nào”.

“Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá ở Việt Nam là một chi nhánh của một tổ chức quốc tế, tên là Congress for Cultural Freedom, trụ sở trung ương ở 104 boulevard Haussmann, Paris. Bác sĩ Lý Trung Dung làm chủ tịch. Tội nghiệp, chỉ vì làm chủ tịch Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá mà phải đi cải tạo đến nay (1986) chưa được thả”. “Trước khi đưa in, Lý Trung Dung nghe nói có người gần ông Diệm ngờ rằng tôi soạn cuốn Trăm hoa đua nở là có ý xúi dục trí thức miền Nam bắt chước trí thức miền Bắc nổi lên chống lại chế độ. Vì vậy nên Lý Trung Dung bàn với tôi nên để bút hiệu Mạc Định là soạn giả. Chỉ ký tên Hoàng Văn Chí vào bài Tựa”

(Phỏng vấn cụ Hoàng Văn Chí, Từ Nguyên thực hiện, bán nguyệt san Tự Do số 50, ngày 16/11/1986, phát hành tại Bỉ).

Hoàng Văn Chí đã nói rõ lý do và điều kiện ra đời của tập THĐNTĐB. Nhưng tại sao Hoàng Văn Chí lại đặc biệt lưu ý đến phong trào Nhân Văn Giai Phẩm? Ai là những người “ở lại” mà Hoàng Văn Chí đã hứa sẽ nói lên tiếng nói của họ? Nếu tìm sâu hơn về liên hệ gia đình giữa Hoàng Văn Chí và Phan Khôi, có thể chúng ta thấy câu trả lời: Sở Cuồng Lê Dư có ba người con gái -và vì bà Lê Dư là em ruột Phan Khôi– cho nên ba cô này là cháu ruột Phan Khôi. Cô đầu gả cho Vũ Ngọc Phan, cô thứ nhì lấy Hoàng Văn Chí và cô út là vợ Tướng Nguyễn Sơn. Riêng nữ sĩ Hằng Phương, vợ nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, đã viết bài đả kích thậm tệ Nhân Văn Giai Phẩm. Và rất có thể, người em ruột Hằng Phương, tức bà Hoàng Văn Chí, là một trong những động cơ thúc đẩy Hoàng Văn Chí thu thập tài liệu và viết về Nhân Văn Giai Phẩm.

Tác phẩm của Hoàng văn Chí, cho đến nay vẫn là tác phẩm hoàn chỉnh nhất về phong trào. Phần lớn những tác nhân chính đều có mặt, với một tiểu sử khá chính xác và những bài viết tiêu biểu của họ trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm. Nhược điểm duy nhất: vì không phải là người trong cuộc, và ông đã rời miền Bắc từ đầu năm 1955, khi phong trào mới manh nha, cho nên có những điểm sai mà ngày nay qua chứng nhân của những người trong cuộc, chúng ta có thể đính chính lại được.

Tập tài liệu tựa đề Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận do Nxb Sự Thật (nay là Nxb Chính Trị Quốc Gia), in tháng 6, năm 1959, tại Hà Nội, là cuốn sách tập hợp những bài viết hoặc diễn văn tố cáo, lên án, buộc tội Nhân Văn Giai Phẩm.

Cuốn sách có một chương nhỏ, in lại “những lời thú tội” của các thành viên Nhân Văn Giai Phẩm, còn toàn thể dành cho phía công tố “phát hiện tội”, với những lời lẽ vô cùng khiếm nhã, khó thể mường tượng được, từ miệng, hoặc từ ngòi bút của giới được gọi là “trí thức văn nghệ sĩ” đối với các đồng nghiệp và bạn hữu của mình đã tham gia Nhân Văn Giai Phẩm. Nó ghi lại một thời kỳ mà nhân cách con người đã đạt tới đáy sâu của sự tha hoá.

Tập tư liệu dày 370 trang này còn hữu ích về mặt lịch sử và văn học sử, nó mở ra nhiều khía cạnh của vấn đề NVGP: về tầm vóc của phong trào, về không khí đàn áp thời đó, về mức độ khốc liệt của lớp đấu tranh Thái Hà mà sau này, nhà thơ Lê Đạt sẽ mô tả một cách tường tận.

Những bài luận tội có tính cách hạ nhục NVGP của 83 văn nghệ sĩ, và các đoàn thể, báo chí, nhân dân cũng như các vị trong ban chấp hành trung ương Đảng, với những tên tuổi như: Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Phạm Huy Thông, Trần Hữu Tước, Đặng Thai Mai, Nguyễn Huy Tưởng, Hồng Cương, Nguyễn Văn Bổng, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông, Hồ Đắc Di, Vũ Đức Phúc, Quang Đạm, Bàng Sĩ Nguyên, Ngụy Như Kontum, Hằng Phương, Lương Xuân Nhị v.v… phản ảnh rất rõ nhân cách của người tố. Ví dụ cách viết của Nguyễn Huy Tưởng, Đặng Thai Mai, không giống cách viết của Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Phạm Huy Thông… Cho nên, có thể nói, chính với những “văn bản tố”, các tác giả đã để lại nhân cách trí thức của mình trong ký ức dân tộc. Sau cùng nhờ cách sắp xếp thứ tự “những tên đầu sỏ” trong cuốn sách mà chúng ta biết được thứ tự “tội” nặng, “tội” nhẹ, cùng hoạt động của mỗi người.
 
Hành trình Nhân Văn Giai Phẩm

Với những tư liệu và nhân chứng hiện hành, ngày nay chúng ta có thể tóm tắt lịch trình hoạt động của phong trào NVGP như sau:

Tháng 3/1955, trong quân đội, nổi lên một phong trào tranh đấu do Trần Dần, Tử Phác chủ trương (với sự cộng tác của Lê Đạt, Hoàng Cầm và các văn nghệ sĩ khác…): Một mặt, lên tiếng phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Một mặt, đưa ra đề nghị cải cách chính sách văn nghệ trong quân đội, chủ yếu đòi trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ.

Tố Hữu viết:

“Cuộc tấn công vào chế độ ta và Đảng ta đã bắt đầu trên mặt trận văn nghệ từ đầu năm 1955, ngay khi hoà bình vừa lập lại.

Trong khi bọn gián điệp còn giấu mặt chờ đợi thời cơ, và bọn tờ-rốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo tích cực chuẩn bị lực lượng ở trường Đại học, thì bọn Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, hai tên phản Đảng ẩn nấp trong báo Văn Nghệ của Hội Văn Nghệ cùng bọn Trần Dần, Tử Phác cũng là những tên phản Đảng trong phòng Văn nghệ quân đội, đã kết thành một bè phái chống Đảng trong Văn nghệ.

Như lời thú nhận của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc là do cái bè phái ấy sắp đặt, để đánh vào sự lãnh đạo và đường lối văn nghệ của Đảng, đường lối phục vụ chính trị cách mạng, phục vụ công nông binh, và để đề xướng cái “điệu tâm hồn” ruỗng nát của chủ nghĩa cá nhân tư sản, mở cửa cho lối sống tự do sa đọa.

Đương nhiên cái “điệu tâm hồn” ấy của Lê Đạt xướng lên không thể nào hoà được với cái điệu lớn của cách mạng, và cũng rất tự nhiên nó chỉ hoà được với “tiếng sáo tiền kiếp” lóc gân của tên mật thám Trần Duy.

Cũng lúc ấy, bọn Trần Dần , Tử Phác -những đứa con hư hỏng của Hà nội cũ- nay lại trở về với “cảnh cũ người xưa” bỗng cảm thấy đời sống trong quân đội “nghẹt thở”, chỉ vì thiếu cái tự do trở lại đời sống trụy lạc cũ. Đối với chúng, đời sống trong quân đội cách mạng chỉ còn là “những sợi dây xích trói buộc phải phá mà ra”. Được tiêm thêm ít nhiều chất phản động của Hồ Phong, Trần Dần gióng lên “tiếng trống tương lai” chửi cán bộ chính trị là “người bệnh”, “người ròi”, “người ụ”. Cùng Tử Phác, khiêu khích những anh em khác, hắn tổ chức một cuộc đấu tranh “buộc lãnh đạo thực hiện mọi yêu cầu” của họ.

Họ đòi thực hiện những gì? “Trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ. Thủ tiêu chế độ chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội. Thủ tiêu mọi chế độ quân sự hiện hành trong văn nghệ quân đội. Thành lập trong quân đội một chi Hội văn nghệ trực thuộc Hội văn nghệ, không qua Cục Tuyên Huấn và Tổng Cục Chính Trị”. Tóm lại là thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng và kỷ luật của quân đội đối với họ”

(Tố Hữu, Nhìn lại 3 năm phá hoại của nhóm “Nhân Văn-Giai Phẩm”, BNVGPTTADL, trang 22-24).

Vì vụ việc này, Trần Dần bị giam trong trại từ 13/6 đến 14/9 để kiểm thảo. Trong thời gian bị giam, Trần Dần viết trường ca Nhất định thắng mà Hoàng Cầm và Lê Đạt đều có bản thảo.

Cùng thời điểm đó, báo Nói Thật của Hoàng Công Khanh trích đăng bài Sự chia tay giữa văn nghệ và chính trị của Lỗ Tấn.

Nhưng phải đến tháng 2 năm 1956, phong trào mới chính thức công khai, với sự xuất hiện của Giai phẩm mùa xuân, do Hoàng Cầm và Lê Đạt chủ trương, đăng các tác phẩm của Trần Dần, Văn Cao, Sĩ Ngọc, Tử Phác, Phùng Quán, Nguyễn Sáng, Tô Vũ… Giai phẩm mùa xuân, ngoài bài Nhất định thắng của Trần Dần xem như cái sườn chính, còn có bài thơ Ông bình vôi của Lê Đạt, và Cái chổi quét rác rưởi của Phùng Quán. Lúc đó, Trần Dần và Tử Phác, đang tham gia cải cách ruộng đất tại Yên Viên, Bắc Ninh, và theo Hoàng Cầm thì Trần Dần không hề biết việc đăng bài thơ Nhất định thắng. Bài thơ của Trần Dần đã gây tai họa cho nhà thơ và tờ giai phẩm. Báo vừa phát hành, Lê Đạt bị gọi ngay lên Tuyên huấn để kiểm thảo. Giai phẩm mùa xuân bị tịch thu. Trần Dần và Tử Phác bị bắt. Trần Dần cứa cổ tự vận nhưng không chết[1].

Hồng Cương viết: “Nhân cơ hội đó, tất cả các lực lượng đối lập với chủ nghĩa xã hội đều ngóc đầu dậy chống lại sự lãnh đạo của Đảng và chính phủ. Bọn phản động trong Công Giáo hành động phá rối trật tự ở Nghệ An, Nam Định v.v…” (sđd, trang 17).

Tuy vậy, nhà cầm quyền miền Bắc vẫn chưa có thái độ dứt khoát với những người làm Giai phẩm mùa xuân.

Ngày 26/5/1956, Mao Trạch Đông phát động phong trào “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng“. Ngày 28/6/1956, Ba Lan nổi dậy. Theo chính sách của Tàu, Đảng Lao động (tiền thân của đảng Cộng sản) cũng nới rộng chính sách văn hóa chính trị: Tháng 8/1956, Hội Văn Nghệ đứng ra tổ chức lớp 18 ngày, học tập dân chủ trong văn nghệ, học tập chống tệ sùng bái cá nhân (Staline) của Liên Xô. Trong lớp học này, sự phê phán chính sách văn nghệ của nhà nước khá mạnh mẽ, đặc biệt Nguyễn Hữu Đang đứng ra đọc bài tham luận “nảy lửa” chỉ trích đường lối văn nghệ của Đảng.

Ngày 29/8/1956, Giai Phẩm Mùa Thu (tập I) ra đời, có bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi, bài Bệnh sùng bái cá nhân trong lãnh đạo văn nghệ của Trương Tửu…

Ngày 15/9/1956, bán nguyệt san Nhân Văn số 1, do Hoàng Cầm, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, chủ trương, với Phan Khôi chủ nhiệm và Trần Duy thư ký toà soạn, ra đời với những bài chủ chốt: Con người Trần Dần của Hoàng Cầm, bài thơ Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt, và bức tranh Nguyễn Sáng vẽ Trần Dần với vết sẹo trên cổ…

30/9/1956 Nhân Văn số 2.

8/10/1956 tái bản Giai Phẩm Mùa Xuân.

15/10/1956 Nhân Văn số 3, đăng bài Nỗ lực phát triển dân chủ của Trần Đức Thảo…

Cuối tháng 10/1956, Giai phẩm mùa thu (tập II) ra đời, có những bài Những người khổng lồ của Trần Duy, Chống tham ô lãng phí của Phùng Quán, Cũng những thằng nịnh hót của Hữu Loan…

Đồng thời ở đại học, các giáo sư Trương Tửu, Trần Đức Thảo… huy động sinh viên cho ra tờ Đất Mới số 1, với Phùng Quán, Bùi Quang Đoài… Đất Mới ra được một số thì bị đình bản.

Hồng Cương viết: “Sự chống đối của chúng không còn tính chất văn nghệ nữa mà đã trở thành một cuộc chống đối vế chính trị công khai. Nhóm Giai Phẩm chống Đảng về văn nghệ đã biến thành nhóm phá hoại chính trị trắng trợn “Nhân Văn-Giai Phẩm”. (…) Từ Nhân Văn số 4 trở đi (…) thì chúng đã chuyển hẳn sang chống đối về chính trị, kích động quần chúng biểu tình chống lại Đảng và chính phủ ta nhân lúc Quốc Hội ta đang họp.” (sđd, trang 18-19).

05/11/1956 Nhân Văn số 4, đăng bài Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ của Trần Duy, Con ngựa già của chúa Trịnh của Phùng Cung…

10/11/1956 Hungary nổi dậy.

20/11/1956 Nhân Văn số 5, đăng bài Bài học về Ba-lan và Hun-ga-ri của Lê Đạt, ký tên Người Quan Sát, bên cạnh bài xã luận Hiến pháp Việt nam 1946 và Hiến pháp Trung hoa của Nguyễn Hữu Đang. Thi sĩ máy của Như Mai…

Tháng 11/1956 Giai phẩm mùa thu tập III đăng các bài Văn nghệ và chính trị của Trương Tửu, Muốn phát triển học thuật của Đào Duy Anh…

Tháng 12/1956 Giai phẩm mùa đông, đăng bài Nội dung xã hội và hình thức tự docủa Trần Đức Thảo; đăng tiếp Văn nghệ và chính trị của Trương Tửu…

09/12/1956, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bãi bỏ quyền tự do báo chí.

15/12/1956, Lệnh đóng cửa Nhân Văn, số 6 đang in, bị chận lại.

Từ 20 đến 28/2/1957, Đại hội văn nghệ lần thứ hai họp tại Hà Nội với gần 500 đại biểu, Trường Chinh kêu gọi đấu tranh “đập nát” phong trào NVGP.

Tuy vậy, Đảng Lao Động vẫn giữ thái độ tương đối hòa hoãn với văn nghệ sĩ, bởi vì bên Trung quốc vẫn còn đang tiếp tục phong trào “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”, cho nên đến đầu tháng 4/1957 Hội Nhà Văn chính thức được thành lập (trước đây là Hội Văn Nghệ), Tô Hoài làm Tổng thư ký, kiêm giám đốc nhà xuất bản Hội Nhà Văn và một số thành viên cũ của Nhân Văn như Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh vẫn được bầu vào ban chấp hành. Ngày 10/5/1957, hội cho ra tuần báo Văn, với Nguyễn Công Hoan (chủ bút), Nguyễn Tuân (phó chủ bút), Nguyên Hồng (tổng thư ký). Ban đầu báo Văn cũng đi theo đường lối chính thống.

Nhưng khi trên báo Học Tập (của đảng) Thế Toàn lên tiếng chê báo Văn “nghèo nàn”, “xa rời thực tế cách mạng”, Nguyên Hồng trả lời trên báo Văn số 15 (16/8/1957), phê bình Thế Toàn là “quan liêu”, “trịch thượng”, Văn dần dần thay đổi thái độ, chẳng bao lâu một số cây bút cũ trong NVGP lại thấy xuất hiện trên báo Văn. Văn số 21(27/9/1957) đăng bài thơ Lời mẹ dặn của Phùng Quán, số 24(18/10/57), đăng kịch thơ Tiếng hát của Hoàng Cầm, số 28 (15/11/1957), đăng bài Hãy đi mãi của Trần Dần. Số 30 (29/11/1957) in hý hoạ của Trần Duy chế giễu chế độ văn nghệ của Đảng.

Cuối năm 1957, Mao Trạch Đông hạ lệnh đánh phái hữu. Theo Hoàng Cầm: Huy Cận và một người nữa được cử đi học tập ở Trung Quốc trở về: Đảng liền thay đổi đường lối, chủ trương đàn áp mạnh hơn. Tờ Văn ngừng ở số 36(10/1/1958), có đăng bài Ông Năm Chuột của Phan Khôi.

Để “trừ khử nọc độc Nhân Văn”, Đảng tổ chức hai lớp học tập đấu tranh chống “bọn NVGP” ở Thái Hà Ấp, mà tài liệu chính thức gọi là hai cuộc “hội nghị”:

“Đầu năm 1958, có hai cuộc hội nghị của anh chị em công tác văn nghệ, nghiên cứu nghị quyết của Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, kết hợp với hai bản Tuyên Ngôn và Tuyên Bố của hội nghị các Đảng Cộng Sản và các Đảng Công Nhân họp ở Mạc Tư Khoa cuối năm 1957. Hội nghị đầu, tháng 2 năm 1958, gồm 172 người dự. Hội nghị sau, tháng 3 năm 1958, gồm 304 người dự.

Qua hai cuộc hội nghị ấy, tất cả những “nhân vật” bỉ ổi đã được phát hiện (…) Cái ổ chuột “Nhân Văn- Giai Phẩm” bị vạch trần trước ánh sáng của dư luận.

Qua sự phát hiện của hai cuộc hội nghị nói trên, chúng ta được biết nhóm phá hoại “Nhân Văn Giai Phẩm” bao gồm những tên đầu sỏ, những “cây bút” đã viết “hoặc nhiều hoặc ít” cho “Nhân Văn Giai Phẩm” như:

Thụy An, Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Phan Khôi, Trần Duy, Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm, Sĩ Ngọc, Chu Ngọc, Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Phùng Quán, Hoàng Tích Linh, Trần Công, Trần Thịnh, Phan Vũ, Hoàng Huê, Huy Phương, Vĩnh Mai, Như Mai tức Châm Văn Biếm, Hữu Thung, Nguyễn Khắc Dực, Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Yến, Thanh Bình, Yến Lan, Nguyễn Thành Long, Trần Lê Văn, Lê Đại Thanh v.v…

Nhưng đó không phải là tất cả (còn những tên chưa ra mặt). Và cũng không phải tất cả những “cây bút” trên đây đều có những hành động phá hoại giống nhau, hoặc phá hoại với những mức độ giống nhau. Có bọn đầu sỏ, có bọn phụ hoạ…” (sđd, trang 309-310).

Những tên tuổi trên đây có lẽ đã không xếp đặt một cách tình cờ mà theo một trật tự “tội” nặng, nhẹ, đã được thẩm định từ trước.

Theo Lê Đạt, thực chất hội nghị đầu là dành cho 172 đảng viên, đi để học tập cách “phát hiện” và tố giác, để chuẩn bị cho hội nghị sau (gồm 304 người, cả đảng viên lẫn quần chúng và những người ngoài đảng tham gia NVGP), dốc toàn lực đấu tranh chống NVGP.

“Trận chiến đấu chống bọn phá hoại NVGP” đã kết thúc bằng hội nghị của ban chấp hành hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam, họp lần thứ ba tại Hà Nội ngày 4/6/1958 với bài báo cáo tổng kết của Tố Hữu, và Nghị quyết của của ban chấp hành hội Liên Hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam lên án “bọn” NVGP. Ngày 5/6/1958, tại Hà Nội, hơn 800 văn nghệ sĩ thảo bàn nghị quyết gọi là “Nghị quyết của 800 văn nghệ sĩ” phụ hoạ với nghị quyết của Hội Liên Hiệp. Sau đó trong tuần lễ từ 21/6 đến 3/7/1958, các ban chấp hành Hội Nhạc Sĩ, Hội Mỹ Thuật, Hội Nhà Văn, lần lượt thi hành các biện pháp kỷ luật đối với các thành viên của Hội đã tham gia NVGP:

Hội Nhà Văn khai trừ Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh ra khỏi ban chấp hành.

Hội Mỹ Thuật, cảnh cáo Sĩ Ngọc, “chấp nhận cho Sĩ Ngọc và Nguyễn Sáng rút khỏi ban chấp hành”.

Hội Nhạc Sĩ “chấp nhận cho Văn Cao, Nguyễn Văn Tý rút khỏi ban chấp hành”.

Cả ba hội quyết định:

– Khai trừ Phan Khôi, Trương Tửu, Thụy An ra khỏi Hội Nhà Văn, Trần Duy ra khỏi Hội Mỹ Thuật.

Khai trừ trong thời hạn một năm Hoàng Cầm và Phùng Quán ra khỏi hội nhà văn. Khai trừ ba năm Trần Dần, Lê Đạt ra khỏi Hội Nhà văn, ba năm Tử Phác và Đặng Đình Hưng ra khỏi Hội Nhạc sĩ. Và cảnh cáo một số hội viên khác đã tích cực hoạt động trong nhóm NVGP.

Đó mới chỉ là biện pháp kỷ luật của các hội văn nghệ đối với các thành viên của hội. Ngoài ra, người ta cũng chỉ biết sơ lược một số dữ kiện khác, như Thụy An, Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Phùng Cung (bị bắt tháng 5/61)… bị kết án từ 12 đến 15 năm tù. Các giáo sư đại học như Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh… bị cách chức và bị quản thúc. Còn những biện pháp trừng phạt đối với toàn bộ văn nghệ sĩ, trí thức, sinh viên và quần chúng đã ít nhiều tham gia, đã đọc, đã mua báo, hoặc đã ủng hộ phong trào NVGP, thì hiện nay chưa có một ước lượng nào gần với sự thật.
 
Mục đích hoạt động của phong trào

Theo lời buộc tội của Tố Hữu, công tác được “phân phối” như sau:

– Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm hoạt động ở Hội Nhà Văn.

– Trần Duy, Sĩ Ngọc, Nguyễn Sáng ở Hội Mỹ Thuật.

– Chu Ngọc, Hoàng Tích Linh ở Hội Nghệ Sĩ Sân Khấu

– Tử Phác, Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Đặng Đình Hưng ở hội Âm Nhạc.

Tố Hữu cho rằng: Phan Khôi, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, là những “nhà tư tưởng của phong trào”. Thụy An, Nguyễn Hữu Đang liên lạc, huy động và khuyến khích anh em. Trần Thiếu Bảo (chủ nhà in Minh Đức) in các Giai phẩm, giúp đỡ tiền bạc và phương tiện để phát hành báo Nhân Văn. Nhà in Minh Đức còn là trụ sở của các cuộc họp báo Nhân Văn và Đất Mới.

Theo lời buộc tội của Nguyễn Đình Thi, thì chủ trương của NVGP dựa trên 6 điểm:

1. Cho chủ nghĩa ******** là không nhân văn, là chà đạp con người. Coi những người ******** là chà đạp con người. Coi những người ******** là những người khổng lồ không tim (Trần Duy). Văn học xã hội chủ nghĩa là công thức, giả tạo, đẻ ra những thi sĩ máy (Như Mai). Đòi quyền tự do cá nhân, tự do sống đời sống tình cảm riêng tư cuả mỗi con người: “Đem bục công an máy móc đặt giữa tim người. Bắt tình cảm ngược xuôi theo luật đi đường nhà nước” (Lê Đạt).

2. Phản đối chuyên chính, đòi dân chủ, tự do trên mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá. Đả kích mậu dịch, quản lý hộ khẩu, các bộ máy nhà nước. Đòi tự do đối lập.

3. Chống sùng bái cá nhân. Cho sự lãnh đạo của Đảng là Đảng trị, là độc đoán, mâu thuẫn với quyền lợi căn bản của con người. Bài Ông bình vôi của Lê Đạt có những câu:

“Những kiếp người sống lâu trăm tuổi

Y như một cái bình vôi

Càng sống càng tồi

Càng sống càng bé lại.”


4. Đề cao chủ nghĩa quốc gia, tư sản, đả kích Liên xô, cho sự giáo dục con người ở Liên xô là rập khuôn, văn học nghệ thuật Liên xô là công thức.

5. Chống chính sách cải cách ruộng đất.

(Xin mở ngoặc: Ngày 30/10/1956, trước Mặt Trận Tổ Quốc Hà Nội, luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc bài diễn văn quan trọng tựa đề “Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo”, nội dung phân tích những sai lầm của chế độ, đi từ sai lầm cải cách ruộng đất ở thôn quê, sang sai lầm trong chế độ mậu dịch ở thị thành, đến chính sách kinh tế mang tính cách bóc lột. Ông truy nguyên nguồn gốc những sai lầm và trình bày những nguyên tắc mới để sửa sang lại guồng máy luật pháp, chính trị, văn học, kinh tế).

6. Về văn nghệ, chủ trương phát triển “Trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng”. Chối bỏ sự lãnh đạo của Đảng, nêu cao khẩu hiệu “Trả lại văn nghệ cho văn nghệ sĩ”.

(6 điểm kê khai theo bài tố cáo của Nguyễn Đình Thi, sđd, trang 114).

Những nguy cơ xụp đổ chế độ cũng được bàn đến, Hồng Cương viết:

“Hạ được tập thơ Việt Bắc và hạ được Tố Hữu xuống là hạ được cả giá trị văn nghệ kháng chiến xuống và hạ được sự lãnh đạo văn nghệ của Đảng và Chính phủ xuống. (…) Chúng vu khống chế độ ta là ******** thời trung cổ (communisme du moyen âge), là ******** phong kiến (communisme féodal), chế độ ta là ******** suy đồi (dégénérescence du communisme), chúng xuyên tạc và nguyền rủa chỉnh huấn của ta là đồi trụy tinh thần (avilissement de l’esprit), là nô dịch hoá tư tưởng (esclavage de la pensée). Chúng chế giễu chính sách đãi ngộ của ta là “bổng lộc” vua ban, huân chương của ta là “mề đay” của đế quốc. Không khác gì Phan Khôi đã ví chế độ ta với một triều đại phong kiến nào đó.” (Hồng Cương, sđd, trang 128, 129).

Chính Hữu trong bài tố cáo Lê Đạt, nói đến cái họa Nhân Văn số 5: “… Lê Đạt đã viết “Bài học về Ba-lan và Hung-ga -ri” trong Nhân Văn số 5, ký tên “Người quan sát” đăng ngay bên cạnh bài xã luận kích động quần chúng của Nguyễn Hữu Đang “Hiến Pháp Việt Nam 1946 và Hiến pháp Trung Hoa”, trong đó có những đoạn nói đến quyền công dân được tổ chức biểu tình tuần hành thị uy. Bài của Lê Đạt đưa ra những nhận định nguy hiểm cho tình hình nước ta lúc đó: “… Nhưng tốc độ và mức độ sửa chữa không kịp với đòi hỏi của tình thế và yêu cầu của quần chúng nên càng thúc đẩy sự công phẫn và phong trào đấu tranh tự phát của quần chúng…” Hai bài báo đó là những lời kêu gọi làm loạn. Đạt và nhóm Nhân Văn đã hỗn xược buộc Đảng và chính quyền ta phải chọn lấy một trong hai con đường: hoặc “lập tức” mở rộng tự do dân chủ, để cho chúng và bọn thù địch khác phá hoại, và cải thiện “ngay” sinh hoạt cho nhân dân, nếu không quần chúng sẽ biểu tình.” (Chính Hữu, sđd, trang 130, 131).
 
Những người xây dựng nên phong trào

Nhiều người đã khuất, thế hệ trẻ ngày nay ít ai biết rõ về con người, về những hoạt động của họ. Những nhà văn mà Hoàng Văn Chí ghi lại tiểu sử và tác phẩm trong cuốn THĐNTĐB, được nhiều người biết đến hơn. Qua những bài buộc tội trong tập tài liệu BNVGPTTADL, chúng ta cũng có thể biết thêm được về tư tưởng và hành động của mỗi cá nhân và “tội trạng” nặng nhẹ của mỗi người.

Thụy An là người phụ nữ duy nhất -ở trong hay ở ngoài phong trào- bị kết án là “gián điệp”. Bà là một trường hợp đặc biệt, theo Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang, bà không ở trong NVGP, vậy mà tên bà được nêu lên hàng đầu trong “hàng ngũ phản động” với nhãn hiệu “Con phù thuỷ xảo quyệt” và những lời lẽ độc địa nhất dành cho bà: “Như vắt ngửi thấy máu, Thụy An như rắn bò tới các câu lạc bộ Hội Nhà văn phun nọc độc mạt sát chế độ ta bần cùng hoá nhân dân” (Bàng Sĩ Nguyên, sđd, trang 120).

Vụ án Thụy An có phải là một vụ án chính trị? Hay là một sự quy kết oan uổng? Lê Đạt sẽ soi tỏ một số nghi vấn chung quanh sự kiện này.

Trước hết Thụy An là ai? Thụy An hay Thụy An Hoàng Dân tên thật là Lưu Thị Yến. Cho đến nay chúng ta chỉ biết sơ về bà qua những gì Vũ Ngọc Phan đề cập đến trong Nhà văn hiện đại : Là một nhà thơ, nhưng bà là người đi tiên phong trong địa hạt tiểu thuyết với cuốn Một linh hồn (1943). Nhà phê bình họ Vũ nhận định: “Một linh hồn cũng đáng kể là cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay, tác giả đã giàu tưởng tượng, truyện lại xây dựng một cách vững vàng, chắc chắn”. Bà đã từng làm chủ nhiệm những tờ Đàn Bà Mới (Sài Gòn), Phụ Nữ Tân Văn (Sài Gòn), và Đàn Bà (Hà Nội). Là phóng viên chiến tranh, bà đã tham dự nhiều cuộc nhảy dù ra mặt trận để cung cấp tài liệu cho báo chí. Bà đã từng giữ chức giám đốc Việt Tấn Xã.

Mới đây chúng tôi liên lạc với nhà văn kiêm nhà báo Bùi Thụy Băng, con trai thứ nhì của Thụy An, hiện làm chủ nhiệm kiêm chủ bút nguyệt san Atlanta Việt báo, ông vừa hoàn tất tập tài liệu “Thụy An, 1945, 1954, 1975”. Tập tài liệu đồ sộ này sẽ được đăng dần trên Atlanta Việt báo và trên mạng Intrenet. Qua Bùi Thụy Băng, chúng tôi được biết thêm những chi tiết sau đây: Lưu Thị Yến sinh năm 1916 tại Hà Nội, là con ông bà Lưu Tiến Ích và Phùng Thị Tôn, quê gốc làng Hoà Xá, quận Vân Đình, tỉnh Hà Đông. Thủa nhỏ học trường Hàng Cót, Hà Nội. Năm 1929, 13 tuổi, Yến đã được đăng thơ trên tờ Nam Phong. 16 tuổi được giải thưởng văn chương của Triều đình Huế. Vào khoảng 1930-32, cô Yến được cha mẹ cho học tư thêm với một ông thầy người Quảng Bình. (Trong điện thư ngày 15/9/2004, ông Bùi Thụy Băng cho biết: “Người thày giáo đề cập ở đây là Tướng Võ nguyên Giáp. Năm 1930, ông ngoại của tôi đã mướn người thầy giáo sử địa Võ Nguyên Giáp về nhà kèm má tôi học. Năm 1933, má tôi theo thầy vô Nam – có thể để đi sang Trung hoa. Nhưng má tôi lại gặp ba tôi ở Sài Gòn và hai người lấy nhau”). Và trong bài tiểu sử Thụy An, Bùi Thụy Băng viết:

“Ông thầy giáo trẻ ấy đã bị trò Yến cùng các bạn trêu chọc là “Anh đồ Nghệ”. Hơn thế, Yến còn làm thơ nhạo báng dí dỏm:

…Khéo ghét anh đồ xứ Nghệ

Hơn mình mấy tí tuổi đầu
(trích “Sao lại mùa thu ” của Thụy An) (…)

Hơn thế nữa, chính người thầy giáo trẻ ấy lại là một chiến sĩ hoạt động trong bóng tối. Chúng ta hãy lắng nghe lời thơ giới thiệu của Thụy An về người anh hùng đó:

… Hung hãn vọng vào tiếng bể

Hờn căm rít ngọn gió Lào

Anh mang trùng dương giận dữ

Anh mang hoang dại khô khan.

và như:

Mắt anh hừng trí bốn phương

Tay run nắm hồn dân tộc

Tóc xòa vương hận núi sông

Môi bậm tay tai nghe rên xiết

Áo cơm dọa dưới cùm gông!…

Thật sự, Thụy An đã hấp thụ tư tưởng cách mạng qua Thầy đồ Nghệ

… Rồi anh bắt đầu dẫn dắt

Dạy em khui lửa bất bình

Oán hận réo sôi lòng đất

Công lý tù đầy uất uất

Miếng cơm nghẹn họng nhân sinh…
(Sao lại mùa thu)”.

(Trích tiểu sử Thụy An, do Thụy Băng viết).

Người chồng của Thụy An là giáo sư Bùi Nhung, em ruột ông Bùi Kỷ và bà Trần Trọng Kim. Bùi Nhung có bút hiệu là Băng Dương. Thụy An sinh được 6 người con: An Dương (1934), Thụy Băng (1937), Thư Linh (38), Dương Chi (39), Ngọc Trinh (43) và Châu Công (45). Ông Bùi Nhung hai lần làm giám đốc đài phát thanh Hà Nội từ 48-49, và 51-52; rồi giám đốc đài phát thanh Hải Phòng năm 1954. Thụy An – Băng Dương sống ly thân từ 1949, nhưng không ly dị vì cả hai đều theo đạo công giáo. Người ta cũng nói đến quan hệ giữa bà và ông Đỗ Đình Đạo, một nhân vật quan trọng của Việt Nam Quốc Dân Đảng cùng cái chết có nhiều nghi vấn của ông Đỗ Đình Đạo.

Trong thời kỳ NVGP, Phan Khôi nhận Thụy An là con nuôi. Theo cả hai bên nhân chứng, buộc tội cũng như bênh vực, thì bà thường xuyên ra vào các hội văn nghệ, bà đã có ảnh hưởng không nhỏ đối với một số văn nghệ sĩ tham gia NVGP. Bà liên lạc, nâng đỡ tinh thần, tích cực giúp đỡ anh em Nhân Văn, đặc biệt gia đình Lê Đạt. Theo Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang thì Thụy An không viết gì cho báo Nhân Văn. Nhưng có thể Thụy An viết cho báo khác, vì Vũ Đức Phúc trong bài tố cáo, có nói đến “những nhân vật như một anh nghiện hút, ăn cắp (trong “Ông Năm Chuột” của Phan Khôi), một con đĩ, một tên ăn cướp (trong “Bích-xu-ra” của Thụy An), một tên việt gian cao cấp, một tên sĩ quan trong quân đội địch trung thành với đế quốc (trong “Trường hợp tòng quân của thiếu uý Lâm” cũng của Thụy An), lại trở thành những người đáng thương, đáng yêu, những người yêu nước đáng học tập” (BNVGPTTADL, trang 118).

Trả lời câu hỏi: Thụy An bị bắt ở đâu? Bùi Thụy Băng, trong cuộc nói chuyện điện thoại với chúng tôi, ngày 16/12/2004, cho biết: “Tôi nghe nói bà cụ tôi bị bắt ở Hoà Xá. Nhưng theo lời ông cụ tôi thì bị bắt ở Phủ Lý. Tại sao lại như vậy? Bởi vì khi thấy lâm nguy, biết mình bị theo dõi, Thụy An thường di chuyển giữa Hà Nam-Phủ Lý (quê chồng) và Hoà Xá-Vân Đình (quê mình) để trốn tránh”.

Thụy An bị giam tại Hoả Lò Hà Nội từ tháng 3/1957 đến đầu năm 1960, bà bị đưa ra tòa, rồi sau đó bị chuyển đi trại giam khác. Vào Hoả Lò chưa được 3 tháng bà đã tự chọc mù một mắt. Con người đã viết những câu thơ “Tay run nắm hồn dân tộc, tóc xòa vương hận núi sông” lại một lần nữa ký tên dưới hành động của mình: lần này dưới những chữ đòi tự do, dân chủ cho dân tộc vừa lấy lại được quyền tự chủ.

Việc bà chọc mắt, được nhiều người thân xác nhận, trong đó có Lê Đạt. Bùi Thụy Băng cho biết: “Trong số những bài viết về bà cụ tôi, có bài của Trần Minh, tựa đề “Nhân văn giai phẩm, một tư trào, một tội ác” đăng trong Giai phẩm (Việt Báo) xuân Tân Tỵ 2001, là chính xác nhất. Với những chi tiết mà chính tôi trước đây cũng không biết: Vào Hoả Lò chưa được 3 tháng thì bà cụ tôi chọc mắt. Lý do là bởi phải ra toà án nhân dân, đứng trước lá cờ đỏ sao vàng, người ta bắt bà cụ tôi phải cúi xuống, nhưng bà cụ không cúi. Vào nhà giam, không có bút viết, thì bà cụ tôi lấy cái đinh guốc, viết lên tường lời phản kháng chọc mù mắt để không phải nhìn thấy chế độ này nữa. Sau này có một người cũng bị giam tại căn phòng đó, đọc được và ghi lại, một vài nhà văn có chép lại câu này trên sách báo”.

Ngày 21/1/1960 bà bị đưa ra toà cùng với Nguyễn Hữu Đang và bị kết án 15 năm tù. Tháng 10/1974 Thụy An được thả theo diện “Đại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris”, cùng diện với Nguyễn Hữu Đang. Được trả về quản thúc ở nguyên quán làng Hoà Xá, trên xe tù bước xuống, Thụy An bị ném đá. Năm 1976, nhờ em trai, là Lưu Duy Trác xin cho vào Nam đoàn tụ với gia đình, bà được vào sống với mẹ tại Gia Định.

Về biệt hiệu Thụy An Hoàng Dân, Bùi Thụy Băng giải thích: Phan Khôi và Thụy An là hai người bạn vong niên từ lâu, Thụy An kém Phan Khôi khoảng gần 30 tuổi. Biệt hiệu Chương Dân của Phan Khôi và Hoàng Dân của Thụy An, là cùng để tưởng niệm đến một người anh hùng, có tên là Chương Hoàng Dân hay Hoàng Chương Dân.

Trong “sổ đoạn trường”, Nguyễn Hữu Đang, đứng thứ nhì sau Thụy An. Ông sinh ở Thái Bình, sớm tham gia các phong trào ái quốc. Trước 1942, ông hoạt động trong phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ. Năm 1942, khi ảnh hưởng Việt Minh lên cao, ông tham gia Văn Hóa Cứu Quốc. Từ 1954, Nguyễn Hữu Đang liên lạc mật thiết với Trần Thiếu Bảo (sau này là chủ Nxb Minh Đức). Trong thời kỳ toàn quốc kháng chiến, ông đứng ra tổ chức Thanh Niên Xung Phong và sau đó làm Thanh tra Bình dân học vụ. Năm 1947, Nguyễn Hữu Đang chính thức vào Đảng. Nhưng vài năm sau, ông bắt đầu chán nản, tự ý bỏ cơ quan. Năm 1951, ông ly khai Đảng, và từ đó, khi ở Cầu Bố, khi ở Hậu Hiền, ông lên tiếng đả kích đảng, chống đối cách mạng. Vai trò của Nguyễn Hữu Đang trong tờ Nhân Văn sẽ được xác nhận rõ ràng qua lời tường thuật của Lê Đạt. Theo lời buộc tội của Mạnh Phú Tư thì “Nguyễn Hữu Đang là linh hồn của tờ Nhân Văn, Đang tìm kiếm, kiếm giấy, thu xếp việc ấn loát và viết bài, nhưng lại ký tên người khác, che lấp những nguồn tài chính, những người cung cấp phương tiện bằng hình thức nêu danh những người góp tiền in báo có một nhân lên gấp mười”. (Mạnh Phú Tư, sđd, trang 50). Lê Đạt sẽ trở lại những thông tin này, với cái nhìn của người trong cuộc. Trong bản tự kiểm thảo, Trần Dần cũng đã xác định: “Nếu không có Đang, không ai có thể tập hợp anh em được. Sẽ không có tham luận với những đề nghị: gặp Trung ương, ra báo… mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn”.

Theo Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang bị bắt trong lúc đang xẩy ra lớp đấu tranh Thái Hà, trên đường tìm cách vào Nam.

Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, ba nhà thơ cùng nhạc sĩ Tử Phác, là những người dấy lên phong trào. Tuy vậy Hoàng Cầm dường như vẫn được nhà cầm quyền xử nương nhẹ hơn; vì Hoàng Cầm nổi tiếng từ trước kháng chiến? vì Hoàng cầm là tác giả những bài thơ hào hùng trong kháng chiến? hay vì Hoàng Cầm có thái độ cam chịu hơn? Do đó Trần Dần, Lê Đạt trở thành hai khuôn mặt nhà thơ “phản động nhất nước”.

Hoàng Cầm sinh năm 1921 tại làng Lạc Thổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Hải Dương. Trước kháng chiến ông đã nổi tiếng với ba vở kịch thơ Viễn khách, Kiều LoanLên đường. Trong kháng chiến, thơ Hoàng Cầm càng nổi bật với các bài Đêm liên hoan, Tâm sự đêm giao thừa, và trường ca Bên kia sông Đuống. Thời kỳ NVGP, Hoàng Cầm là người đầu tiên xin ra khỏi quân đội, cùng với Lê Đạt xây dựng nên các tờ Giai Phẩm và Nhân Văn. Hoàng Cầm giữ vai trò liên lạc và cổ động các văn nghệ sĩ, thúc giục Văn Cao làm thơ cho Giai Phẩm, ông đem bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần ra in v.v… Những sáng tác của ông trong thời kỳ này không nhiều, được ghi lại có bài thơ “Em bé lên 6 tuổi” viết về hoàn cảnh đau thương của một em bé con địa chủ, bố bị đấu tố, mẹ bỏ đi Nam:

“Chị Đội bỗng lùi lại

nhìn đứa bé mồ côi,

cố tìm vết thù địch,

chỉ thấy một con người”.


Và vở kịch thơ Tiếng hát, mượn hình ảnh tiếng hát để nói về nghệ thuật và tự do, để xác định “không thể cưỡng bức được nghệ thuật”. Bài viết có tính cách tiêu biểu của Hoàng Cầm trong giai đoạn này là bài Con người Trần Dần, in trong Nhân Văn số 1, biện hộ cho Trần Dần. Nhưng tác phẩm chủ yếu của ông là Về Kinh Bắc, viết sau Nhân Văn, trong thời gian 57-58, phản ảnh ý chí quật cường của nhà thơ trước cơn bão tố dập vùi.

Trần Dần là một trường hợp đặc biệt bất phục tòng và đã chịu sự trù dập nặng nề. Hăng say tham gia kháng chiến, thời kỳ Điện Biên Phủ, ông viết Người người lớp lớp. Yêu người con gái ở phố Sinh Từ, gia đình đã di cư vào Nam, bất chấp sự ngăn cấm của đảng, Trần Dần vẫn kết hôn với người yêu. Những câu thơ “Tôi bước đi không thấy phố, không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa, trên màu cờ đỏ” đã trở thành biểu tượng của một thời.

Bị bắt. Cứa cổ. Trần Dần biểu dương bi kịch NVGP. Mấy tháng sau, Đảng phát động “Trăm hoa đua nở”: trên Giai phẩm mùa thu tập I, Phan Khôi viết bài Phê bình lãnh đạo Văn nghệ, bênh vực Trần Dần, và bài Ông bình vôi bênh vực Lê Đạt. Trên Nhân Văn số 1, Hoàng Cầm viết bài Con người Trần Dần, và Nguyễn Sáng vẽ chân dung Trần Dần với vết sẹo trên cổ. Đảng phải xét lại trường hợp Trần Dần: Trần Dần được thả và ngày 2/10/56 Hội Văn Nghệ phải viết bài tự kiểm thảo đăng trên các báo. Đến cuối năm 1957, báo Văn in bài Hãy đi mãi của Trần Dần, tính cách tranh đấu vẫn còn quyết liệt:

“Tôi có thể mặc thây ngàn tiếng chửi tục tằn

Trừ tiếng chửi sống không sáng tạo”
.

Trong bài tự kiểm thảo, Trần Dần viết: “Những sáng tác của tôi đều là cái loại đả kích vào các chính sách của Đảng cả. Nếu đọc cả một đống như thế, người ta sẽ cảm thấy sự lãnh đạo của Đảng là một sự ngột ngạt không thể nào sống nổi”. “Người sáng tác phải có quyền và có gan như người viết sử thời xưa, vua chém đi 6 người, đến người thứ 7 vẫn chép sử đúng như sự thật, vua đành chịu vậy”, (trích Những lời “thú tội” của Trần Dần, sđd, trang 312).
 
Lê Đạt là người duy nhất, từ trong nội bộ của đảng đứng lên đòi hỏi tự do dân chủ. Là một cán bộ hoạt động ở ngành Tuyên huấn, Lê Đạt được xếp vào loại “đầu sỏ”, “nguy hiểm” như Nguyễn Hữu Đang.

Theo lời tố của Xuân Diệu: “Đã rõ rệt như ban ngày, tập Giai phẩm mùa xuân 1956 phất lá cờ đầu tiên chống Đảng, chống chế độ, và Lê Đạt là nhà lý luận trong đó. Lê Đạt mở đầu Giai phẩm với cái tuyên ngôn: “Trích thơ gửi người yêu” (…) và bài thơ tuyên ngôn thứ hai “Mới” đăng trong Giai phẩm (…) Lê Đạt đưa ra cái tà thuyết rạch đôi các sự vật làm hai: hễ cái gì mới là cách mạng, hễ cái gì cũ là đeo kính vào viện hàn lâm, là mệt mỏi, lối mòn, vết già nua, lề đường han rỉ..(…) Lê Đạt là một người chủ chốt của báo Nhân Văn, tham mưu cho cả tờ báo, tự tay sửa chữa nhiều bài đả kích chế độ ta rất cay độc (…) Đứng lên lập nhóm Giai phẩm mùa xuân. Cùng với Nguyễn Hữu Đang làm bộ óc của báo Nhân Văn, đứng làm “nhà lý luận” của bọn chống Chế độ (…) Sau khi báo Nhân Văn bị cấm, Lê Đạt liên lạc cấu kết với Thụy An, Lê Đạt đóng vai trò quan trọng trong việc lũng đoạn Hội Nhà Văn, Lê Đạt tích cực dùng ngòi bút viết lối văn hai mặt; Lê Đạt luôn luôn giữ một cương vị đứng chủ trường phái; mãi đến trong lớp học văn nghệ lần thứ hai (tháng 3 và 4/1958) vẫn còn tìm cách quay quắt. Cho nên, xét Lê Đạt, ta phải nhìn thấy cho hết, rằng Lê Đạt chống đối ta, phá hoại ta từ trong bản chất giai cấp thù địch” (trích bài Những biến hoá của chủ nghĩa cá nhân trong thơ Lê Đạt, trong tập Dao có mài mới sắc của Xuân Diệu, 1963, các trang 86, 87, 89 và 95).

Chính Lê Đạt cũng xác nhận vai trò của mình trong bài tự kiểm thảo: “Tôi tham gia Nhân Văn với ý thức là người lãnh đạo lý luận của tờ báo vì tôi cho tôi vững vàng hơn Nguyễn Hữu Đang. Ban biên tập lúc đó gồm có 4 người: Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Hoàng Cầm và tôi. Để tấn công quan điểm vô sản chuyên chính của Đảng, tôi vận động Thanh Châu viết bài Mậu Dịch, tôi góp ý, vẽ tranh một người đẽo chân cho vừa giày mậu dịch. (…) Nhân Văn bị đóng cửa nhưng tư tưởng Nhân Văn, tư tưởng chống đối vẫn chưa hết. Sau một thời gian các báo ngớt đánh, tình hình trở lại bình thường, chúng tôi lại vẫn gặp nhau đả kích Đảng, cho là độc đoán”. (trích Những lời “tự thú” của Lê Đạt, sđd, trang 318, 319).

Thơ Lê Đạt trong thời kỳ NVGP, có những câu đã in sâu vào ký ức dân tộc:

Đem bục công an đặt giữa trái tim người

Bắt tình cảm ngược xuôi theo luật đi đường nhà nước

Có những lời lẽ tiên tri:

Lịch sử muôn đời duyệt lại

Không ai lừa được cuộc đời


Trần Thiếu Bảo, chủ trương Nxb Minh Đức, trách nhiệm ấn loát và phát hành những tờ Nhân Văn, Giai Phẩm, Đất Mới, quê quán ở Thái Bình. Ông mở hiệu sách Minh Đức (sau trở thành nhà xuất bản) ở Thái Bình, đến 1954, rời về phố Phan Bội Châu, Hà Nội. Trần Thiếu Bảo không theo cách mạng ngay từ đầu và có tiếng là Mạnh Thường Quân đối với văn nghệ sĩ. Cùng với Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, tổ chức lễ kỷ niệm Vũ Trọng Phụng (thời ấy, Vũ Trọng Phụng còn bị liệt vào thành phần phản động). Theo lời buộc tội, Nxb Minh Đức đã “lợi dụng chuyện khai thác vốn cổ” để tái bản những sách “có hại” của Tự Lực Văn Đoàn như Tiêu sơn tráng sĩ v.v… Nxb Minh Đức cũng là trụ sở các cuộc họp báo Nhân Văn.

Trương Tửu-Nguyễn Bách Khoa, là nhà phê bình, nhà văn, giáo sư đại học và lý thuyết gia. Ông bước vào làng văn với loạt bài phê bình những tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn trên báo Loa, Hà Nội, năm 1935. Là nhà phê bình đầu tiên sử dụng phương pháp phê bình Mác xít một cách có hệ thống và có tính sáng tạo, đặc biệt trong những tác phẩm như: Nguyễn Du và truyện Kiều (Hàn Thuyên, 1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (Hàn Thuyên 1944), Kinh thi Việt Nam, (Hàn Thuyên 1950)… Ông còn là tác giả những tập tiểu thuyết tranh đấu và xã hội. Khi Mặt trận Dân Chủ của Việt Minh bắt đầu hoạt động, Trương Tửu viết bài đả kích Mặt Trận Dân Chủ trên các báo Quốc Gia và Thời Thế. Trương Tửu tuyên bố: “Văn nghệ không làm chính trị để giữ sự độc lập của trí thức”. Cùng với Nguyễn Đức Quỳnh, ông thành lập nhóm Hàn Thuyên theo khuynh hướng ******** Đệ Tứ, in sách của Lương Đức Thiệp, Thái Văn Tam, Nguyễn Tế Mỹ, Nguyễn Hải Âu, Hồ Hữu Tường và Nguyễn Bách Khoa (tức Trương Tửu). Năm 1945 , Hồ Hữu Tường ra Bắc gặp Trương Tửu, thành lập Ủy Ban Văn Hoá Bắc Bộ. Ngày 10/9/1945, Trương Tửu cho xuất bản cuốn Tương lai văn nghệ Việt Nam, trong đó ông đã nhắc đến “cái hôm nay đen tối và chật hẹp”, và mượn lời André Gide, khuyên các văn nghệ sĩ, hãy “reo rắc vào tâm trí mọi người chất men bất phục tòng và phản kháng”. Tuy vậy khi toàn quốc kháng chiến, ông cũng theo cách mạng trong 9 năm. Sau 54, ông dạy học.

Trong thời kỳ NVGP, Trương Tửu viết hai bài quan trọng “Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ” và bài “Văn nghệ và chính trị“. Hoài Thanh tố cáo: “Trong ba tập Giai phẩm liên tiếp nó đả kích thậm tệ vào toàn bộ cán bộ Đảng phụ trách công tác văn nghệ, phủ nhận tính chất mác xít, tính chất vô sản của Đảng. Vẫn một lối huênh hoang và bịp bợm cũ, nó làm như chỉ có nó mới là triệt để cách mạng. Một mặt nó bóp méo, bịa đặt sự việc để vu khống… Một mặt khác nó xuyên tạc lời nói của các lãnh tụ. Nó trích dẫn lời Mác đả kích chính quyền phản động cũ để gián tiếp đả kích chính quyền ta”. (Hoài Thanh, Thực chất của tư tưởng Trương Tửu, BNVGPTTADL, trang 66).

Nguyễn Vĩnh tố cáo: “Trong bài “Bệnh sùng bái cá nhân trong giời lãnh đạo văn nghệ” (Giai phẩm mùa thu, tập I), Trương Tửu giả vờ công nhận “Đảng lãnh đạo văn nghệ là một tất yếu lịch sử” để rồi đòi trả lại “quyền điều khiển chuyên môn cho những người chuyên môn”. Trong bài “Văn nghệ và chính trị “, Trương Tửu tiến lên một bước, xuyên tạc bài “Tổ chức Đảng và văn học có đảng tính” của Lê nin (…) Làm như vậy, Trương Tửu có thâm ý tách rời văn nghệ ra khỏi chính trị, xúi dục văn nghệ sĩ thoát ly đường lối văn nghệ của Đảng, thoát ly sự lãnh đạo của Đảng” (Nguyễn Vĩnh, sđd, trang 115, 116).

Bàng Sĩ Nguyên phát hiện: “Tửu đã nói gì khi giảng dạy? Tửu đã vu khống Đảng là hiện tượng tha hoá. Trường đại học có Đảng trị. Có Đảng cụ thể và Đảng trừu tượng, cụ thể bao giờ cũng có sai lầm, vậy mỗi giai đoạn cần có một Đảng mới”. (…) Con người mới là con người ở nông thôn chống thu mua, ở thành thị chống mậu dịch, trí thức chống chính sách báo chí. Tửu gây ý thức thoát ly sự lãnh đạo của Đảng. Cụ thể là tấn công vào cán bộ lãnh đạo của Đảng trong đại học. Tửu đề cao quá đáng Vũ Trọng Phụng (…) để nói rằng “không có Đảng lãnh đạo nhà văn vẫn viết được những tác phẩm có giá trị và văn nghệ sĩ còn sáng suốt hơn Đảng, cố vấn cho Đảng, phát hiện vấn đề cho Đảng biết.” (Bàng Sĩ Nguyên, sđd, trang 119-120).

Trần Đức Thảo, triết gia, giáo sư đại học. Đỗ vào trường Normale Supérieure rue d’Ulm ở Pháp năm 1936, thủ khoa ban văn chương. Đậu thạc sĩ (agrégé) triết học. Thời kỳ ở Pháp, ông cộng tác với J.P. Sartre, tham gia nhóm Les Temps Modernes. Sau này ông kiện Sartre về một cuốn sách viết chung mà Sartre không muốn xuất bản. Những năm 44-45, ông hoạt động cho Hội Việt kiều. Phạm Huy Thông, giáo sư thạc sĩ, bạn học cùng thời với Trần Đức Thảo ở Pháp, được cử viết bài đánh Trần Đức Thảo. Phạm Huy Thông cho biết: Khi phái đoàn Việt Minh Đồng Chí Hội sang Pháp năm 1946, Trần Đức Thảo đả kích phái đoàn, cho chính sách ngoại giao của Việt Minh là đầu hàng và phản bội, và đảng ******** Pháp có đầu óc đế quốc thực dân. Trần Đức Thảo chống lại hiệp định sơ bộ 6/3/1946. Năm 1949, tại Đại Hội Hoà Bình Thế Giới ở Paris, Trần Đức Thảo lên tiếng cảnh cáo đại biểu Liên Xô và đại biểu Pháp là phản bội các dân tộc thuộc địa.

Phạm Huy Thông viết: “Ngay từ năm 1945, Thảo công kích những người đem tư tưởng Mác xít truyền bá cho kiều bào, công nhân, cho rằng công nhân không có văn hoá, không tiếp thu được, hay tiếp thu “máy móc” thì “nguy hiểm” (!). Còn đối với đảng ******** Pháp, thì Thảo có một lập luận phản động rằng: đảng Pháp, tuy có uy tín đấy, nhưng trình độ lý luận Mác xít khó lòng cao, vì hầu hết những cương vị cao trong đảng đều do công nhân nắm (!)” (Phạm Huy Thông, sđd, trang 69). Năm 1951, Trần Đức Thảo trở về nước, làm giáo sư đại học. Năm 1956, ông tham gia phong trào NVGP. Phạm Huy Thông viết về người bạn cũ của mình: “Thật ra “thành tích” học thuật cũng như “thành tích” chính trị của Thảo ở Pháp trước đây, nhìn lại toàn là những “thành tích” bất hảo (…). Trong thư gửi hội nghị học tập của trường đại học, Hoàng Cầm có viết: “Tôi nhớ rất rõ: trước Nhân Văn số 4, trong một buổi họp ở nhà Trần Duy, 55 đường Trần Quốc Toản, lần đầu tiên Trần Đức Thảo đến họp. Vấn đề hôm ấy do Trần Duy nêu ra là: Ta nên chuẩn bị cái hướng số 4 như thế nào? Một số như Trần Dần và tôi phát biểu là: “Thêm một bài về tự do dân chủ thôi!” Trần Đức Thảo nói: “Tôi thấy cần phải bớt vấn đề văn nghệ đi, nếu cần thì rút bớt cả sáng tác, để bàn nhiều về chính trị, vì tình hình trong nước và thế giới có nhiều tài liệu khác nữa”.

Ta thấy đường lối chính trị của nhóm Nhân Văn là do Trần Đức Thảo trực tiếp và chủ yếu vạch ra. (Về vai trò của Trần Đức Thảo trong tờ Nhân Văn, Lê Đạt sẽ xác định lại.)

Mượn cớ “phát huy tự do dân chủ” Thảo đã bày vẽ cho chân tay của mình trong sinh viên đả kích sự lãnh đạo của Đảng ở nhà trường (…), giáo sư Nguyễn Lân, phụ trách môn giáo dục học, trường đại học sư phạm đã phát biểu: “Tôi còn rùng mình khi nghĩ đến hoạt động của bọn Trần Đức Thảo. Nếu bọn chúng thực hiện được ý muốn thì không những giáo sư đảng viên, mà đầu của những người lương thiện trung thành với chế độ như tôi cũng đều treo lên ngọn cây.”
(Phạm Huy Thông, sđd, trang 74 và 134).

Sau khi Nhân Văn bị cấm, Trần Đức Thảo vẫn tiếp tục hoạt động, che chở và giúp đỡ các sinh viên. Ông mở diễn đàn tự do ở đại học để truyền bá tinh thần tự do dân chủ. Hai bài viết quan trọng của ông trong thời kỳ NVGP là bài Nội dung xã hội và hình thức tự do đăng trong Giai phẩm mùa đông tập I, lên án những sai lầm trong cải cách ruộng đất và bài Nỗ lực phát triển tự do dân chủ đăng trên Nhân Văn số 3, tháng 10/1956, được coi như bản đề cương tranh đấu cho tự do dân chủ của nhóm NVGP. Trần Đức Thảo viết:

“Cái tự do mà họ tức là những người lao động trí thức và chân tay muốn phát triển là tự do của toàn dân phê bình lãnh đạo. Cái tự do đó là quyền của người công dân đã được hoàn toàn công nhận và bảo đảm trong chế độ ta. Tự do không phải là cái gì có thể ban ơn. Người trí thức hoạt động văn hóa cần tự do như khí trời để thở, có tự do thì mới đẩy mạnh được sáng tác văn nghệ, nghiên cứu khoa học, cải tiến kỹ thuật. Phát triển tự do là nhu cầu thiết thân, đồng thời là nhiệm vụ số một của người trí thức cũng như của toàn dân. Hình thức tự do là tự do cá nhân, cá nhân phục tòng tập thể nhưng tập thể cũng phải có cá nhân xây dựng. Xét đến tình hình thế giới mới đây, lý tưởng tự do cá nhân lại là lý tưởng của những ngày tiến tới, lý tưởng của chủ nghĩa ******** bây giờ, đã bắt đầu trở thành một thực tế lịch sử ở Liên Xô”, ký tên Trần Đức Thảo.

Học giả Đào Duy Anh đóng góp tiếng nói của mình trong Giai phẩm mùa thu tập III, với bài Muốn phát triển học thuật, nội dung phân tích những sai lầm trong nguyên tắc dùng chính trị để lãnh đạo học thuật. Ông viết: “Sự xâm phạm của những cán bộ chính trị vào địa hạt chuyên môn, cố nhiên là rất trở ngại cho công tác chuyên môn, nhất là công tác nghiên cứu khoa học. Cái điều kiện không thể thiếu được để cho học thuật phát triển là tự do tư tưởng, tự do thảo luận. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh hai hình thức hạn chế tự do tư tưởng tác hại nặng nhất đối với học thuật là bệnh giáo điều và biến chứng của nó là bệnh sùng bái cá nhân. Ở nước ta thì các bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân lại còn trầm trọng hơn khiến người ta, vô luận bàn về vấn đề gì, cũng đều phải bắt đầu dẫn những đề án của Marx, Engel và Lénine, hoặc những ý kiến của Staline hay các lãnh tụ khác. Bệnh giáo điều và bệnh sùng bái cá nhân lại dẫn thẳng đến cái tệ tư tưởng độc tôn, hễ thấy ai có ý kiến gì vượt ra ngoài những công thức cũ, những khuôn khổ sẵn thì người ta chụp ngay cho những cái mũ dễ sợ như danh hiệu “cải biến chủ nghiã” chẳng hạn, để bịt mồm, bịt miệng người khác.

Tư tưởng không tự do thì không thể tự do thảo luận được. Mặc dầu không ai cấm tranh luận, các nhà lãnh đạo vẫn thường nói nên mở rộng tranh luận, nhưng trong thực tế thì sự tranh luận đã bị thủ tiêu từ gốc rồi. Nghiên cứu hay nghị luận một vấn đề gì, người người chỉ nơm nớp lo sợ, không khéo thì trật ra ngoài đường lối tư tưởng chính thống độc tôn. Đối với những người ấy công tác học thuật trở thành trò xiếc leo dây.Con đường học thuật phải là con đường cái thênh thang cho mọi người tự do đi lại chứ không phải là sợi dây căng cho mọi người làm xiếc. Phải trừ bỏ những bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân để trả lại tự do cho học thuật”.


Phan Khôi, chủ nhiệm báo Nhân Văn. Nhà văn và nhà cách mạng lão thành Phan Khôi như một vị tiền bối đứng ra che chở cho các anh em văn nghệ trẻ. Cùng thời với Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh… Phan Khôi sinh năm 1887 tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, là con trai Tri phủ Phan Trân, và là cháu ngoại Tổng đốc Hoàng Diệu. Năm 1907, Phan Khôi ra Hà Nội tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, ít lâu sau, phong trào bị đàn áp, ông trở lại Quảng Nam, hoạt động trong phong trào Văn Thân cùng với Huỳnh Thúc Kháng. Bị Pháp bắt, Phan Khôi học tiếng Pháp trong tù. Ra tù, ông bắt đầu cuộc đời viết văn làm báo.
 
Trong nửa thế kỷ, từ Nam ra Bắc, ngòi bút sắc bén của Phan Khôi tung hoành trên các báo: Nam Phong, Lục Tỉnh Tân Văn, Đông Pháp Thời Báo, Thần Chung, Phụ Nữ Tân Văn, Trung Lập, Thực Nghiệp Dân Báo, Hữu Thanh, Phụ Nữ Thời Đàm, Tràng An, Sông Hương… Từ 1920 đến 1925, ông dịch Kinh Thánh cho Hội Tin Lành. Tác phẩm đầu tiên của Phan Khôi là tập Nam Âm Thi Thoại, ký bút hiệu Chương Dân, in năm 1920 ở Hà Nội (năm 1936, tái bản tại Huế, đổi tên là Chương Dân Thi Thoại). Bài thơ Tình già của Phan Khôi đăng lần đầu tiên trên báo Phụ Nữ Tân Văn, tháng 3/1932, được coi như bài thơ mở đường cho phong trào thơ mới.

Bởi địa vị văn học, địa vị cách mạng và thái độ đối lập của Phan Khôi, cho nên ông có một vị trí riêng và đồng thời ông cũng đã phải chịu những sự phỉ báng nặng nề thô bỉ.

Về hoạt động chính trị, Phan Khôi luôn luôn là một khuôn mặt đối lập với Việt Minh. Tháng 6/1946, phái đoàn Trung ương của Việt Minh về Quảng Nam, mở cuộc mít tinh để giải thích Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, Phan Khôi lên diễn đàn, công kích hiệp định sơ bộ. Tham gia Việt Nam Quốc Dân Đảng, Phan Khôi được bầu làm chủ nhiệm chi bộ Nam Ngãi. Nguyễn Công Hoan viết: “Đêm 12/7, trong khi hắn (chỉ Phan Khôi) đương họp bàn với bọn đầu sỏ Quốc Dân Đảng ở 80 đường Quan Thánh, thì xẩy ra việc Công an ta đến khám toà báo Việt Nam của đảng ấy tại trụ sở ấy. Bọn phản động ở trong nhà nổ súng ra để chống cự. Tức thì Công an buộc lòng phải bắt bớ người. Trong số những người bị bắt có Phan Khôi.

Song, Phan Khôi lại một lần nữa được Chính phủ tha cho về để suy nghĩ tội lỗi mà hối cải.”
(Nguyễn Công Hoan, Hành động và tư tưởng phản động của Phan Khôi cho đến thời kỳ toàn quốc kháng chiến, báo Văn Nghệ số đặc biệt thứ hai chống NVGP, số 12, tháng 5/1958, trang 14).

Về thái độ của Phan Khôi đối với Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Công Hoan viết:”Cách mạng tháng Tám cải tử hoàn sinh cho hai mươi nhăm triệu nhân dân Việt Nam, trong đó có Phan Khôi. Nhưng cái tên già này rất vô ơn với Cách mạng tháng Tám.

Cho đến năm hoà bình, 1954, chưa bao giờ hắn viết, hoặc nói mà dùng danh từ “Cách mạng tháng Tám”. Chính hắn đã khoe điều ấy bằng cả sự hằn học với người tâm phúc của hắn. Hắn nói rằng trước kia hắn dùng ba tiếng “cướp chính quyền”, mà cũng ngượng mồm. Hắn nói rằng lúc đó, Pháp đổ rồi, Nhật hàng rồi, chính phủ Trần Trọng Kim tê liệt rồi, chính quyền bỏ rơi, thì ta “lượm” được, chứ “cướp” ở tay ai?”
(bài đã dẫn, Văn Nghệ, trang 12)

Về thái độ của Phan Khôi đối với Hồ Chí Minh, Nguyễn Công Hoan viết: “Hôm họp Hội nghị văn hoá, Hồ chủ tịch có đến. Khi nói về tiểu thuyết, Người có một nhận xét để khuyên nhủ anh em cầm bút là “tiểu thuyết của ta có vạch được tội ác của chế độ phong kiến và đế quốc, nhưng chưa đề ra phương pháp cải tạo. Như vậy là kém phần xây dựng”. Trong khi mọi người rất phục Hồ chủ tịch sáng suốt cả về lĩnh vực văn nghệ, thì tên Quốc Dân Đảng già, vốn bản chất là đối kháng, dè bỉu Hồ chủ tịch, cho là Người chỉ giỏi chính trị, chứ không biết về văn nghệ. Hắn bàn tán với bạn hữu rằng Hồ chủ tịch nói sai. “Văn nghệ chỉ có nhiệm vụ trình bày, còn xây dựng là nhiệm vụ của chính trị, của nhà cầm quyền” (bài đã dẫn, Văn nghệ, trang 15).

Phan Khôi không tự ý đi theo kháng chiến mà “bị mời” đi kháng chiến, Đào Vũ viết: “Kháng chiến bùng nổ. Phan Khôi đi theo kháng chiến. Nói cho đúng hơn, chúng ta đưa Phan Khôi đi theo kháng chiến từ đầu chí cuối”, “tôi biết rằng cơ quan đối với y bao giờ cũng dành những ưu tiên lớn”, theo Nguyễn Công Hoan,“Phan Khôi đi với kháng chiến, không lúc nào hắn không ngớt chửi bới kháng chiến”, Đào Vũ viết: “Phan Khôi bấy nay không ưa gì Đảng của chúng ta. Vốn là hay xỏ xiên vặt, y gọi Đảng ta là “cái Đảng” thế này thế khác. Có người vặn lại: sao lại gọi là “cái Đảng”, tiếng “cái” ấy có cần thiết gì đâu? Phan Khôi sẽ thủng thỉnh trả lời: tiếng “cái” ấy cũng như “le, la, les” của tiếng Pháp mà thôi.” (Đào Vũ, Tính cách vô lại và bộ mặt chính trị nhơ nhớp của Phan Khôi ngày nay, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958).

Là nhà Hán học, nhưng lý luận khúc triết và đanh thép theo phương pháp luận phương Tây, những bài bút chiến của Phan Khôi với Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh… đã gây không khí sôi nổi trên văn đàn những năm 30. Tài năng, nhân cách và kiến thức đã đưa Phan Khôi lên địa vị “Ngự sử văn đàn” của thời ấy.

Khi toàn quốc kháng chiến. Miễn cưỡng lên Việt Bắc, Phan Khôi dịch sách chữ Hán, chữ Pháp, sang tiếng Việt.

Thời kỳ NVGP, Phan Khôi đứng ra nhận chức Chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ Nhân Văn để bao che cho các cây bút trẻ. Trong bài Phê bình lãnh đạo Văn Nghệ, với tác phong Ngự sử văn đàn, Phan Khôi nghiêm khắc lên án chế độ quản lý tư tưởng: Ông chỉ trích Trường Chinh ăn nói bừa bãi, chất vấn gắt gao Tố Hữu, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, những người chủ chốt trong việc kết tội Trần Dần. Sau khi tách bạch hai giai cấp: Lãnh đạo văn nghệ và Quần chúng văn nghệ, Phan Khôi phê bình triệt để ba vấn đề thực tiễn:

1 -Vấn đề tự do của văn nghệ sĩ: Sau khi đưa ra những dẫn chứng cụ thể về việc lãnh đạo nghiệt ngã bắt bẻ người viết phải theo đúng đường lối, Phan Khôi hỏi lãnh đạo: chính trị muốn đạt đến cái mục đích của nó thì cứ dùng khẩu hiệu, biểu ngữ, thông tri, chỉ thị không được hay sao mà phải cần dùng đến văn nghệ sĩ, rồi ông cánh cáo: “Lãnh đạo đã xâm phạm mỗi ngày một hơn vào quyền riêng nghệ thuật của văn nghệ sĩ.”

Những lời khẳng khái nổi tiếng của Phan Khôi: “Nhược bằng bắt hết mọi người viết, phải viết theo lối với mình thì rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết”. Hoặc phê Đảng: “Đảng giáo dục Xuân Diệu làm cách mạng chứ có giáo dục Xuân Diệu làm thơ đâu!”

2 -Về vụ Giai phẩm mùa xuân, Phan Khôi chất vấn ban chủ toạ hội Văn nghệ:“Hỏi độc tội một Trần Dần thôi là cái ngón chính tri tài tình lắm đấy, để cô lập Trần Dần và phân hóa những người trong Giai Phẩm, cái ngón ấy đã thành công”.

“Tôi còn nhớ có vị bắt lỗi trong bài thơ Trần Dần có chữ Người viết hoa, lấy lẽ rằng chữ Người viết hoa chỉ để xưng Hồ chủ tịch, thế mà Trần Dần lại viết hoa chữ Người không phải để xưng Hồ chủ tịch. Tôi ngồi nghe mà tưởng như ở trong chiêm bao, chiêm bao thấy mình đứng ở một sân rồng nọ, ông Lê mỗ tố cáo ông Nguyễn mỗ trước ngai vàng: “Trong phép viết chỉ có chữ nào thuộc về Hoàng thượng mới phải đai, thế mà tên Nguyễn mỗ viết thư cho bạn dám xài những chữ không phải thuộc về Hoàng thượng. Nhân may cho tôi, tôi tỉnh ngay ra là mình đang ngồi ở trong phòng họp hội Văn nghệ”
.

3 -Về vụ giải thưởng văn học năm 54-55, ba tác phẩm Mưa sao của Xuân Diệu, Truyện anh Lục của Nguyễn Huy Tưởng và Nam Bộ mến yêu của Hoài Thanh đều chiếm giải. Phan Khôi phê bình: “Cả ba ông Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh đều có tác phẩm dự thi mà đều ở trong ban trung khảo. Nếu ở trong ban trung khảo mà thôi còn khá, thử điều tra lại hồ sơ, thì ba ông còn ở ban sơ khảo nữa, sao lại có thể như thế? Trường thi phong kiến xưa, tuy có ám muội gì bên trong, chứ bên ngoài họ vẫn sạch tiếng. Một người nào có con em đi thi thì người ấy có được cắt cử cũng phải hồi tỵ, không được chấm trường. Bây giờ đến cả chính mình đi thi mà cũng không hồi tỵ, một lẽ là ở thời đại Hồ Chí Minh, con người đã đổi mới, đã liêm chính cả rồi, một lẽ trắng trợn vì thấy mọi cái miệng đã bị vú lấp.”

Phan Khôi viết truyện Ông bình vôi, ngẫu hứng từ bài thơ Ông bình vôi của Lê Đạt, chủ đích bênh vực Lê Đạt, đồng thời nhạo báng lãnh tụ, gọi lãnh tụ là Ông Cọp, Ông Trưởng, Ông Đầu Rau, Ông Tre, Ông Bình Vôi… như những bài vị mà người dân thường phải để chân dung trong nhà. Trong bài Ông Năm Chuột, Phan Khôi đòi hỏi phải trả văn nghệ lại cho văn nghệ, chuyên môn cho chuyên môn qua lời người thợ bạc: “người ta cái gì biết ít thì nên nghe chứ không nên nói, tôi không nói chuyện văn chương chữ nghĩa với ông, cũng như ông không dạy nghề làm thợ bạc cho tôi.”

Theo bài viết của Đoàn Giỏi đăng trên báo Văn Nghệ số ra ngày 15/8/1958 thì tháng 12 năm 1957, Phan Khôi còn đưa đến nhà xuất bản Hội Nhà Văn một tập bản thảo dầy, tên là Nắng chiều gồm nhiều bài bút ký, tạp văn, viết từ đầu kháng chiến Việt Bắc đến năm 1957. Đoàn Giỏi trích một số đoạn để đả kích, nhờ vậy mà độc giả biết được đại cương nội dung những tác phẩm đó. Theo Đoàn Giỏi, ngay trong hai bài đầu, tựa đề Cầm vịtTiếng chim, Phan Khôi đã khẳng định “Xã hội không có đấu tranh giai cấp, của ai người nấy ăn. Vấn đề đấu tranh giai cấp chỉ là kiểu rình phần ăn của kẻ khác”. Về bài viết Cây cộng sản, Đoàn Giỏi tự hỏi: Tại sao Phan Khôi lại đem cây cứt lợn, cũng gọi là cây chó đẻ, và cây bọ xít, toàn là những tên không nhã tý nào hét, để gọi nó là Cây cộng sản và cỏ cụ Hồ? Đến bài giới thiệu Nguyễn Trường Tộ, Phan Khôi viết: “Vua thì như thế, còn đám quan liêu từ triều đình đến các tỉnh phần nhiều là hủ nho, đám sĩ phu ở dân gian càng đông hơn, cũng đều hủ nho. Dưới vua, hai hạng người này nắm quyền lợi một nước trong tay họ, họ cấu kết với nhau để giữ lấy quyền lợi thì còn ai mà làm gì được”. Đoàn Giỏi bị kiểm thảo về tội vờ đả kích Phan Khôi để công bố những nét đại cương của một tác phẩm bị cấm. Bản thảo tập Nắng chiều hiện nay còn hay mất? Đó là một nghi vấn văn học chưa được soi tỏ.

Paris 12/2004
 
Top