• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Có Hình [Tổng Hợp]: Lịch Sử Hiện Đại Việt Nam

Topic này sẽ tổng hợp các bài viết nhỏ lẻ, ngắn, tùy hứng do t đọc đc ở đâu, đọc đến đâu thì up lên đây đến đó.

6 Sự kiện đặt nền móng cho Chiến tranh Việt Nam (Nam -Bắc)

Cuộc xung đột ở Việt Nam bắt nguồn từ phong trào giành độc lập chống lại sự cai trị của thực dân Pháp và phát triển thành một cuộc đối đầu trong Chiến tranh Lạnh.

Chiến tranh Việt Nam (1955-1975) diễn ra giữa miền Bắc Việt Nam cộng sản, được Liên Xô và Trung Quốc hậu thuẫn, và miền Nam Việt Nam, được Hoa Kỳ hỗ trợ. Cuộc xung đột đẫm máu này có nguồn gốc từ sự cai trị của thực dân Pháp và một phong trào độc lập do lãnh đạo cộng sản Hồ Chí Minh dẫn đầu.

Việt Nam trở thành chiến trường trong Chiến tranh Lạnh khi Hoa Kỳ và Liên Xô tranh giành quyền thống trị thế giới. Đến khi chiến tranh kết thúc, miền Bắc và miền Nam Việt Nam đã được thống nhất, nhưng với cái giá rất đắt. Dưới đây là sáu sự kiện dẫn đến Chiến tranh Việt Nam.


1. Sự sụp đổ của Đông Dương thuộc Pháp và sự trỗi dậy của Hồ Chí Minh

Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp vào năm 1877 với sự thành lập Đông Dương thuộc Pháp, bao gồm Tonkin, An Nam, Cochin China và Campuchia. (Lào được thêm vào năm 1893.) Pháp mất quyền kiểm soát thuộc địa của mình trong thời gian ngắn trong Thế chiến II khi quân đội Nhật chiếm đóng Việt Nam.

Khi Nhật Bản và Pháp tranh giành Việt Nam, một phong trào độc lập đã hình thành dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, một nhà cách mạng được truyền cảm hứng từ Cách mạng Bolshevik của Lenin. Ông đã thành lập Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam, được biết đến nhiều hơn với tên gọi Việt Minh, vào tháng 5 năm 1941.

Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập cho Việt Nam khỏi Pháp vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, chỉ vài giờ sau khi Nhật Bản đầu hàng trong Thế chiến II. Khi Pháp từ chối kế hoạch của ông, Việt Minh đã sử dụng chiến tranh du kích để chiến đấu vì một Việt Nam độc lập.

Bạn có biết không? Hồ Chí Minh đã sử dụng Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ làm mẫu cho Tuyên ngôn Độc lập của mình, viết: “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng: Đấng Tạo Hóa đã ban cho chúng ta những quyền bất khả xâm phạm, cuộc sống, tự do và hạnh phúc!”


2. Trận Điện Biên Phủ

Cuộc xung đột giữa Pháp và Việt Minh lên đến đỉnh điểm tại Trận Điện Biên Phủ quyết định, khi, sau bốn tháng bao vây, Pháp thua trước Việt Minh dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp, đánh dấu sự kết thúc của sự cai trị của Pháp ở Việt Nam. Câu hỏi ai sẽ cai trị Việt Nam và như thế nào đã thu hút sự quan tâm của các siêu cường thế giới, những người đang theo dõi tình hình ở Việt Nam với sự lo lắng ngày càng tăng.


3. Hiệp định Geneva năm 1954 chia cắt Việt Nam

1954 Geneva Accords

CÁC NHÀ NGOẠI GIAO TỪ HOA KỲ, LIÊN XÔ, CỘNG HÒA NHÂN DÂN TRUNG QUỐC, VƯƠNG QUỐC ANH, BẮC VÀ NAM HÀN, VÀ PHÁP CŨNG NHƯ CÁC ĐẠI DIỆN TỪ VIẾT MINH (BẮC VIỆT NAM), NHÀ NƯỚC VIỆT NAM (Miền Nam Việt Nam), CAMPUCHIA VÀ LÀO TRONG PHIÊN HỌP TẠI HỘI NGHỊ GENEVA THÁNG 7 NĂM 1954. HIỆP ĐỊNH GENEVA SẼ GIẢI QUYẾT LIÊN MINH ĐÔNG DƯƠNG PHÁP.

Hiệp định Geneva được ký kết vào tháng 7 năm 1954 và chia cắt Việt Nam tại vĩ tuyến 17. Miền Bắc Việt Nam sẽ do chính phủ cộng sản của Hồ Chí Minh cai trị và miền Nam Việt Nam sẽ do hoàng đế Bảo Đại lãnh đạo. Một cuộc bầu cử được lên lịch trong hai năm để thống nhất Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ, lo sợ rằng một cuộc bầu cử quốc gia sẽ dẫn đến sự cai trị của cộng sản, đã đảm bảo rằng nó không bao giờ diễn ra.

“Sự chia cắt ‘tạm thời’ của đất nước tại vĩ tuyến thứ mười bảy thành hai quốc gia đối lập về ý thức hệ có nghĩa là cuộc xung đột dân sự ở Việt Nam sẽ va chạm toàn diện với sự cạnh tranh Đông-Tây,” giáo sư Lien-Hang T. Nguyen, Giáo sư Lịch sử Hoa Kỳ và Đông Á tại Đại học Columbia cho biết.


4. Chiến tranh Lạnh

Việt Nam bị chia cắt trong Chiến tranh Lạnh khi căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Liên Xô đang ở mức cao nhất mọi thời đại. Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949, và vào tháng 1 năm 1950, Trung Quốc cùng với Liên Xô chính thức công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cộng sản.

Trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ thực hành chính sách ngăn chặn. Học thuyết Truman của Tổng thống Harry S. Truman cam kết hỗ trợ chính trị, quân sự và kinh tế cho các quốc gia dân chủ đối mặt với các mối đe dọa từ lực lượng cộng sản. Người kế nhiệm ông, Tổng thống Dwight D. Eisenhower, đưa ra Thuyết Domino rằng một chiến thắng của cộng sản ở Việt Nam sẽ tạo ra hiệu ứng domino ở Đông Nam Á... và do đó phải ngăn chặn bằng mọi giá.

“Chiến tranh Việt Nam vừa là một cuộc chiến để giải quyết các vấn đề của chủ nghĩa đế quốc châu Âu trong không gian hậu thuộc địa mới, một cuộc chiến giữa chủ nghĩa Marx-Lenin và Chủ nghĩa Tư bản-Dân chủ, và một cuộc chiến giữa các phe phái Việt Nam,” Nguyễn nói.


5. Sự lật đổ của Ngô Đình Diệm
Ngo Dinh Diem

Ngô Đình Diệm


Hoàng đế Bảo Đại được kế nhiệm bởi nhà dân tộc Công giáo Ngô Đình Diệm. Lập trường chống cộng mạnh mẽ của ông được người Mỹ yêu thích, những người đã giúp ông lên nắm quyền. Nhưng sự ưu đãi của Diệm đối với thiểu số Công giáo đã dẫn đến các cuộc biểu tình trên khắp miền Nam Việt Nam. Vào tháng 5 năm 1963, tám người biểu tình Phật giáo đã bị quan chức chính phủ giết hại ở Huế.

Để đáp lại, nhà sư Thích Quảng Đức đã tự thiêu giữa một giao lộ đông đúc ở Sài Gòn. Các nhà sư khác bắt đầu tự thiêu trong cái gọi là “khủng hoảng Phật giáo.” Hoa Kỳ mất niềm tin vào khả năng lãnh đạo của Diệm.

Tháng 11 đó, Hoa Kỳ ủng hộ một cuộc đảo chính quân sự trong đó Diệm và anh trai, Ngô Đình Nhu, bị sát hại. (Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy sẽ bị ám sát chưa đầy ba tuần sau đó.) Cuộc đảo chính được theo sau bởi một loạt các chính phủ kế nhiệm hỗn loạn ở miền Nam Việt Nam từ năm 1963 đến năm 1965.


6. Sự kiện Vịnh Bắc Bộ

Sự kiện Vịnh Bắc Bộ, còn được gọi là sự kiện U.S.S. Maddox, đánh dấu sự tham gia chính thức của Hoa Kỳ vào Chiến tranh Việt Nam.

“Vào mùa hè năm 1964, chính quyền Johnson đang lập kế hoạch bí mật cho việc mở rộng sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Các quan chức xác định rằng bất kỳ hành động rộng lớn nào như vậy đều nên có sự ủng hộ của quốc hội, và sự kiện Vịnh Bắc Bộ đã cung cấp cơ hội để đạt được sự ủy quyền này,” Fredrik Logevall, Giáo sư Fredrik D. Belfer về Các vấn đề Quốc tế tại Trường Chính phủ John F. Kennedy thuộc Đại học Harvard cho biết.

Vào ngày 2 tháng 8 năm 1964, tàu U.S.S. Maddox đã gặp ba tàu phóng lôi do Liên Xô chế tạo của miền Bắc Việt Nam trong Vịnh Bắc Bộ. Maddox đã bắn những gì nó mô tả là phát cảnh cáo và bị đáp trả bằng ngư lôi và súng máy. Vào ngày 4 tháng 8, tàu khu trục U.S.S. Turner Joy và U.S.S. Maddox báo cáo rằng họ đã bị phục kích, mặc dù tài khoản của Turner Joy kể từ đó đã bị các nhà sử học đặt câu hỏi.
 
Sửa lần cuối:
hình quá trời luôn, mà tao coi chưa hết nữa, tại thấy hay nên share
Tao coi sơ rồi, mà tao ko có tgian soạn nữa. Ko thì hqua tao cũng gắn vô mấy tấm.

Tao phải coi kỹ mới đối chiếu mới biết là mỗi tấm nằm ở giai đoạn nào rồi gắn cho đúng.
 
Máy bay Mỹ ném bom đường mòn Hồ Chí Minh (1965)
Vào ngày 3 tháng 3 năm 1965, hơn 30 máy bay chiến đấu của Không quân Mỹ đã tấn công các mục tiêu dọc theo Đường mòn Hồ Chí Minh ở Lào.

Đây chỉ là một phần của một loạt các cuộc tấn công mặt đất và trên không của Mỹ nhằm vào các làng và đường sá dọc theo Đường mòn Hồ Chí Minh.


Đường mòn Hồ Chí Minh

Là một tuyến đường cung cấp quân sự chạy từ miền Bắc Việt Nam qua Lào và Campuchia đến miền Nam Việt Nam. Tuyến đường này gửi vũ khí, nhân lực, đạn dược và các nguồn cung cấp khác từ miền Bắc Việt Nam do ******** lãnh đạo đến những người ủng hộ của họ ở miền Nam Việt Nam trong Chiến tranh Việt Nam.

Được đặt theo tên của Hồ Chí Minh, chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Đường mòn Hồ Chí Minh thực chất là một mạng lưới các đường mòn, đường đi bộ và đường xe. Trong những năm 1960, nó trở thành một tuyến đường vận chuyển hàng tấn nguồn cung cấp mỗi ngày qua các dãy núi gồ ghề và rừng rậm.


Lực lượng quân đội Mỹ

Nhận thức được số lượng vũ khí mà đường mòn này cung cấp cho Việt Cộng, kẻ thù của họ ở miền Nam Việt Nam—đã nhắm đến Đường mòn Hồ Chí Minh khi sự tham gia của Mỹ vào Việt Nam tăng lên trong những năm 1960.

Vì các cuộc đột kích như vậy đã trở thành kiến thức chung và được báo cáo trên các phương tiện truyền thông Mỹ, Bộ Ngoại giao Mỹ cảm thấy bắt buộc phải thông báo rằng những nhiệm vụ gây tranh cãi này đã được ủy quyền bởi quyền lực được trao cho Tổng thống Lyndon B. Johnson trong Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ tháng 8 năm 1964.

Nhưng chính quyền Johnson đã gặp phải sự chỉ trích ngày càng tăng ở trong nước và quốc tế vì các cuộc ném bom dọc theo con đường ở Lào và Campuchia. Các đối thủ trong Quốc hội của chính quyền Johnson cho rằng tổng thống đang leo thang chiến tranh mà không được ủy quyền.

Cũng có phản ứng ngay lập tức từ cộng đồng quốc tế. Không có gì ngạc nhiên khi những người ******** lên án hành động của Johnson một cách gay gắt. Tại Havana, Thủ tướng Fidel Castro lên án Hoa Kỳ và hứa rằng Cuba sẽ hỗ trợ miền Bắc Việt Nam. Vào ngày 4 tháng 3, khoảng 2.000 sinh viên đã tấn công Đại sứ quán Mỹ tại Moscow.

Cũng có phản ứng từ các thủ đô không ********. Thủ tướng Lester Pearson của Canada bày tỏ lo ngại về nguy cơ leo thang, nhưng nói rằng Canada hiểu vị thế của Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, tại Anh, có sự chỉ trích ngày càng tăng đối với sự ủng hộ của chính phủ đối với các chính sách của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Tại thành phố New York, các thành viên của Women Strike for Peace đã biểu tình bên ngoài Liên Hợp Quốc để kêu gọi chấm dứt chiến tranh.

Các phần của Đường mòn Hồ Chí Minh vẫn tồn tại cho đến ngày nay, và một phần của nó đã được đưa vào Quốc lộ Hồ Chí Minh, một con đường trải nhựa kết nối các khu vực phía bắc và phía nam của Việt Nam.
 
Seymour Hersh tiết lộ vụ thảm sát Mỹ Lai (1969)

Trong một bài báo được gửi qua Dispatch News Service và được hơn 30 tờ báo đón nhận, nhà báo điều tra Seymour Hersh đã tiết lộ mức độ của các cáo buộc của Quân đội Hoa Kỳ đối với Trung úy William L. Calley tại Mỹ Lai. Hersh viết: “Quân đội nói rằng ông ấy [Calley] đã cố ý giết ít nhất 109 dân thường Việt Nam trong một nhiệm vụ tìm kiếm và tiêu diệt vào tháng 3 năm 1968, tại một thành trì của Việt Cộng được gọi là ‘Pinkville.'”

Sự kiện này, được biết đến với tên gọi Thảm sát Mỹ Lai, diễn ra vào tháng 3 năm 1968. Giữa 200 và 500 dân thường Nam Việt Nam đã bị giết hại bởi những binh lính Hoa Kỳ từ Đại đội C, Tiểu đoàn 1, Bộ binh 20, Lữ đoàn Bộ binh 11 của Sư đoàn Americal. Trong một cuộc càn quét cụm làng được biết đến với tên Mỹ Lai 4, những binh lính Hoa Kỳ—đặc biệt là những người từ trung đội thứ nhất của Calley—đã bắn bừa vào những người đang chạy ra từ các túp lều, sau đó họ tập trung những người sống sót lại và được cho là đã dẫn họ đến một cái rãnh nơi Calley ra lệnh “giết hết chúng.”

Cuộc điều tra ban đầu—được thực hiện vào tháng 4 năm 1968 bởi các thành viên của Lữ đoàn Bộ binh 11, đơn vị liên quan đến sự việc này—kết luận rằng không có vụ thảm sát nào xảy ra và không cần hành động thêm nào. Tuy nhiên, khi sự che đậy được phát hiện, Cục Điều tra Hình sự Quân đội đã tiến hành một cuộc điều tra mới. Ngoài ra, Tham mưu trưởng Quân đội William C. Westmoreland đã bổ nhiệm Trung tướng William R. Peers để “khám phá bản chất và phạm vi” của cuộc điều tra ban đầu để xác định mức độ của sự che đậy. Ông phát hiện ra rằng 30 người đã tham gia hoặc biết về vụ thảm sát và không làm gì để ngăn chặn. Cuối cùng, chỉ có 14 người bị buộc tội. Tất cả cuối cùng đã được bỏ các cáo buộc hoặc được tha bổng, ngoại trừ Calley, người bị kết tội giết hại 22 dân thường và bị kết án tù chung thân. Tuy nhiên, án phạt của Calley sau đó đã được giảm nhẹ và ông được thả khỏi nhà tù vào năm 1974.

Cũng trong ngày này: Tại Washington, D.C., chính phủ liên bang bắt đầu tập hợp 9.000 binh sĩ để hỗ trợ cảnh sát và Vệ binh Quốc gia đối phó với các cuộc biểu tình và tuần hành lớn dự kiến vào ngày 14-15 tháng 11. Bộ Quốc phòng thông báo rằng các binh sĩ này được triệu tập theo yêu cầu của Bộ Tư pháp và sẽ bổ sung cho 1.200 binh sĩ Vệ binh Quốc gia và lực lượng cảnh sát 3.700 người.


Phiên tòa Mỹ Lai bắt đầu (1970)

Phiên tòa xét xử quân sự của Trung úy William Calley bắt đầu. Calley, một chỉ huy trung đội trong Đại đội Charlie, Tiểu đoàn 1, Bộ binh 20, Lữ đoàn Bộ binh 11 (Nhẹ) của Sư đoàn 23 (Americal), đã dẫn dắt binh lính của mình trong một cuộc thảm sát dân thường Việt Nam, bao gồm phụ nữ và trẻ em, tại Mỹ Lai 4 vào ngày 16 tháng 3 năm 1968. Mỹ Lai 4 là một trong những cụm thôn thuộc làng Sơn Mỹ ở khu vực phía bắc miền Nam Việt Nam.

Đại đội này đã thực hiện một nhiệm vụ tìm kiếm và tiêu diệt như một phần của Chiến dịch Wheeler/Wallowa kéo dài một năm (tháng 11 năm 1967 - tháng 11 năm 1968). Trong khi tìm kiếm Tiểu đoàn Lực lượng Địa phương Việt Cộng 48, đơn vị đã tiến vào làng nhưng chỉ tìm thấy phụ nữ, trẻ em và người già. Thất vọng vì những tổn thất do bị bắn tỉa và mìn, binh lính đã trút cơn giận lên dân làng, bắn bừa vào những người vô tội khi họ chạy khỏi các túp lều. Sau đó, họ tập hợp những người sống sót lại, được cho là đã dẫn họ đến một cái rãnh gần đó và giết họ.

Calley bị buộc tội với sáu tội danh giết người có chủ đích. Trong phiên tòa, Trưởng công tố Quân đội Đại úy Aubrey Daniel đã buộc tội Calley ra lệnh cho Trung sĩ Daniel Mitchell "giết hết những người còn lại" trong số những dân làng bị tập hợp. Bên công tố nhấn mạnh rằng tất cả các vụ giết người đều được thực hiện mặc dù trung đội của Calley không gặp phải sự kháng cự nào và không ai bắn vào họ.

Vụ thảm sát Mỹ Lai ban đầu bị che đậy, nhưng được phơi bày sau một năm. Một hội đồng điều tra Quân đội, do Trung tướng William Peers đứng đầu, đã điều tra vụ thảm sát và đưa ra danh sách 30 người biết về tội ác này, nhưng chỉ có 14 người, bao gồm Calley và chỉ huy đại đội của ông, Đại úy Ernest Medina, bị buộc tội. Tất cả đều được bỏ các cáo buộc hoặc được tha bổng bởi tòa án quân sự ngoại trừ Calley, người mà trung đội của ông bị cho là đã giết 200 người vô tội.

Calley bị kết tội giết hại 22 dân thường và bị kết án tù chung thân, nhưng bản án của ông đã được giảm xuống còn 20 năm bởi Tòa án Quân sự Phúc thẩm và sau đó giảm xuống còn 10 năm bởi Bộ trưởng Bộ Quân đội. Được phần lớn công chúng coi là "vật tế thần," Calley được ân xá vào năm 1974.
 
Tết Mậu Thân làm lung lay niềm tin Chiến tranh Lạnh (1968)
Trong các cuộc tấn công phối hợp trên khắp miền Nam Việt Nam, các lực lượng cộng sản đã khởi động cuộc tấn công lớn nhất trong Chiến tranh Việt Nam chống lại quân đội Nam Việt Nam và Hoa Kỳ.

Hàng chục thành phố, thị trấn và căn cứ quân sự—bao gồm cả Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Sài Gòn—đã bị tấn công. Cuộc tấn công quy mô lớn này không phải là một thành công quân sự cho cộng sản, nhưng quy mô và cường độ của nó đã làm lung lay niềm tin của nhiều người Mỹ, những người đã được chính quyền của Tổng thống Lyndon B. Johnson dẫn dắt tin rằng cuộc chiến sẽ sớm kết thúc thành công.

Vào ngày 30 tháng 1 năm 1968, trong thời gian ngừng bắn dịp Tết tại miền Nam Việt Nam, ước tính có khoảng 80.000 quân của Quân đội Bắc Việt và Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã tấn công các thành phố và cơ sở quân sự trên khắp miền Nam Việt Nam. Sự kiện ngoạn mục nhất diễn ra khi một nhóm đặc công của Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã phá tường xung quanh Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn và không thành công trong việc chiếm giữ tòa nhà đại sứ quán. Hầu hết các cuộc tấn công đã bị đẩy lùi, với lực lượng cộng sản chịu tổn thất nặng nề.

Các trận chiến tiếp tục diễn ra trên khắp cả nước trong nhiều tuần—cuộc chiến giành lại thành phố Huế từ tay quân cộng sản đặc biệt tàn khốc.

Lực lượng Hoa Kỳ và Nam Việt Nam đã mất hơn 3.000 binh sĩ trong cuộc tấn công.

Ước tính tổn thất của cộng sản lên đến 40.000 người.

Mặc dù cộng sản không thành công về mặt quân sự, nhưng tác động của Cuộc Tổng tấn công Tết đối với dư luận tại Hoa Kỳ là rất đáng kể.
Người dân Mỹ, những người đã được thông báo vài tháng trước đó rằng cuộc chiến đang thành công và quân đội Mỹ có thể sớm được rút về, đã bị sốc khi thấy cuộc chiến diễn ra ngay trên khuôn viên Đại sứ quán Hoa Kỳ.

Bất chấp những lời đảm bảo từ chính quyền Johnson rằng mọi thứ đều ổn, Cuộc Tổng tấn công Tết đã khiến nhiều người Mỹ bắt đầu nghi ngờ nghiêm trọng những tuyên bố như vậy và tự hỏi liệu sức mạnh quân sự của Mỹ có thực sự vượt qua được mối đe dọa cộng sản ở nước ngoài hay không.

Vào những năm 1950, người Mỹ gần như ủng hộ vô điều kiện một phản ứng mạnh mẽ của Mỹ đối với chủ nghĩa cộng sản; phản ứng đối với Cuộc Tổng tấn công Tết dường như phản ánh sự hoài nghi ngày càng tăng của những năm 1960, khi người Mỹ ngày càng nghi ngờ về hiệu quả của những chiến thuật Chiến tranh Lạnh như vậy.

Sau Cuộc Tổng tấn công Tết, sự ủng hộ đối với nỗ lực của Hoa Kỳ ở Việt Nam bắt đầu giảm dần, và dư luận chuyển sang chống lại Tổng thống Johnson, người quyết định không ra tranh cử nhiệm kỳ tiếp theo.
 
Những cái đầu tiên của quân đội Mỹ ở chiến tranh Việt Nam


Lực lượng Mỹ chịu tổn thất đầu tiên tại Việt Nam (1957)

Nhân viên quân sự Hoa Kỳ chịu tổn thất đầu tiên trong chiến tranh khi 13 người Mỹ bị thương trong ba vụ đánh bom khủng bố vào các cơ sở của Nhóm Cố vấn Quân sự và Dịch vụ Thông tin Hoa Kỳ tại Sài Gòn.

Làn sóng hoạt động du kích gia tăng ở miền Nam Việt Nam đã đạt đến ước tính 30 vụ khủng bố vào cuối năm và ít nhất 75 quan chức địa phương đã bị ám sát hoặc bắt cóc trong quý cuối cùng của năm 1957.


Người Mỹ đầu tiên thiệt mạng ở miền Nam Việt Nam (1959)

Thiếu tá Dale R. Buis và Thượng sĩ Chester M. Ovnand trở thành những người Mỹ đầu tiên thiệt mạng trong giai đoạn Hoa Kỳ tham gia Chiến tranh Việt Nam khi du kích tấn công vào một căn cứ của Nhóm Cố vấn Quân sự (MAAG) tại Biên Hòa, cách Sài Gòn 20 dặm về phía đông bắc. Nhóm này đã đến miền Nam Việt Nam vào ngày 1 tháng 11 năm 1955 để cung cấp hỗ trợ quân sự. Tổ chức này bao gồm các nhân viên của Lục quân, Hải quân, Không quân và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, cung cấp lời khuyên và hỗ trợ cho Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu Liên quân, các chỉ huy quân đoàn và sư đoàn, các trung tâm đào tạo, và các trụ sở tỉnh và quận.


Những chiếc trực thăng đầu tiên của Mỹ đến miền Nam Việt Nam (1961)

Tàu sân bay chở phà, USNS Core, đến Sài Gòn với đơn vị trực thăng đầu tiên của Mỹ. Đơn vị này bao gồm 33 chiếc trực thăng Vertol H-21C Shawnee và 400 nhân viên phi hành và mặt đất để vận hành và bảo trì chúng. Nhiệm vụ của họ là vận chuyển binh lính Quân đội Nam Việt Nam vào chiến trường.

Trực thăng Mỹ đầu tiên bị bắn hạ ở Việt Nam (1961)

Trực thăng Mỹ đầu tiên bị bắn hạ ở Việt Nam. Đây là một trong số 15 chiếc trực thăng đang chở lính quân đội Nam Việt Nam vào trận chiến gần làng Hong My ở đồng bằng sông Cửu Long.

Đơn vị trực thăng Mỹ đầu tiên đã đến Nam Việt Nam trên tàu chở hàng USNS Core vào ngày 11 tháng 12 năm 1961. Đoàn này bao gồm 33 chiếc trực thăng Vertol H-21C Shawnee và 400 nhân viên không quân và mặt đất để vận hành và bảo trì chúng. Nhiệm vụ của họ là vận chuyển lính quân đội Nam Việt Nam vào chiến trường.


Máy bay đầu tiên của Không quân Mỹ gặp tai nạn ở Nam Việt Nam (1962)

Máy bay đầu tiên của Không quân Mỹ bị mất ở Nam Việt Nam. Máy bay C-123 đã bị rơi khi đang phun chất diệt lá trên một khu vực phục kích của Viet Cong.

Máy bay này thuộc về Chiến dịch Ranch Hand, một kỹ thuật công nghệ nhằm loại bỏ cây cối để làm lộ ra các con đường và lối mòn mà Viet Cong sử dụng. Từ năm 1962 đến 1971, nhân viên Mỹ đã xả khoảng 19 triệu gallon thuốc diệt lá lên 10-20% diện tích Việt Nam và một số khu vực của Lào. Agent Orange—tên gọi từ màu sắc của các thùng chứa kim loại—là loại được sử dụng nhiều nhất.

Chiến dịch này đã thành công trong việc tiêu diệt thực vật nhưng không làm ngừng hoạt động của Viet Cong. Việc sử dụng các chất này đã gây tranh cãi, cả trong thời gian chiến tranh và sau đó, do có nhiều câu hỏi về ảnh hưởng lâu dài đối với môi trường và tác động đến sức khỏe của những người tiếp xúc hoặc bị phun hóa chất. Bắt đầu từ cuối những năm 1970, các cựu chiến binh Việt Nam bắt đầu chỉ trích các loại thuốc diệt cỏ, đặc biệt là Agent Orange, là nguyên nhân gây ra các vấn đề sức khỏe từ phát ban da đến ung thư và dị tật bẩm sinh ở con cái của họ. Các vấn đề tương tự, bao gồm tỷ lệ sẩy thai và dị dạng bẩm sinh cao bất thường, cũng đã được báo cáo ở người dân Việt Nam sống ở các khu vực nơi các chất diệt lá được sử dụng.


Lính Thủy quân Lục chiến đầu tiên nhận Huân chương Danh dự sau khi tử trận trong hành động ở Việt Nam (1965)

Đầu tiên, tàu vận chuyển USNS Core cập cảng Sài Gòn với đơn vị trực thăng Mỹ đầu tiên. Đoàn này bao gồm 33 chiếc trực thăng Vertol H-21C Shawnee và 400 nhân viên phi hành và mặt đất để vận hành và bảo trì chúng. Nhiệm vụ của họ là vận chuyển quân đội Việt Nam Cộng Hòa vào chiến trường.

Ngày 12 tháng 7 năm 1965, Trung úy Frank S. Reasoner của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ—người trở thành lính thủy đánh bộ đầu tiên được trao tặng Huân chương Danh dự posthumously vì hành động tại Việt Nam—đã bị trúng đạn của kẻ thù và hy sinh. Ông là lính thủy đánh bộ thứ hai được trao tặng huân chương cao quý nhất của quốc gia vì lòng dũng cảm trong cuộc chiến tranh Việt Nam.

Reasoner và trung đoàn của ông đã thực hiện một cuộc tuần tra trong khu vực nghi ngờ có sự hiện diện của quân du kích Việt Cộng để ngăn chặn mọi hoạt động của kẻ thù nhằm vào căn cứ không quân gần đó tại Đà Nẵng. Ông và nhóm năm người mà ông đang đi cùng bị tách rời khỏi phần còn lại của đại đội. Ông đã ra lệnh cho các đồng đội thiết lập một vòng chắn hỏa lực và sau đó, liên tục phơi bày bản thân trước hỏa lực của kẻ thù, tiêu diệt hai chiến sĩ Việt Cộng, một mình tiêu diệt một ổ súng máy của kẻ thù, và chạy xuyên qua hỏa lực của kẻ thù để cứu một nhân viên điều hành vô tuyến bị thương. Cố gắng cổ vũ các đồng đội, Reasoner đã bị trúng đạn của ổ súng máy của kẻ thù và hy sinh ngay lập tức.

Khi Bộ trưởng Hải quân Paul H. Nitze trao Huân chương Danh dự cho góa phụ và con trai của Reasoner trong buổi lễ tại Lầu Năm Góc vào ngày 31 tháng 1 năm 1967, ông đã nói về sự sẵn sàng hy sinh của Reasoner vì đồng đội của mình: “Sự coi thường hoàn toàn đối với phúc lợi của chính mình của Trung úy Reasoner sẽ còn lâu trở thành tấm gương truyền cảm hứng cho người khác.”

Trung úy Reasoner là lính thủy đánh bộ đầu tiên được trao tặng Huân chương Danh dự posthumously vì hành động tại Việt Nam. Lính thủy đánh bộ đầu tiên trong cuộc chiến tranh Việt Nam nhận được Huân chương Danh dự là Robert Emmett O'Malley, người nhận huân chương của mình gần hai tháng trước đó.


Cuộc "dạy học phản chiến" đầu tiên được tổ chức (1965)

Cuộc "dạy học phản chiến" đầu tiên được tổ chức tại Đại học Michigan ở Ann Arbor; hai trăm giảng viên tham gia bằng cách tổ chức các buổi hội thảo đặc biệt phản đối chiến tranh. Các lớp học thường lệ bị hủy bỏ, và các cuộc biểu tình và phát biểu chiếm ưu thế trong suốt 12 giờ. Vào ngày 26 tháng 3, một cuộc "dạy học phản chiến" tương tự diễn ra tại Đại học Columbia ở New York; hình thức phản đối này sau đó lan rộng ra nhiều trường cao đẳng và đại học khác.


Những binh sĩ Mỹ đầu tiên được rút khỏi miền Nam Việt Nam (1969)

Một tiểu đoàn thuộc Sư đoàn Bộ binh số 9 của Mỹ rời Sài Gòn trong đợt rút quân đầu tiên của binh sĩ Mỹ. 814 binh sĩ này là những người đầu tiên trong số 25.000 binh sĩ được rút đi trong giai đoạn đầu của việc Mỹ rút khỏi Chiến tranh Việt Nam. Sẽ có 14 giai đoạn rút quân nữa, nhưng những binh sĩ Mỹ cuối cùng không rời đi cho đến sau khi Hiệp định Hòa bình Paris được ký kết vào tháng 1 năm 1973.


B-52 đầu tiên bị bắn rơi trên Bắc Việt Nam (1972)

Hoa Kỳ mất chiếc B-52 đầu tiên trong cuộc chiến. Chiếc máy bay ném bom tám động cơ bị bắn hạ bởi một tên lửa đất đối không của Bắc Việt Nam gần Vinh vào ngày mà các B-52 thực hiện các cuộc tấn công nặng nề nhất trong cuộc chiến trên Bắc Việt Nam.

Các lực lượng ******** tuyên bố đã bắn hạ 19 chiếc B-52 tính đến thời điểm đó.
 
Sửa lần cuối:
Trung Quốc công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1950)

Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Đảng Cộng sản lãnh đạo và đồng ý cung cấp viện trợ quân sự cho quốc gia này; Liên Xô đã mở rộng công nhận ngoại giao đối với Hà Nội vào ngày 30 tháng 1.

Trung Quốc và Liên Xô đã cung cấp viện trợ quân sự và kinh tế lớn cho miền Bắc Việt Nam, giúp miền Bắc chiến đấu trước tiên với người Pháp và sau đó là với người Mỹ. Viện trợ của Trung Quốc cho miền Bắc Việt Nam trong giai đoạn từ 1950 đến 1970 ước tính lên đến 20 tỷ đô la.

Được cho là Trung Quốc đã cung cấp khoảng ba phần tư tổng số viện trợ quân sự dành cho Hà Nội kể từ năm 1949, với phần còn lại chủ yếu do Liên Xô cung cấp. Nếu không có sự trợ giúp từ cả Trung Quốc và Liên Xô, miền Bắc Việt Nam sẽ không thể tiếp tục cuộc chiến.
 
Các hố chôn tập thể được phát hiện ở Huế (1968)

Các lực lượng đồng minh, sau khi chiếm lại cố đô Huế từ tay quân Bắc Việt trong Cuộc tổng tấn công Tết, phát hiện ra những hố chôn tập thể đầu tiên tại Huế.

Được phát hiện rằng các lực lượng cộng sản, những người đã chiếm giữ thành phố trong 25 ngày, đã tàn sát khoảng 2.800 thường dân mà họ xác định là những người ủng hộ chính phủ ở Sài Gòn.

Một nhà chức trách ước tính rằng các cộng sản có thể đã giết đến 5.700 người ở Huế.

Cuộc tổng tấn công Tết bắt đầu vào rạng sáng ngày đầu tiên của lệnh ngừng bắn trong kỳ nghỉ Tết (30 tháng 1), khi các lực lượng Việt Cộng, được hỗ trợ bởi số lượng lớn quân Bắc Việt, phát động cuộc tấn công lớn nhất và được phối hợp tốt nhất của cuộc chiến. Trong cuộc tấn công, họ đã xâm nhập vào trung tâm của bảy thành phố lớn nhất miền Nam Việt Nam và tấn công 30 tỉnh lỵ trải dài từ Đồng bằng sông Cửu Long đến khu phi quân sự (DMZ).

Trong số các thành phố bị chiếm trong bốn ngày đầu của cuộc tấn công có Huế, Đà Lạt, Kon Tum và Quảng Trị; ở miền Bắc, tất cả năm tỉnh lỵ đều bị vượt qua. Đồng thời, các lực lượng địch đã pháo kích vào nhiều sân bay và căn cứ của đồng minh. Đến ngày 10 tháng 2, cuộc tấn công chủ yếu đã bị dập tắt, nhưng đã gây ra tổn thất nặng nề cho cả hai bên.
 
Hàng nghìn người biểu tình chống chiến tranh ở Việt Nam (1970)

Tại Washington, D.C., gần 100.000 người đã tập trung để phản đối nỗ lực chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Hơn 50.000 người trong số đó đã diễu hành đến Ngũ Giác Đài để yêu cầu chấm dứt cuộc xung đột. Cuộc biểu tình này là dấu hiệu kịch tính nhất của sự suy giảm ủng hộ của công chúng Mỹ đối với cuộc chiến của Tổng thống Lyndon Johnson ở Việt Nam. Các cuộc khảo sát thực hiện vào mùa hè năm 1967 cho thấy, lần đầu tiên, sự ủng hộ của người Mỹ đối với cuộc chiến đã giảm xuống dưới 50%.

Khi chính quyền Johnson công bố rằng sẽ yêu cầu tăng thuế 10% để tài trợ cho cuộc chiến, sự hoài nghi của công chúng gia tăng. Phong trào hòa bình bắt đầu thúc đẩy mạnh mẽ hơn để chấm dứt cuộc chiến—cuộc diễu hành ở Washington là dấu hiệu mạnh mẽ nhất về cam kết của họ đối với vấn đề này.

Chính quyền Johnson đáp lại bằng cách phát động một chiến dịch tuyên truyền mạnh mẽ để khôi phục lòng tin của công chúng vào việc xử lý cuộc chiến. Tổng thống thậm chí đã gọi Tướng William Westmoreland, chỉ huy các lực lượng Mỹ ở Việt Nam, trở về Hoa Kỳ để phát biểu trước Quốc hội và công chúng. Nỗ lực này có phần thành công trong việc giảm bớt những chỉ trích về cuộc chiến. Tuy nhiên, Cuộc tấn công Tết đầu năm 1968 đã phá hủy phần lớn sự tín nhiệm của chính quyền Johnson đối với cuộc chiến ở Việt Nam.

Cuộc biểu tình cũng quan trọng vì gợi ý rằng sự đồng thuận trong nước về Chiến tranh Lạnh đang bắt đầu bị phân hóa. Nhiều người biểu tình không chỉ đặt câu hỏi về cách thức Mỹ tiến hành cuộc chiến ở Việt Nam, mà còn về chính bản chất của chính sách đối ngoại Chiến tranh Lạnh của quốc gia này.
 
Ngô Đình Diệm bị ám sát ở Nam Việt Nam (1963)

Sau khi chính phủ của ông bị các lực lượng quân đội Nam Việt Nam lật đổ vào ngày hôm trước, Tổng thống Ngo Dinh Diem và anh trai của ông bị một nhóm lính bắt giữ và giết chết.

Sự ra đi của Diem đã khiến nhiều người ở Nam Việt Nam ăn mừng, nhưng đồng thời cũng dẫn đến sự hỗn loạn chính trị trong quốc gia. Hoa Kỳ sau đó trở nên can thiệp sâu hơn vào Việt Nam khi cố gắng ổn định chính phủ Nam Việt Nam và chống lại các cuộc nổi dậy của những người cộng sản, những người đang trở thành mối đe dọa ngày càng lớn.

Mặc dù Hoa Kỳ công khai phủ nhận bất kỳ kiến thức hoặc sự tham gia nào trong việc lập kế hoạch cuộc đảo chính lật đổ Diem, nhưng sau đó đã có thông tin tiết lộ rằng các quan chức Mỹ đã gặp gỡ các tướng lĩnh tổ chức âm mưu và khuyến khích họ thực hiện kế hoạch. Quyền lực ngày càng độc tài của Diem chỉ thành công trong việc làm xa lánh phần lớn người dân Nam Việt Nam, và sự đàn áp tàn bạo các cuộc biểu tình do các tu sĩ Phật giáo lãnh đạo trong mùa hè năm 1963 đã thuyết phục nhiều quan chức Mỹ rằng thời điểm đã đến để Diem ra đi.

Ba tuần sau, một sát thủ đã bắn Tổng thống Kennedy. Lúc đó, Hoa Kỳ đã can thiệp sâu hơn vào cuộc xung đột ở Nam Việt Nam hơn bao giờ hết.

Sự tham gia của Mỹ vào việc lật đổ chế độ Diem đã đánh dấu sự thiếu kiên nhẫn ngày càng tăng đối với việc quản lý cuộc chiến của Nam Việt Nam.

Từ thời điểm này, Hoa Kỳ đã từng bước trở nên trực tiếp và sâu sắc hơn trong cuộc chiến chống lại các cuộc nổi dậy của những người cộng sản.
 
Quốc hội thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ (1964)

Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ với tỷ lệ áp đảo, trao cho Tổng thống Lyndon B. Johnson quyền lực gần như không giới hạn để chống lại “sự xâm lược của cộng sản” ở Đông Nam Á.
Nghị quyết này đánh dấu sự bắt đầu của một vai trò quân sự mở rộng của Hoa Kỳ trên các chiến trường của Chiến tranh Lạnh tại Việt Nam, Lào và Campuchia.

Đến năm 1964, đồng minh của Mỹ, Nam Việt Nam, đang đứng trước nguy cơ nghiêm trọng bị rơi vào tay các lực lượng nổi dậy cộng sản. Những kẻ nổi dậy, được Bắc Việt Nam cộng sản hỗ trợ, kiểm soát các khu vực lớn của Nam Việt Nam, và không có sự trợ giúp quân sự và huấn luyện nào của Mỹ dường như có thể cứu vãn được chế độ miền Nam. Trong các nhiệm kỳ tổng thống của Dwight D. Eisenhower và John F. Kennedy, hàng trăm và sau đó hàng nghìn cố vấn quân sự Mỹ đã được gửi đến Nam Việt Nam để huấn luyện các lực lượng quân đội của quốc gia này.

Thêm vào đó, hàng trăm triệu đô la viện trợ quân sự và kinh tế đã được cung cấp cho Nam Việt Nam. Chính quyền của Tổng thống Lyndon B. Johnson đã quyết định rằng chỉ có can thiệp quân sự trực tiếp của Mỹ vào cuộc xung đột mới có thể thay đổi tình hình. Tuy nhiên, Johnson đang vận động tranh cử trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1964 với tư cách là ứng cử viên “có trách nhiệm”, người sẽ không gửi quân đội Mỹ đến chiến đấu và hy sinh ở châu Á. Vào đầu tháng 8, một loạt sự kiện xảy ra cho phép Johnson xuất hiện như một nhà lãnh đạo quốc gia trong khi đồng thời mở rộng vai trò của Mỹ tại Việt Nam.

Vào ngày 2 tháng 8, các tàu phóng ngư lôi Bắc Việt Nam đã tấn công một tàu khu trục của Mỹ ở Vịnh Bắc Bộ. Johnson đã phản ứng bằng cách gửi thêm một tàu khu trục khác. Vào ngày 4 tháng 8, hai tàu khu trục báo cáo rằng chúng đang bị tấn công. Lần này, Johnson đã cho phép thực hiện các cuộc không kích trả đũa chống lại Bắc Việt Nam. Ông cũng yêu cầu Quốc hội thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ.

Nghị quyết này tuyên bố, “Hoa Kỳ coi việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế ở Đông Nam Á là thiết yếu đối với lợi ích quốc gia và hòa bình thế giới.” Nó cũng trao cho Johnson quyền “thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết để chống lại bất kỳ cuộc tấn công vũ trang nào nhằm vào các lực lượng của Hoa Kỳ và ngăn chặn sự xâm lược thêm.” Hạ viện đã thông qua nghị quyết với tỷ lệ nhất trí; tỷ lệ bỏ phiếu ở Thượng viện là 88 so với 2. Sự phổ biến của Johnson đã tăng vọt sau cách xử lý “kiềm chế” của ông đối với cuộc khủng hoảng.

Chính quyền Johnson đã sử dụng nghị quyết này như một cái cớ để bắt đầu cuộc ném bom nặng nề ở Bắc Việt Nam vào đầu năm 1965 và đưa quân đội Mỹ vào tháng 3 năm 1965. Từ đó, một cuộc chiến kéo dài gần tám năm bắt đầu, trong đó hơn 58.000 quân nhân Mỹ đã hy sinh. Theo cách nhìn rộng hơn, Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ có thể được coi là chính sách Chiến tranh Lạnh của Mỹ đối với toàn bộ Đông Nam Á vào thời điểm đó.

Nghị quyết cũng là một ví dụ khác về việc chính phủ Mỹ không thẳng thắn trong việc thảo luận về các vấn đề “an ninh quốc gia” trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Trong cuộc tranh luận của Quốc hội về nghị quyết, không được đề cập đến thực tế rằng các chỉ huy tàu khu trục của Mỹ không thể xác định với độ chính xác tuyệt đối rằng các tàu của họ thực sự đã bị tấn công vào đêm 4 tháng 8, cũng như không có đề cập đến việc các tàu khu trục của Mỹ đã hỗ trợ các đội commando Nam Việt Nam trong các cuộc tấn công vào các cơ sở quân sự Bắc Việt Nam.

Đến cuối những năm 1960, những rối ren của các sự dối trá và lừa dối của chính phủ bắt đầu bị vạch trần khi lòng tin của công chúng vào cả Johnson và nỗ lực quân sự của Mỹ tại Việt Nam bắt đầu suy giảm.
 
Trận Khe Sanh (1968)

Trận Khe Sanh bắt đầu vào ngày 21 tháng 1 năm 1968, khi lực lượng của Quân đội Nhân dân Việt Nam (PAVN) thực hiện một cuộc pháo kích ồ ạt vào đồn trú của Thủy quân lục chiến Mỹ tại Khe Sanh, nằm ở miền Nam Việt Nam gần biên giới với Lào. Trong 77 ngày tiếp theo, các lính Thủy quân lục chiến Mỹ và các đồng minh Nam Việt Nam đã chống chọi với một cuộc vây hãm dữ dội, đây là một trong những trận chiến dài nhất và đẫm máu nhất của Chiến tranh Việt Nam.


Bảo vệ Khe Sanh

Sự hiện diện của quân đội Mỹ tại Khe Sanh bắt đầu vào năm 1962, khi các Lực lượng Đặc biệt của Quân đội Mỹ xây dựng một trại nhỏ gần ngôi làng, cách khoảng 14 dặm về phía nam của khu phi quân sự (DMZ) giữa Bắc và Nam Việt Nam và 6 dặm từ biên giới Lào trên Quốc lộ 9, con đường chính từ Nam Việt Nam vào Lào.

Lính Thủy quân lục chiến Mỹ đã xây dựng một đồn trú sát cạnh trại quân đội vào năm 1966. Vào mùa thu năm 1967, Quân đội Nhân dân Việt Nam (PAVN) bắt đầu gia tăng sức mạnh ở khu vực này, và các quan chức Mỹ bắt đầu nghi ngờ rằng Khe Sanh sẽ là mục tiêu của một cuộc tấn công.


Bạn có biết?

Số lượng lực lượng cộng sản bị tiêu diệt trong Trận Khe Sanh đã lên đến khoảng 10.000, so với chưa đến 500 lính Thủy quân lục chiến Mỹ bị chết trong trận chiến.


Tướng William Westmoreland, chỉ huy của Lực lượng Hỗ trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV), tin rằng các lực lượng cộng sản Việt Nam đã chọn Khe Sanh như một phần của nỗ lực tổng thể để chiếm giữ các khu vực phía bắc của Nam Việt Nam và đặt mình vào một vị trí mạnh mẽ hơn trước bất kỳ cuộc đàm phán hòa bình tương lai nào.

Họ đã thực hiện thành công điều này chống lại quân đội thuộc địa Pháp trong Trận Điện Biên Phủ vào năm 1954, trước khi giành được độc lập tại hội nghị hòa bình Genève.

Như một phần của chương trình mang mật danh Operation Scotland, Westmoreland đã tăng cường lực lượng đồn trú Thủy quân lục chiến tại Khe Sanh—đưa tổng số quân lên khoảng 6.000—tích trữ đạn dược và cải tạo đường băng tại căn cứ, tất cả đều chuẩn bị cho một cuộc tấn công có thể xảy ra.


Trận Khe Sanh

Cuộc tấn công cuối cùng đã xảy ra vào ngày 21 tháng 1 năm 1968, khi các lực lượng PAVN bắt đầu cuộc pháo kích ồ ạt vào Khe Sanh, tấn công vào kho đạn chính của căn cứ và phá hủy 90% số đạn pháo và cối của nó.

Tổng thống Lyndon B. Johnson đồng ý với lập luận của Westmoreland rằng căn cứ cần phải được giữ bằng mọi giá, và các lực lượng Mỹ và Nam Việt Nam đã phát động Operation Niagara, một cuộc pháo kích lớn vào các vị trí nghi ngờ của pháo Bắc Việt Nam trên các đồi xung quanh Khe Sanh.

Khi Johnson, Westmoreland và các quan chức khác coi Khe Sanh là mục tiêu chính của Bắc Việt Nam, họ phần lớn đã bỏ qua các dấu hiệu của sự gia tăng lực lượng cộng sản ở các khu vực đô thị hơn của Nam Việt Nam.


Cuộc Tấn công Tết

Điều này đã chứng tỏ là một sai lầm, khi vào ngày 31 tháng 1 năm 1968—một ngày được kỷ niệm là Tết Nguyên Đán—khoảng 70.000 lực lượng Bắc Việt Nam và Việt Cộng đã phát động một loạt các cuộc tấn công dữ dội vào hơn 100 thành phố và thị trấn ở Nam Việt Nam.

Được gọi là Cuộc Tấn công Tết, hoạt động xâm lược này nhằm phá vỡ các lực lượng Quân đội Việt Nam Cộng hòa (ARVN), kích thích nổi dậy trong dân chúng Nam Việt Nam chống lại chính quyền Sài Gòn và tạo ra một khe hở giữa Nam Việt Nam và đồng minh mạnh mẽ của mình, Hoa Kỳ.

Đột nhiên, cuộc chiến dài và tàn khốc ở Khe Sanh bắt đầu trông giống như một chiến thuật phân tán nhằm làm cạn kiệt nguồn lực của Mỹ và Nam Việt Nam trước khi Cuộc Tấn công Tết xảy ra.


Tác động của Khe Sanh

Các báo cáo tin tức về Trận Khe Sanh liên tục gọi cuộc chiến này là một Điện Biên Phủ khác, nhưng thực tế là quân đội Mỹ và Nam Việt Nam có một vị trí mạnh mẽ hơn nhiều so với quân Pháp.

Ngoài một đội máy bay trực thăng và máy bay vận tải có thể tiếp tế và tăng cường cho các lính Thủy quân lục chiến bị vây hãm, họ có thể dựa vào khả năng ném bom nặng nề của các máy bay B-52, đã thả gần 100.000 quả bom vào các đồi xung quanh Khe Sanh trong suốt trận chiến.

Mặc dù các quan chức Mỹ mong đợi một cuộc tấn công quy mô lớn của các lực lượng Bắc Việt Nam vào căn cứ, điều đó không xảy ra, và vào tháng 3, Westmoreland đã ra lệnh thực hiện Operation Pegasus, một cuộc tấn công mặt đất chung của quân đội, Thủy quân lục chiến và ARVN, đã giải cứu căn cứ và chấm dứt cuộc vây hãm vào giữa tháng 4, sau khoảng 77 ngày.


Các nhà phê bình chỉ trích nỗ lực chiến tranh của Mỹ

Đối mặt với chỉ trích rằng ông đã trở thành nạn nhân của chiến thuật phân tán của Bắc Việt Nam, Westmoreland đã bảo vệ quyết định của mình trong việc bảo vệ Khe Sanh, và tuyên bố trận chiến là một chiến thắng vì nó đã ngăn chặn kẻ thù kiểm soát góc tây bắc của Nam Việt Nam và gây thiệt hại nặng nề cho các lực lượng PAVN.

Khi cảm giác phản chiến gia tăng ở quê nhà sau Cuộc Tấn công Tết, chính quyền Johnson mất niềm tin vào chiến lược tiêu hao của tướng Westmoreland và các tuyên bố về tiến triển trong nỗ lực chiến tranh.

Vào ngày 31 tháng 3, Johnson công bố ông sẽ ngừng hầu hết các cuộc tấn công ném bom ở Bắc Việt Nam và mở các cuộc đàm phán hòa bình; ông cũng rút lại sự ứng cử của mình cho việc tái cử.

Tướng Creighton W. Abrams đã thay thế Westmoreland làm người đứng đầu MACV vào tháng 6 năm 1968, và vào ngày 5 tháng 7, ông đã đóng cửa căn cứ Thủy quân lục chiến Mỹ tại Khe Sanh.
 
Cộng sản từ chối đề xuất hòa bình của Nixon (1970)

Phái đoàn cộng sản tại Paris từ chối đề xuất ngày 7 tháng 10 của Tổng thống Richard Nixon, cho rằng đó là “một chiêu trò nhằm lừa dối dư luận thế giới.”

Nixon đã công bố một kế hoạch năm điểm để kết thúc chiến tranh, dựa trên một lệnh ngừng bắn “đứng yên” ở Nam Việt Nam, Lào và Campuchia. Ông đề xuất việc rút quân Mỹ, trả tự do vô điều kiện cho các tù binh chiến tranh, và các giải pháp chính trị phản ánh nguyện vọng của nhân dân Nam Việt Nam.

Thượng viện Mỹ đã thông qua một nghị quyết bày tỏ sự ủng hộ đối với sáng kiến của Tổng thống Nixon, gọi các đề xuất là “công bằng và hợp lý,” và có hy vọng rằng các nhà cộng sản sẽ đáp ứng tương ứng. Tuy nhiên, các nhà đàm phán Bắc Việt Nam và Việt Cộng từ chối ngay cả việc xem xét đề xuất của Nixon, nhắc lại yêu cầu trước đó và lâu dài của họ về việc rút quân Mỹ hoàn toàn và vô điều kiện khỏi Đông Dương và lật đổ các lãnh đạo “bù nhìn” ở Sài Gòn.

Các quan chức Mỹ công khai kêu gọi Liên Xô sử dụng “ảnh hưởng đáng kể” của mình với các cộng sản để thuyết phục họ chấp nhận các đề xuất mới của Tổng thống Nixon, nhưng Bắc Việt Nam vẫn giữ vững lập trường của mình.
 
Hồ Chí Minh phản hồi thư của Nixon (1969)

Thư trả lời của Hồ Chí Minh đối với đề xuất của Tổng thống Nixon vào ngày 15 tháng 7 được nhận tại Paris. Hồ Chí Minh đã cáo buộc Hoa Kỳ thực hiện một “cuộc chiến xâm lược” chống lại nhân dân Việt Nam, “vi phạm quyền lợi quốc gia cơ bản của chúng tôi” và cảnh báo rằng “cuộc chiến kéo dài càng lâu, càng tích tụ thêm sự đau thương và gánh nặng cho nhân dân Mỹ.” Hồ Chí Minh cho biết ông ủng hộ kế hoạch 10 điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng như “một cơ sở hợp lý và hợp tình cho việc giải quyết vấn đề Việt Nam.” Ông yêu cầu Hoa Kỳ “chấm dứt cuộc chiến xâm lược,” rút quân khỏi Việt Nam và cho phép quyền tự quyết cho nhân dân Việt Nam.

Tổng thống Nixon không tiết lộ rằng ông đã nhận được thông tin này cho đến bài phát biểu trước quốc gia vào ngày 3 tháng 11.


Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời và là biểu tượng cộng sản (1969)

Chủ tịch Hồ Chí Minh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa qua đời vì cơn đau tim tại Hà Nội. Các quan chức Bắc Việt Nam thông báo về cái chết của ông vào ngày hôm sau.

Hồ Chí Minh đã là trái tim và linh hồn của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam kể từ những ngày đầu của phong trào. Sinh năm 1890, ông là con trai của một quan chức chính phủ Việt Nam đã từ chức để phản đối sự thống trị của Pháp ở quê hương ông.

Ông được giáo dục tại Huế và khi còn trẻ đã làm đầu bếp trên một con tàu hơi nước của Pháp, đi du lịch đến Hoa Kỳ, châu Phi, và sau đó là châu Âu, nơi ông làm việc ở London và Paris. Vào năm 1920, sau khi chấp nhận chủ nghĩa Marx-Lenin vì quan điểm chống thuộc địa của nó, ông đã đổi tên thành Nguyễn Ái Quốc (“Nguyễn Người Yêu Nước”) và giúp thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Ông đã đến Moscow vào năm 1923 để học tập và huấn luyện.

Vào năm 1924, ông đến Quảng Châu, Trung Quốc, để gặp Phan Bội Châu, một trong những nhà dân tộc chủ nghĩa hàng đầu của thời kỳ đó. Trong thời gian ở Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã đóng vai trò chủ chốt trong việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào năm 1929.

Hồ Chí Minh đã dành phần lớn 10 năm tiếp theo để viết và tổ chức, tất cả đều ở ngoài Việt Nam. Khi Nhật Bản xâm lược Việt Nam vào đầu Thế chiến II, ông đã đổi tên thành Hồ Chí Minh (“Hồ, Người Mang Ánh Sáng”) và di chuyển nhóm cách mạng của mình đến các hang động ở Pac Bo, miền Bắc Việt Nam.

Tại đây, vào tháng 5 năm 1941, ông đã tổ chức Việt Minh, một tổ chức dân tộc chủ nghĩa và cộng sản được thành lập để động viên nhân dân.

Trong cuộc chiến, Hồ Chí Minh và Việt Minh đã gia nhập một liên minh lỏng lẻo với Văn phòng Dịch vụ Chiến lược Mỹ (OSS), giúp giải cứu các phi công Mỹ bị rơi. Vào năm 1945, khi Nhật Bản đầu hàng, Việt Minh đã nắm quyền và tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Tuy nhiên, người Pháp, muốn tái lập chế độ thuộc địa, đã từ chối trao quyền độc lập cho Việt Nam.

Vào cuối năm 1946, chiến tranh bùng nổ giữa Việt Minh và người Pháp. Cuộc chiến kéo dài suốt tám năm đẫm máu, kết thúc cuối cùng với việc Việt Minh đánh bại người Pháp tại trận Điện Biên Phủ vào năm 1954. Các Hiệp định Geneva sau đó đã chia Việt Nam thành hai quốc gia. Hồ Chí Minh đã dành nỗ lực của mình để xây dựng một xã hội cộng sản ở miền Bắc Việt Nam. Vào đầu những năm 1960, một cuộc chiến mới bùng nổ ở miền Nam, nơi các du kích cộng sản lãnh đạo đã phát động cuộc nổi dậy chống lại chế độ được Mỹ hỗ trợ ở Sài Gòn. Khi Hoa Kỳ can thiệp quân sự, Hồ Chí Minh đã chỉ huy lực lượng của mình trong một cuộc chiến dài hơi chống lại người Mỹ.

Trong thời gian này, Hồ Chí Minh tiếp tục cung cấp sự lãnh đạo đầy cảm hứng cho nhân dân của mình, nhưng khi sức khỏe của ông xấu đi, ông ngày càng đóng vai trò nghi lễ nhiều hơn khi chính sách được hình thành bởi những người khác. Tuy nhiên, ông vẫn là hiện thân của cuộc cách mạng và vẫn là biểu tượng ******** sau cái chết của ông vào năm 1969.


Hồ Chí Minh được an táng tại Hà Nội (1969)

Lễ tang của Hồ Chí Minh, với sự tham dự của 250.000 người, được tổ chức tại Quảng trường Ba Đình ở Hà Nội. Trong số những người tham dự có Thủ tướng Liên Xô Aleksei Kosygin, Phó Thủ tướng Trung Quốc Li Hsien-nien và Hoàng thân Norodom Sihanouk của Campuchia. Hồ Chí Minh đã thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào năm 1929. Vào tháng 9 năm 1945, khi người Nhật thất bại và chuẩn bị rời khỏi Việt Nam, Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập cho Việt Nam khỏi ách thống trị của thực dân Pháp và công bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người Pháp, cố gắng tái lập quyền cai trị thuộc địa, đã sớm xảy ra xung đột với Hồ Chí Minh và lực lượng Việt Minh của ông.

Sau một cuộc chiến đẫm máu kéo dài chín năm, người Pháp cuối cùng bị đánh bật khỏi đất nước sau khi họ chịu một thất bại nhục nhã trước Việt Minh tại trận Điện Biên Phủ vào tháng 5 năm 1954. Các Hiệp định Geneva sau đó chia Việt Nam thành hai quốc gia. Hồ Chí Minh đã dẫn dắt cuộc chiến để thống nhất Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Khi Hoa Kỳ can thiệp quân sự, Hồ Chí Minh đã chỉ huy lực lượng của mình trong một cuộc chiến kéo dài chống lại người Mỹ và chế độ Sài Gòn.

Ông đã phục vụ như là lãnh đạo tinh thần của nhân dân miền Bắc Việt Nam, khuyến khích họ tiếp tục cuộc đấu tranh cho đến khi người Mỹ bị đánh bại và Việt Nam được thống nhất thành một quốc gia. Cái chết của ông đã dẫn đến một sự tràn ngập cảm xúc to lớn và những người kế nhiệm của ông đã sử dụng cuộc đời và những bài học của "Bác Hồ" để động viên nhân dân tiếp tục cuộc chiến. Ngày nay, ông được an táng ở trung tâm Hà Nội trong một lăng mộ công cộng thu hút hàng nghìn du khách mỗi năm.
 
Top