• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Cây cao su ở Việt Nam dưới góc nhìn lịch sử – sinh thái (1897 – 1975)

newboi

Đàn iem Duy Mạnh
Hà Khuê 5/10/2023
Cây cao su ở Việt Nam dưới góc nhìn Lịch sử – Sinh thái (1897 – 1975) của tác giả Michitake Aso có cách tiếp cận khác với những công trình, sách nghiên cứu viết về cây cao su tại Việt Nam trước đây. Trong cuốn sách này, tác giả đã xem xét cây cao su ở Việt Nam dưới góc nhìn Lịch sử gắn liền với Sinh thái học. Cây cao su với tư cách là một giống thực vật ngoại lai, khi được di nhập và trồng thành công ở Việt Nam, cây cao su đã tạo ra những biến đổi sâu sắc về môi trường tự nhiên, đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, tác động sâu sắc đến đời sống và phong trào đấu tranh của công nhân các đồn điền cao su ở nước ta. Cao su Việt Nam lược đăng những nội dung đặc sắc của tác phẩm.
z4686217438164_596d2978cdc81ee0a0a47bd61bc53141-767x1024-1.jpg

Kỳ 1: Những con đường khai hóa

Đường sá – Yếu tố quan trọng hình thành những đồn điền cao su vào đầu thế kỷ XX​

Từ giữa thế kỷ XIX, cao su đã được gắn với những biểu tượng mạnh mẽ nhất về các phương tiện di chuyển hiện đại: giày, xe đạp, xe hơi và máy bay. Theo kiểu quan hệ tương hỗ, sự gia tăng số lượng các phương thức vận chuyển này đã thúc đẩy sự gia tăng liên tục nhu cầu của thị trường thế giới đối với cao su tự nhiện và cao su tổng hợp. Ở cấp độ địa phương, việc thành lập các đồn điền cao su vừa phụ thuộc vừa khuyến khích sự phát triển mạng lưới giao thông và kết nối liên lạc miền Đông Nam kỳ với thế thời bên ngoài.

Các chủ đồn điền đã thúc đẩy những phương thức vận chuyển nhất định trong khi hạn chế những phương thức khác trong khuôn khổ đế quốc rộng lớn. Các nhóm xã hội khác nhau đã sử dụng những hình thức lưu động và bất biến khác nhau để làm lợi cho mình; các đồn điền đã cố gắng điều chỉnh dòng chuyển động và bất biến để kiếm lời; các quan chức thuộc địa nỗ lực quản lý dòng người luân chuyển trong phạm vi Đông Dương để cai trị tốt hơn và cho dù chỉ có chút ít quyền trong hệ thống, nhưng công nhân Việt Nam đã tận dụng những cơ hội trao cho mình, tránh những hậu quả tồi tệ nhất từ những khuôn mẫu mới của dòng lưu biến và bất biến.

Các tuyến đường bộ, đường thủy sẵn sàng cho việc vận chuyển hàng hóa và con người là những yếu tố quan trọng để hình thành nên những đồn điền cao su vào đầu thế kỷ XX. Nhà sử học David del Testa lập luận: “Ban đầu người Pháp không cải thiện giao thông, thay vào đó, họ dựa vào những tuyến đường bộ và đường sông đã có từ trước”.
Trước năm 1880, những quan chức Nam Kỳ luôn tìm cách gia tăng sự lưu chuyển của hàng hóa, các ý tưởng, con người ở thuộc địa. Vì nơi đây được xem là vùng hay xảy ra nạn trộm cướp nên vấn đề an ninh chính là trở ngại lớn nhất cho sự phát triển một nền kinh tế xuất khẩu. Để ngăn chặn tình trạng cướp bóc, chính quyền thuộc địa bắt đầu mở rộng mạng điện tín – một phương cách liên lạc chủ yếu kết nối Sài Gòn và các tỉnh lị.
126403993_10215811180186421_9063513434608075904_n.jpg

người Pháp giám sát kỹ thuật khai thác cao su
126881575_10215811180426427_3304460104523342036_n.jpg

Những quan chức thuộc địa khuyến khích các nỗ lực điều chỉnh nền giáo dục và kỹ thuật nông nghiệp để phục vụ cho ngành công nghiệp sản xuất mủ – một mục tiêu đáp ứng cả hai phương diện lý thuyết và thực tiễn. Song thực tế dường như hoàn toàn trái ngược với mong muốn cải thiện điều kiện ở vùng nông thôn thuộc hệ thống các đồn điền cao su do người châu Âu sở hữu, những đồn điền này là hiện thân của những mặt trái tồi tệ nhất của chủ nghĩa tư bản.

Cây cao su có tiềm năng đối với sản xuất quy mô nhỏ​

Tuy nhiên, các đồn điền chỉ tiêu biểu cho một cách thức để sản xuất cao su và tiêu biểu cho việc du nhập cách thức phù hợp để lấy nhựa mủ cây cao su. Trên thực tế, điều này lại gây ra nỗi lo lắng, khó chịu. Nó thuộc phạm vi những chương trình nhằm cải thiện điều kiện ở bản địa giống như các quan chức thuộc địa mường tượng những cách thức mà cây cao su có thể cải thiện cuộc sống của người nông dân Việt Nam. Hơn nữa, những kế hoạch 5 năm do chính quyền thuộc địa đề ra vào cuối thập niên 1930 đã làm tăng khả năng và sự khát khao khuyến khích sản xuất giày, lốp xe và khuyến khích phát triển những ngành công nghiệp khác dựa trên các sản phẩm từ cao su.


Cây cao su có tiềm năng đối với sản xuất quy mô nhỏ bởi vì nó đủ nhỏ và đủ rẻ để những nông dân có thể mua và tiêu thụ. Nhưng trong suốt thời kỳ thuộc địa, cao su chỉ được trồng giới hạn ở đồn điền và được xem giống như ngành kỹ nghệ thuộc địa điển hình “quy mô lớn” tương tự ngành đường sắt. Trái ngược với lúa gạo, kỹ thuật trồng cao su không được những tiểu chủ người Việt tích cực áp dụng, và cũng không phải chủ đề được trao đổi nhiều giữa những người nông dân và các nhà nghiên cứu. Yếu tố kinh tế – chính trị của hệ thống kiến thức về cao su đóng vai trò mấu chốt trong việc kìm hãm sự hấp thụ tri thức về sản xuất cao su của những tiểu chủ không phải là người Pháp và cản trở những biện pháp cải tiến của các quan chức thuộc địa cũng như giới trí thức người Việt. Vào thời kỳ đất nước bị chia cắt thành những vùng khác nhau và sự phân chia giai cấp diễn ra mạnh mẽ trong xã hội Việt Nam, sự du nhập của kỹ thuật sản xuất nhựa mủ mới chỉ làm cho sự phân chia này càng thêm sâu rộng.

Những quảng cáo tìm người làm cho thấy những công việc ở đồn điền đòi hỏi sự lành nghề tương đối hấp dẫn đối với các sinh viên tốt nghiệp từ hệ thống trường ở Đông Dương. Nhưng đến cuối thập niên 1930, rõ ràng nỗ lực khuyến khích sản xuất mủ quy mô nhỏ của các chủ sở hữu người Việt đã thất bại. Mặc dù một số người Việt trồng cao su chiếm hơn 50% số cơ sở trồng cao su thuộc sở hữu của người bản xứ vào năm 1937 – nhưng những cơ sở này của họ chỉ chiếm chưa đến 10% tổng diện tích đất canh tác.

Để đối phó với những khó khăn khi thành lập các cơ sở trồng cao su quy mô nhỏ, một số người Việt đã đề nghị thử trồng những loại cây khác. Một bài báo năm 1935 trên tạp chí Saigon, nhắc lại một thông điệp đã xuất hiện từ một năm rưỡi trước đó, kêu gọi tăng sản lượng ngô, hạt điều và đậu nành để bù đắp sự phụ thuộc quá mức vào cao su và gạo. Do người dân Bà Rịa, Biên Hòa đầu tư quá nhiều vào cao su, đến khi giá cao su rơi vào khủng hoảng trong thập niên 1930 khiến nhiều người phá sản và các vườn cao su thì bị bỏ hoang. Nhiều giải pháp khác nhau đã được xem xét và bị loại bỏ, bao gồm cả việc tăng sản lượng lúa – một giải pháp không thực tế đối với đất rừng và núi; tăng sản lượng cây ăn quả vốn phát triển tốt trong vùng nhưng không thể xuất khẩu để thu về tiền mặt; và tăng diện tích những cánh đồng muối – giải pháp này cũng không đem lại sự giàu có.

Năm 1937, cuộc điều tra của Ủy ban Guernut và những báo cáo khác về cao su bày tỏ nỗi lo lắng của chính quyền về sự thiếu vắng những người sở hữu nhỏ – tình trạng chỉ trở nên tồi tệ hơn trong thập niên 1930. Những lô đất nhỏ nhất ở tỉnh Thủ Dầu Một – chiếm khoảng một phần ba diện tích đất trồng cao su hevea ở Đông Dương – rộng chưa tới 5 ha, và cao su sinh trưởng trên những mảnh đất đó đã giúp tăng thêm nguồn thu nhập của gia đình trong tổng số huê lợi từ những loại cây trồng khác nhau.

Những chủ đồn điền nhỏ này sống khá gần các vùng đô thị, vì họ không có những nguồn lực để khai phá trên diện rộng. Họ hầu như chỉ sử dụng những con đường đã được xây dựng từ trước để đi tới các chợ, sinh sống ở gần các cơ sở y tế ở đô thị, và không phải đối phó với sự bùng nổ của bệnh sốt rét – căn bệnh thường xảy ra ở những vùng đất được phát quang nằm trong những khu vực cách xa các thị trấn làng mạc đã được thành lập từ lâu. Tổng chi phí đầu tư khá thấp, bao gồm cây cối – mua từ những người buôn bán ở địa phương, một con dao rạch mủ, một thùng chứa và công sức lao động của họ và vấn đề chủng tộc và giai cấp rõ ràng đã tác động đến sự lan rộng của các kỹ thuật trồng cao su.

Cao su là một ngành kinh doanh sinh lợi​

Nhiều người có địa vị ở địa phương và những người Việt giàu có sinh sống ở các trung tâm dân cư cũng sở hữu những đồn điền nhỏ. Khi thuê một viên cai (caporal) người Việt và vài công nhân thì những hoạt động này trở nên rõ ràng hơn và việc sở hữu của họ thường được thống kê trong các bản Annuaire (Niên giám) – một báo cáo về hoạt động sản xuất mủ ở Đông Dương. Chẳng hạn như một điền chủ 46 tuổi sống ở Bến Cát cùng vợ, sáu đứa con, một con rể, hai cháu trai, một tài xế và ba người hầu. Tổng thu nhập ông kiếm được là 75.400 đồng Đông Dương, trong đó có 72.000 đồng từ cao su, 1.000 đồng từ việc cho thuê ruộng lúa và 2.400 đồng từ việc cho thuê phòng. Trong số nhiều chi phí phát sinh từ đồn điền rộng 500 ha của ông thì 24.000 đồng Đông Dương được chi cho việc thuê mướn khoảng 150 “cu li”. Ở tỉnh Thủ Dầu Một, diện tích đất đai trồng cao su của những điền chủ nhỏ này và lợi tức mà họ thu được chiếm khoảng 1/5 tổng diện tích và lợi tức của các điền chủ bản xứ…

Sự tham gia của người Việt vào hoạt động sản xuất mủ diễn ra trong bối cảnh gia tăng các sáng kiến kinh tế và chính trị của người bản xứ cùng với việc nảy sinh ý thức về chủ nghĩa quốc gia về kinh tế trong một bộ phận thuộc giới tinh hoa người Việt. Đối với một số người Nam Kỳ giàu có, cao su là một ngành kinh doanh sinh lợi. Trương Văn Bền, sinh ra trong cảnh nghèo khó nhưng đã trở thành một chủ hãng buôn giàu có và là thành viên của Hội đồng Quản hạt nhờ tham gia sản xuất cao su. Bền làm chủ nhiều cơ sở công nghiệp, bao gồm những nhà máy xay gạo và Hãng Dầu và Xà phòng Việt Nam. Hoạt động của nhà máy này phụ thuộc vào việc ép các nguyên liệu từ thực vật, và trong thập niên 1930, các kỹ sư nông nghiệp đã khám phá ra rằng hạt cao su hevea là một nguồn cung cấp dầu cho các mục đích công nghiệp. Ngay cả người Việt thuộc tầng lớp trung lưu cũng thường tin tưởng vào cây cao su hevea.

Hồ Văn Lang, sinh ra ở Sa Đéc, Nam Kỳ, là thư ký của Hiệp hội Chủ Đồn điền Cao su Đông Dương, đến năm 1926, ông ta đã kiếm đủ tiền thông qua hoạt động sáng tác và xuất bản để mua được 40 ha đất trồng cao su. Các chủ đồn điền người Việt tương đối khá giả và vị thế kinh tế cũng ảnh hưởng đến lập trường chính trị của họ. Những quan điểm chính trị này có thể kể đến xu hướng bảo thủ của Nguyễn Văn Của – được biết tới là chủ nhà in chính thức cho chính quyền và là người ủng hộ chính quyền thuộc địa – cho đến quan điểm chính trị độc lập, tiến bộ hơn của Trương Văn Bền.
126244609_10215806018177374_7986281824853405510_n.jpg

Thảo luật sôi nổi về kỹ thuật cao su
Sự tập trung hoạt động sản xuất trong tay một vài người Việt Nam giàu có đã đi ngược lại mong muốn của một số quan chức Pháp và giới thượng lưu người Việt vốn mong muốn phổ biến hoạt động sản xuất cao su trong những người sở hữu nhỏ. Điều này một phần là bởi thế lực của Hiệp hội Những Người trồng Cao su Nam Kỳ – tổ chức mà thông qua đó, các điền chủ đã vận động hành lang một cách có hiệu quả để có được những khoản vay từ Chính phủ trong cuộc khủng hoảng cao su vào năm 1930. Hiệp hội đã giúp những người trồng cao su được hưởng lợi thế từ những cải tiến về kỹ thuật như cây ghép, những dòng vô tính và vốn để áp dụng những tiến bộ này.

Tích cực tìm giải pháp khắc phục khó khăn​

Đối với những chủ đồn điền người Việt nghèo hơn, những cải tiến kỹ thuật liên quan đến việc ghép cây khó có thể áp dụng được. Tuy những tiến bộ như vậy không giúp bảo vệ các đồn điền lớn trước sự biến động của giá cao su trên thị trường thế giới, nhưng chúng đã giúp giảm bớt những tác động trong thời kỳ bất ổn kinh tế.

Đối với các quan chức thuộc địa ở Đông Dương, những vấn đề cần giải quyết bao gồm việc sắp xếp lại số dân dôi dư ở Đồng bằng sông Hồng, mở rộng việc khai thác những vùng đất cao còn thưa dân và cải tiến các kỹ thuật canh tác nông nghiệp truyền thống. Vấn đề đầu tiên dễ giải quyết với các đồn điền hơn là với những cơ sở trồng cao su quy mô nhỏ và các quan chức khuyến khích những giải pháp có ích hơn đối với đồn điền.
Do đó, sự hạn chế đối với đất đai thuộc sở hữu nhỏ đã hiện hữu trong thói quen của các nhà hoạch định, những người mà nhà nhân chủng học Tania Li bình luận rằng đã “chuyển ý chí để cải tiến vào trong những chương trình rõ ràng”.

Ở Đông Dương, các quan chức kết hợp sử dụng khoa học về đất đai, khí hậu, nhân khẩu học và kết hợp giữa khoa học tự nhiên với khoa học xã hội để giúp xác định những phương thức kỹ thuật nhằm giải quyết những vấn đề như dịch bệnh, tình trạng nông nghiệp lạc hậu, và đói nghèo. Những giải pháp này có giá trị hơn và có lợi hơn đối với những người trồng cao su quy mô lớn – những người có mối liên kết với các mạng lưới của thuộc địa, bao gồm cả những người Việt giàu có nói tiếng Pháp. Các quan chức đã thất bại trong mục tiêu cải thiện tình hình bản xứ, một phần bởi vì “giới hạn và đặc tính của “một lĩnh vực chỉ có thể nhận thức được bằng trí óc” thích hợp với kiểu can thiệp có thể lường trước – kiểu can thiệp mà các chuyên gia phải đưa ra”.

Thay đổi hệ sinh thái cũng đóng một vai trò quan trọng trong thành công của những đồn điền có quy mô lớn. Không giống như tộc người Dayaks sống tên đảo Borneo, những người sẵn sàng chấp nhận cây cao su, người Việt Nam không tiến tới những mô hình thời kỳ tiền thuộc địa trong việc buôn bán các loại lâm sản như nhựa cây gutta – Percha. Mặc dù có một số người sản xuất nhỏ duy trì sự quan tâm nhưng đối với hầu hết người Việt Nam, sản xuất mủ cao su chưa bao giờ trở thành kỹ thuật nông nghiệp thông dụng.
 
Sửa lần cuối:

Tranh luận về kỹ thuật ngành cao su​

Cuối cùng, những kỹ thuật của ngành cao su cũng đóng một vai trò trong các cuộc thảo luận căng thẳng vào cuối những năm 1930 về vấn đề Đông Dương có nên được công nghiệp hóa hay không. Kỹ thuật viên nông nghiệp Vũ Đình Đại cho rằng, công nghiệp hóa nông nghiệp thông qua các doanh nghiệp tư nhân nên được ưu tiên. Ông Đại tuyên bố rằng: “Trong khi một số người Việt Nam được đào tạo ở Pháp để trở thành kỹ sư nông nghiệp thì chỉ vài người trong số đó trở về nước; và họ thường làm việc cho chính quyền, hầu như không có kỹ sư nào làm việc cho các doanh nghiệp tư nhân”. Tuy nhiên, một số quan chức thuộc địa cảnh báo về mối đe dọa nghiêm trọng đối với nước Pháp xuất phát từ việc chuyển giao ngành công nghiệp chế biến cao su từ châu Âu và Hoa Kỳ sang các thuộc địa “dưới chiêu bài” công nghiệp hóa thuộc địa.

Một quan chức tán thành việc thiết lập một trật tự chính trị mới ở châu Á để đối phó với những thay đổi này. Năm 1939, kỹ sư hóa học Lâm Văn Vãng đã chỉ ra những khó khăn đối với hoạt động chế biến cao su do thiếu nguồn nhân lực được đào tạo. Ông ủng hộ việc đào tạo nhân sự trong thời gian đầu thông qua chương trình thực tập nội trú ở nước ngoài, sau đó những người đã được đào tạo có thể trở về và xây dựng nên các ngành công nghiệp ở nước nhà. Vì ảnh hưởng của Thế chiến lần thứ II và hệ thống thuộc địa, ngay cả những dự án đơn giản như thay thế lốp xe làm từ kim loại và gỗ bằng lốp cao su ở vùng nông thôn của Việt Nam và Campuchia cũng đạt được rất ít tiến triển. Những thất bại đó dẫn đến việc nhiều người Việt là kỹ thuật viên nông nghiệp tham gia các phong trào yêu nước, rồi sau đó đem kiến thức khoa học và công nghệ mà họ thu nhận được để đóng góp cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Một sự pha trộn giữa sự thôi thúc của những người theo chủ nghĩa nhân đạo, mong muốn cai trị và lòng tham đã thúc đẩy các quan chức thực hiện những chính sách đầy mưu mẹo nhằm khuyến khích tăng sản lượng nông nghiệp. Một cách tiếp cận “khoa học” đối với vấn đề cao su mang ý nghĩa làm lợi cho bất động sản ruộng đất (có nghĩa là những đồn điền lớn) thay vì những người sở hữu nhỏ. Trong quá trình này, sản xuất cao su đã trở thành một kỹ thuật thông thường đối với một số người tham gia vào ngành sản xuất này. Đối với những người quản lý đồn điền, sản xuất cao su đã trở thành công việc thường ngày khi mà những nhiệm vụ của họ đã có thể dự đoán trước được.

Đối với công nhân, cả người Âu và người Việt, kỹ thuật đó được biểu hiện trong mối quan hệ vật chất với các tư liệu sản xuất khi họ phải chịu đựng sự trừng phạt và bạo lực áp đặt bởi quá trình sản xuất cao su để cung cấp cho thị trường hàng hóa toàn cầu. Do đó, những công nhân cạo mủ người Việt thường hiểu về kỹ thuật thông thường liên quan đến cao su một cách bi quan hơn so với những người quản lý hoặc những đồng nghiệp người châu Âu. Đối với các quan chức thuộc địa, cây cao su là một giải pháp tiêu biểu cho vấn đề “dân cư đông đúc” ở vùng Đồng bằng sông Hồng và họ mong muốn biến cao su thành một thứ cố định quen thuộc, phổ biến trong cuộc sống của những người nông dân, người cạo mủ, những người sở hữu ít ruộng đất hay các chủ xưởng”.

Quá trình trồng cao su ở các đồn điền Đông Nam Kỳ và Campuchia đã cung cấp một thấu kính để qua đó có thể tìm hiểu hoạt động nghiên cứu được định hướng và chịu ảnh hưởng như thế nào bởi sự thay đổi về kinh tế – chính trị của quá trình thuộc địa hóa do người Pháp tiến hành; cái gì được lựa chọn để thích hợp cho nghiên cứu; các dự án khoa học nông nghiệp được xác định, xây dựng, và được cung cấp kinh phí như thế nào. Từ thế kỷ XX cho đến trước Thế chiến lần thứ II, công nghiệp hóa nông nghiệp đóng vai trò mẫu chốt trong việc tạo ra tri thức, các quan điểm chính trị và chủ nghĩa tư bản.

Chính quyền thuộc địa, các doanh nghiệp tư nhân và các chuyên gia của đế quốc đã tác động qua lại lẫn nhau để tạo ra các tổ chức và những kiến thức trong lĩnh vực này. Nhiều quan chức chính quyền tích cực thúc đẩy sự phát triển của cây cao su, nhưng cũng như các dự án khác ở thuộc địa, họ thường thiếu những phương tiện để hoàn thành chúng. Trong khi đó, cá nhân những người trồng thông qua việc tiếp cận với các viện nghiên cứu của nhà nước đã tài trợ cho nghiên cứu khoa học trong giai đoạn đầu của ngành công nghiệp cao su. Rồi sau đó, các công ty cổ phần đã lợi dụng những nền tảng vốn có để nắm quyền kiểm soát cả tri thức và tư liệu sản xuất cao su. Như chương tiếp theo chứng minh, việc phá rừng và đưa những người “thiếu kinh nghiệm” vào sản xuất cao su tại các vùng mới đã dẫn tới sự bùng nổ của tỷ lệ người mắc bệnh sốt rét

Đồng Nai là một trong những tỉnh rộng nhất nước và có thổ nhưỡng phù hợp để trồng những cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày trên diện rộng, bao gồm những cây có giá trị chiến lược của nền nông nghiệp nhiệt đới (Tổng Bí thư Lê Duẩn, 1977)
anh-lich-su.png

Cao su tự nhiên và cao su tổng hợp
năm 2001 tướng Trần Tử Bình (1907 – 1967) nổi tiếng vì vai trò của mình trong phong trào công nhân cao su ở đồn điền Phú Riềng năm 1930, được truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh vì sự phục vụ của ông cho dân tộc. Sáu năm sau, vào năm 2007, Nhà xuất bản Lao động tái bản quyển hồi ký nổi tiếng của tướng Trần Tử Bình – Phú Riềng Đỏ, cuốn sách được chuyển ngữ sang tiếng Anh với tựa đề The Red Earth. Việc vinh danh tướng Trần Tử Bình đại diện cho cách thức mà những trải nghiệm về đồn điền cao su thời thuộc địa còn lưu giữ trong ký ức của người Việt. Đó là ký ức về nỗi thống khổ mà công nhân cao su phải chịu đựng dưới ách thống trị của người Pháp, ca ngợi cuộc đấu tranh oai hùng của Đảng ******** khi tổ chức các cuộc nổi dậy của công nhân – vốn trực tiếp đưa đến sự trỗi dậy của Việt Nam như một quốc gia xã hội chủ nghĩa, độc lập vào mùa thu năm 1945.

Những năm 2000, Việt Nam trải qua hơn một thập kỷ thực hiện chính sách đổi mới. Các đồn điền cao su nhường bước cho những khu công nghiệp dành cho các công ty đa quốc gia như Fujitsu hay Nike. Tuy vậy, khi các đồn điền cao su nhường bước cho những khu công nghiệp ký ức về đồn điền cao su và những năm tháng thuộc địa vẫn còn đó. Thời điểm sau năm 1975, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã từng nhấn mạnh tầm quan trọng mang tính quốc gia của các cây công nghiệp, trong đó có cao su.
Trong điều kiện khó khăn sau năm 1975, chuyên môn của những nhân công hoạt động dưới thời Pháp và Mỹ bị phí phạm… Như những cựu công nhân ngành cao su đã chỉ ra, nhiều kỹ thuật chăm sóc cây trồng chỉ có thể học được thông qua quan sát và thực hành. Thiếu công nhân có tay nghề, nền công nghiệp này gần như phải gầy dựng lại từ đầu.

Vào thập niên 1980, một loạt sách lịch sử phác họa sự đóng góp anh hùng của công nhân cao su cho phong trào đấu tranh bắt đầu xuất hiện… Sau khi cuộc chiến tranh chống Mỹ kết thúc, ông Lê Sắc Nghi trở thành TGĐ Công ty Cao su Đồng Nai, ông Đặng Văn Vinh làm giám đốc, ông Nguyễn Hữu Chất làm Phó Giám đốc Viện Nghiên cứu Cao su Việt Nam.… Sau năm 1975, ông Đặng Văn Vinh có vai trò quan trọng trong các mối quan hệ quốc tế, và dưới sự lãnh đạo của ông, Viện Nghiên cứu Cao su Việt Nam giúp tái lập quan hệ hợp tác với các quốc gia Đông Nam Á khác có ngành cao su đang phát triển.

Năm 1980, ông Chất viết thư thuyết phục Nhà nước để Viện Nghiên cứu Cao su Việt Nam đóng góp 10.000 USD cho Tổ chức Nghiên cứu và Phát triển Cao su Quốc tế vào thời điểm trao đổi ngoại tệ hiếm khi được chấp thuận. Mặc dù ngành công nghiệp cao su từng bị thực dân chiếm đoạt, nhưng khi bước sang thế kỷ 21, ngành công nghiệp này đã dần hồi phục sau thời kỳ đình trệ sau năm 1975 để trở thành một lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế ở miền Nam Việt Nam nhờ những đổi mới sau năm 1975. Câu chuyện về thành công của đồn điền cao su gần đây nhấn mạnh vào việc cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn nhờ có giai cấp công nhân dẫn dắt cũng như nhờ có vai trò của Đảng trong việc quản lý khéo léo ngành công nghiệp này.

Những năm đầu thế kỷ 21, sự hiện diện của người Pháp đã được đánh giá khách quan hơn đôi chút. Ví dụ như nhà lịch sử kinh tế Đặng Phong lý luận rằng các ngành khoa học, cả tự nhiên lẫn xã hội, đều là những lĩnh vực người Pháp đôi khi thể hiện “tinh thần khách quan” và “tính nhân bản”. Ông cũng bàn luận về hạn chế đều là những lĩnh vực mà người Pháp đôi khi thể hiện “tinh thần các dự án hướng đến việc gia tăng sức ảnh hưởng của nông nghiệp, và cho rằng những dự án này thất bại do: (a) người dân thiếu vốn,

(b) phương thức truyền thống cũng như tính bảo thủ của nông dân, (c) bản thân các nhà khoa học người Pháp, dù có thiện chí và tấm lòng, cũng không thể đem đến lợi ích vì họ vẫn là người ngoài, vẫn có phân tầng thứ bậc, “không hội nhập vào đời sống cộng đồng của nông thôn Việt Nam”. Vì vậy, mặc dù sản lượng tăng trưởng vượt bậc dưới thời Pháp, song điều kiện sống của người nông dân cũng chẳng được cải thiện bao nhiêu.

Vào thời thuộc địa, ở Pháp, các đồn điền thường có hấp lực văn hóa tích cực, quan điểm này vẫn được thúc đẩy trong một số các lĩnh vực cụ thể. Chẳng hạn như công ty Michelin, từng sở hữu các đồn điền lớn, vẫn tiếp tục tài trợ cho những tác phẩm như Des hévéas et des hommes: L’aventure des plantations Michelin, vốn cho rằng đồn điền cao su là nơi để thám hiểm. Thậm chí trong những tiểu thuyết phức tạp hơn như Sud Lointain (tựa đề tiếng Anh: Distant Skies hay The Distant South) của Erwan Bergot hay LExposition coloniale của Erik Orsenna (tựa đề tiếng Anh: Colonial exposition), các đồn điền thường được mô tả là những nơi nguy hiểm nhưng cũng đầy cơ hội cho những thanh niên người Pháp đến đây tìm kiếm vận may

Bệnh sốt rét đã có lịch sử lâu đời ở châu Á, những tài liệu ở Trung Quốc nói về “một căn bệnh đi kèm với sốt từng cơn” đã xuất hiện từ thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên. Trong thập niên 1930, các nhà nghiên cứu người Pháp và người Việt đã tìm hiểu những tính chất vật lý và hóa học của nước tạo điều kiện cho sự sinh sản của loài muỗi truyền bệnh sốt rét. Thuật ngữ bệnh sốt rét, với nghĩa đen mô tả triệu chứng sốt và lạnh của cơ thể, đã đánh dấu sự tách biệt của sốt rét khỏi quan niệm này.

9.Tu-don-dien-cao-su-thanh-pham-duoc-dua-xuong-tau-thuy-tro-ve-Phap-1280x960-1.jpg
Mủ cao su vận chuyển về Pháp

Dịch bệnh càn quét​

Trong những thập niên 1910 và 1920, hàng ngàn công nhân đã di cư từ Đồng bằng sông Hồng và các tỉnh duyên hải như Thái Bình hoặc Quy Nhơn đến Đông Nam Kỳ để tìm việc làm trong các đồn điền cao su mới thành lập. Người di cư điển hình chủ yếu đến từ một ngôi làng có ít đất trồng lúa hoặc mới bị bão tố hay hạn hán tàn phá. Tiếp đó, cuộc hành trình đầy gian khổ tới vùng đất phương nam bắt đầu. Người được tuyển mộ được đưa tới một điểm tập kết là những trại được dựng bằng gỗ, lợp mái tôn, mùa hè thì nóng bức và khó có thể chống chọi nổi với cái lạnh của mùa đông miền Bắc. Gạo mốc và cá khô ôi thiu là nguồn lương thực duy nhất được cung cấp. Người di cư bắt đầu lo lắng về công việc sắp tới của mình.

Sau ba ngày chịu đói trên những vùng biển động, những người di cư đặt chân đến Sài Gòn và nhanh chóng bị dồn tới một nhà kho ở gần sông Sài Gòn. Tại đây, họ phải phơi mình ánh mặt trời hay chịu đựng cái nóng như nung dưới mái lợp bằng kim loại, bị những tên lính canh đá, xô đẩy trong lúc chờ xe tải chở đến đồn điền trên những con đường gồ ghề. Chuyến đi có thể kéo dài vài ngày và khiến họ lâm vào cảnh khốn khổ khi đặt chân tới đồn điền. Tại đây, họ lại phải chịu đựng cảnh đòn roi, nhà ở tồi tàn, thực phẩm nghèo nàn. Trong số nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng ốm yếu, có lẽ gây nhiều nhất là bệnh sốt rét do muỗi truyền.

Những báo cáo của chính quyền cấp tỉnh cung cấp nhận thức khái quát về tình hình; việc thành lập các ban vệ sinh và cải thiện điều kiện vệ sinh ở địa phương vào năm 1906 đã cung cấp những tin tức chi tiết hơn. Bệnh đậu mùa, bệnh tả và dịch hạch tiếp tục là những mối bận tâm hàng đầu của các nhân viên y tế và quan chức thuộc địa. Trận dịch tả ở Nam Kỳ xảy ra năm 1908 khiến 2.272 người mắc, 1.569 người trong số đó đã tử vong, và rõ ràng nó lan ra theo tuyến đường sắt đang được xây dựng.
Ở Đông Nam Kỳ, bệnh sốt rét thường xảy ra. Trong năm 1911, người đứng đầu cơ quan y tế của tỉnh Tây Ninh báo cáo đã điều trị cho nhiều bệnh nhân mắc căn bệnh này, trong đó có nhiều người đến từ làng Kedol ở kế bên Núi Bà Đen và phần lớn dân làng là người Campuchia. Trong hai ngày tới thăm bệnh tại ngôi làng này, một bác sĩ đã tiếp xúc với 114 bệnh nhân, hơn một nửa trong số họ bị sốt rét. Năm 1914, một bác sĩ khác đã viết về vùng này: “có thể nói rằng hầu như tất cả các ca bệnh (qua thăm khám hay phải nhập viện) bị mắc bệnh sốt rét: phần lớn các ngôi làng nằm ở giữa hoặc sát bên rừng, tại những nơi không thể đi qua được và những vùng đầm lầy nhiều muỗi đến mức mỗi buổi tối, người bản địa bắt buộc phải hun khói căn lều của mình để tự bảo vệ trước những con côn trùng này. Để chống lại bệnh sốt rét, chính quyền thuộc địa đã lập ra cơ quan phân phối thuốc kí ninh vào năm 1909 với mục đích cung cấp miễn phí loại thuốc này cho người dân bản địa và sau đó bán với giá thấp hơn phí tổn. Những báo cáo ban đầu của cơ quan đến nhiều hy vọng và các báo cáo cho Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ đánh giá cao tác dụng của thuốc kí ninh. Tuy nhiên, cơ quan này đã gặp phải sự chống đối lúc ban đầu. Một bác sĩ ở Tây Ninh báo cáo về tình trạng chống lại việc sử dụng thuốc kí ninh và nhận thấy rằng người dân tiếp tục tin cậy các “thầy phù thủy” trong việc điều trị bệnh sốt rét”.

Vào thời gian đó, các nhà nghiên cứu y khoa cho rằng muỗi Anophele ở Đông Dương lây truyền ký sinh trùng plasmodia là nguyên nhân gây bệnh sốt rét. Việc phá những khu rừng phía nam Đông Dương để trồng cao su đã giúp tạo ra những dòng chảy trong vắt, đầy ánh nắng – nơi sinh sôi của giống ký sinh trùng này. Khi những người di cư bị suy giảm miễn dịch đặt chân đến đây, họ bị bó buộc chặt trong các khu trại được xây dựng sơ sài, tiếp xúc với muỗi truyền bệnh và một phần mười trong số này đã chết. Sau đó, sự gia tăng về số lượng và tốc độ di cư đã giúp căn bệnh này lây lan ra bên ngoài phạm vi các đồn điền. Trong thập niên 1920, phản ứng ban đầu của những người quản lý trước sự dữ dội, hao tốn tiền của và tỷ lệ tử vong do căn bệnh này gây ra thông thường chỉ đơn giản là bỏ hoang một nơi làm việc hoặc chờ vài năm cho đến khi tỷ lệ người mắc bệnh giảm xuống. Khi cần khai phá rừng thì các chủ đồn điền sẽ thuê người Thượng làm công việc nặng nhọc này vì họ tưởng rằng người Thượng ít bị mắc bệnh sốt rét.
 

Thuốc kí ninh được phân phối nhỏ giọt​

Các chủ đồn điền phân phối thuốc kí ninh cho công nhân một cách miễn cưỡng và không thường xuyên. Vào thập niên 1930, một số đồn điền lớn hơn đã hợp tác với Viện Pasteur để bắt đầu xây dựng những cơ sở điều dưỡng, thuê nhân viên y tế và phân phối thuốc kí ninh trong khi vẫn tiếp tục xây dựng hệ thống thoát nước và tiến hành những công việc kỹ thuật khác. Lúc này, các nhà nghiên cứu y khoa mô tả bệnh sốt rét ở phía Đông Nam Kỳ là bệnh đặc hữu, hay thậm chí là căn bệnh diễn ra thường xuyên, dai dẳng và có tỷ lệ mắc cao.

Một số người cho rằng tình trạng chống lại việc sử dụng kí ninh là do vị đắng của loại thuốc này, song còn nhiều vấn đề khác nữa. Ngay cả khi người Việt Nam quan tâm đến kí ninh thì giá cả của loại thuốc này lại thường quá đắt đỏ hoặc chỉ đơn giản là không có sẵn thuốc. Các quan chức không bổ sung thuốc về các kho của tỉnh mà họ phụ trách vì không muốn phải trả phí tổn. Hơn nữa, người Việt nghi ngờ hiệu quả của thuốc kí ninh và giá thành của nó so với các loại dược phẩm khác. Mặc dù kí ninh không được đánh giá là hoàn toàn hiệu quả, song các giải pháp khác lại được cho là không khả thi.

Mức độ hạn chế của việc sản xuất thuốc kí ninh đồng nghĩa với việc sử dụng loại thuốc này không bao giờ là lựa chọn khả thi đối với các đồn điền. Năm 1921, năm phân phối kí ninh với số lượng lớn nhất, cũng chỉ đủ 10 centigram thuốc có sẵn để dùng cho mỗi người trong một năm. Với 40 centigram (lặp đi lặp lại nhiều lần trong suốt mùa sốt rét) mới được coi là liều hiệu quả, thì rõ ràng 10cg là không đủ, ngay cả với tiêu chuẩn của thời kỳ đó. Sau nhiều năm hoạt động với kết quả không như kỳ vọng, cơ quan phân phối thuốc kí ninh của Nhà nước được tổ chức lại vào năm 1921, nhưng việc phân phối thuốc vẫn bị giới hạn trong phạm vi của những khu vực thuộc địa biệt lập như các đồn điền. Năm 1932, một tính toán của Hội Quốc liên cho thấy nhu cầu dự kiến về thuốc kí ninh phòng bệnh ở Đông Dương còn lớn hơn cả mức sản xuất của thế giới. Những hy vọng về một giải pháp dựa vào việc sử dụng thuốc đã quay trở lại vào thập niên 1930 khi các chất tổng hợp thay thế cho kí ninh, ví dụ như quinacrine, được phát triển, song những loại thuốc này cũng chỉ được phân phối rộng rãi kể từ sau năm 1954.

Lao động di cư có tác động đáng kể đến hệ thống y tế công cộng, nhu cầu của các đồn điền về một hệ thống các trung tâm chăm sóc sức khỏe ở địa phương đã thúc đẩy chính quyền thành lập một vài cơ sở khám chữa bệnh mới. Chẳng hạn, ở Biên Hòa, các trạm y tế mới được xây dựng năm 1922 tại Gia Rây (với 1 y tá); năm 1927 tại Phú Riềng (với 1 y tá); năm 1928 tại Long Thành (với 1 bác sĩ người Đông Dương, 1 y tá, 2 nữ hộ sinh và 4 cu-li) và tại Xuân Lộc (với 1 y tá); năm 1929 tại Tân Uyên (với 1 y tá, 1 bà đỡ và 1 cu-li). Những trạm y tế này được trang bị điều kiện cơ bản và có phòng bệnh với 10 giường Thêm vào đó, còn có 1 hiệu thuốc nhỏ có thể cung cấp thuốc kí ninh. Dù đã được xây dựng thêm, nhưng vào cuối thập niên 1920, những nguồn lực về y tế của tỉnh Biên Hòa để điều trị cho dân số đang tăng nhanh vẫn rơi vào tình trạng rất căng thẳng. Nhà cầm quyền đã lập luận rằng sự gia tăng dân số do “những hoạt động đa dạng trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp” của tỉnh đã khiến cho việc xây dựng một bệnh viện lớn hơn trở nên cấp thiết”

Trách nhiệm bị làm chệch hướng

Vào cuối những năm 1920, điều kiện làm việc tồi tệ ở các đồn điền cao su đã trở thành vấn đề làm bối rối các quan chức thuộc địa khi những cuộc biểu tình của công nhân diễn ra liên tục và sự vạch trần của báo chí đã lôi cuốn sự chú ý của dư luận.

126188438_10215806012697237_3324128802561762446_n.jpg
Công nhân cao su thời Pháp trên giường bệnh.

Chính sách bảo vệ lao động chỉ là hình thức​

Mặc dù các đồn điền có ghi nhận việc đưa phụ công đến những trạm xá của địa phương, thậm chí là tới những bệnh viện ở Biên Hòa hay Sài Gòn, nhưng phương sách đầu tiên vẫn là đưa tới trạm xá ở đồn điền. Đến cuối những năm 1920, các đồn điền bắt đầu cùng góp nguồn lực và xây dựng một vài trung tâm chăm sóc sức khỏe tập trung. Mặc dù không phải là những bệnh viện kiểu mẫu như của công ty Michelin vào cuối thập niên 1930, nhưng các trung tâm y tế này (như trung tâm của đồn điền Suzannah) tiếp nhận cả công nhân từ các đồn điền xung quanh. Thay vì chữa trị, những nơi này, và các y tá điều hành chúng trong những năm 1920, thường gây thêm vấn đề.

Năm 1928, Bùi Bằng Đoàn, một vị quan ở miền Bắc có sự quan tâm đặc biệt đến số phận của những người miền Bắc làm việc ở miền Nam, đã ghi nhận hai lời than oán về sự tàn bạo của y tá ở đồn điền Cây Gáo thuộc Công ty Kỹ nghệ và Lâm nghiệp Biên Hòa, với bốn dấu roi mây vẫn còn nhìn thấy rõ trên thân thể của nạn nhân. Thậm chí, cho đến đầu những năm 1950, gánh nặng từ thử thách của bệnh tật vẫn hiện hữu ở người lao động và trên cơ thể của họ. Các bác sĩ không hỏi công nhân xem họ bị ốm hay khỏe mạnh mà chỉ kiểm tra nhiệt độ, sờ vào đầu rồi kết luận “có” hay “không” bị bệnh, bất kể người lao động cảm thấy thế nào. Việc điều trị thậm chí còn trở nên tồi tệ hơn ngay sau Thế chiến lần thứ II khi không có bác sĩ ở các đồn điền. Trong suốt thời gian đó, những viên quản lý đồn điền thường chỉ nhìn công nhân để xác định thể trạng của họ trong ngày. Rất hiếm khi họ thấy rằng các phu công quá ốm yếu để có thể làm việc.


Mặc dù phụ nữ người Việt nhận được một số sự bảo vệ, song họ cũng phải đối mặt với những vấn đề. Chẳng hạn, phụ nữ được đề nghị nghỉ hai tháng có trả lương sau khi sinh con – nhiều hơn so với mức mà phụ nữ ở Pháp được hưởng theo quy định của pháp luật. Công việc mà họ được giao cũng thường nhẹ hơn. Nhưng cũng có nhiều điểm bất lợi, chẳng hạn như họ được nhận ít lương thực hơn, bị trả lương thấp hơn và ít nhận được sự bảo vệ về mặt thân thể từ những người đàn ông xung quanh. Mặc dù các đồn điền được đề nghị tuyển dụng 30% công nhân là nữ, nhưng thực tế nam giới hầu như chiếm đa số. Ví dụ, ở đồn điền Cây Gáo của công ty Kỹ nghệ và Lâm nghiệp Biên Hòa, số nhân công được ký hợp đồng bao gồm 866 nam, 86 nữ và 8 trẻ em, cùng với 20 phu công “tự do” đến từ Trung Kỳ.

Về phía mình, công nhân cũng cố gắng giảm nhẹ những tác động từ hoàn cảnh ở đồn điền. Trong thập niên 1910, các cuộc biểu tình của công nhân ở đồn điền liên quan đến những vấn đề như không được trả lương diễn ra dưới những hình thức cũ: các phu công ký tên bằng chữ Hán trong một vòng tròn. Vào thập niên 1920, lao động người Việt đã học cách sử dụng những nguồn do y học cung cấp để đòi quyền lợi dưới chế độ thuộc địa. Những nguồn này bao gồm các báo cáo y tế, trong đó, một số bác sĩ làm việc cho chính quyền nhận thức rằng việc thành lập các đồn điền đã làm lây lan rộng những đợt dịch bệnh sốt rét. Hơn nữa, một cựu quản lý nói rằng các phu công đã đốt nóng những viên đá và áp lên cơ thể họ để tạo ra cảm tưởng về một cơn sốt. Cách làm này có thể đem lại hiệu quả khi các bác sĩ thường xuyên bị thiếu thời gian khi kiểm tra vào lúc điểm danh. Người lao động cũng dùng thuốc của người Việt, hay còn gọi là thuốc nam, và hái nấm trong rừng

Trách nhiệm bị làm chệch hướng​

thập niên 1930 một số đồn điền cho phu công tra có không gian để tự trồng rau, giúp đồn điền tiết giảm chi phí. Không phải tất cả nhân công đều là phu cạo mủ đến từ miền Bắc và một số ít, nhưng giữ vai trò quan trọng, là những lao động lành nghề. Các đồn điền sẽ cung cấp cho họ những cơ hội việc làm khác, có một số ít người Việt làm lái xe, thợ kim khí, đốc công, thợ mộc, thư ký, y tá và thợ máy. Có khoảng 200 lao động “chuyên môn hóa” là người Việt và Trung Quốc ở đồn điền của Hiệp hội Nông nghiệp và Công nghiệp Cẩm Tiên có thể kiếm được 3 đồng Đông Dương mỗi ngày.

126309780_10215806016057321_5164854547441888599_n.jpg
Sự trỗi dậy của Chính phủ Mặt trận Bình dân ở Pháp năm 1936 đã mang lại những động lực cho công cuộc cải cách lao động ở các thuộc địa.
 

Điền chủ né tránh thực hiện chính sách lao động​

Những vụ bê bối mà báo chí nêu lên về những điều kiện khốn khổ ở một số đồn điền đã thúc đẩy chính quyền thông qua một cuộc cải cách sâu rộng các quy định về lao động vào tháng 10/1927 và điều này có ích hơn cho sức khỏe của người lao động”. Tuy nhiên, các đồn điền lại né tránh cải cách đầy ý nghĩa đó, khiến những người chỉ trích buộc tội chính quyền đã thực hiện kiểm soát không hiệu quả đối với tư bản xuyên quốc gia. Trần Tử Bình nhớ lại trong hồi ức, “điền chủ không e sợ các thanh tra lao động. Chính quyền là chính quyền của họ, và mọi thứ vẫn tốt đẹp miễn là họ giữ các vấn đề trong im lặng”.

Mặc dù vậy, một số thanh tra lao động thừa nhận rằng chỉ có ít đồn điền đã thay đổi, và họ đổ trách nhiệm cho các điền chủ.

Trong chuyến đi thu hút nhiều sự chú ý của Bùi Bằng Đoàn về phía Nam vào năm 1928, ông dừng chân tại đồn điền Phú Riềng của công ty Michelin, nơi một trợ lý người Pháp đã bị giết vào tháng 9 năm trước. Đoàn đã đưa ra những câu hỏi hóc búa và ghi chép lại những lời chỉ trích của công nhân; tuy nhiên, chuyến đi của ông không dẫn tới những thay đổi tức thì. Mặc dù Bình có thể không hiểu hết mối quan hệ giữa thanh tra của chính quyền và các đồn điền, nhưng ông đã nhận định chính xác rằng chẳng có gì xảy ra trong những chuyến thanh tra”.

Những doanh nghiệp lại nhìn nhận vấn đề theo cách khác. Những quy định ban hành năm 1918 có những tiêu chuẩn nghiêm ngặt liên quan đến nhà ở, nhưng các điền chủ cho rằng chúng không phù hợp với thực tế. Tháng 2/1927, nhà tài phiệt Octave Homberg (ảnh dưới) cho rằng các quy định liên quan đến những công trình xây dựng ở đồn điền là đáng ngưỡng mộ về mặt lý thuyết, song việc áp dụng một cách nghiêm ngặt trong thực tế lại đưa đến những kết quả trái ngược với mong đợi. Quy định yêu cầu nhà ở phải được xây bằng xi măng để tránh các loài bò sát và động vật hoang dã nhưng thực tế thì chỉ làm nhà rơm, nhà đất để thể đốt đi sau 2 đến 3 năm sử dụng – như cách những “người Mọi” trong vùng đã làm. Ông nói rằng những “cu li” thường thích những chiếc giường bằng tre hơn là những tấm ván gỗ”.
Octave Homberg (1876-1941), French writer and financier.


Ủy ban Đông Dương đã chỉ trích gay gắt rằng những quy định về lao động năm 1927 là quá khắc nghiệt đối với người sử dụng lao động. Cơ quan này ủng hộ các chủ đồn điền và đã chỉ trích những quy định về lao động ban hành năm 1927 trên quy mô lớn như một cuộc tấn công vào những văn bản của chính quyền về bảo vệ sức khỏe. Ủy ban đã trích dẫn con số 300 bác sĩ/20 triệu dân ở Đông Dương so với 20.000 bác sĩ cho 40 triệu dân ở Pháp, và chỉ ra tình trạng thiếu bệnh viện ở các tỉnh. Thêm nữa, ủy ban này còn buộc tội chính quyền đã thất bại trong việc giải quyết tình trạng chết đói ở Đồng bằng Sông Hồng – điều đó có nghĩa là người Việt Nam bị thiếu dinh dưỡng và có sức khỏe yếu từ trước khi họ đến đồn điền.

Sự trỗi dậy của Chính phủ Mặt trận Bình dân ở Pháp năm 1936 đã mang lại những động lực cho công cuộc cải cách lao động ở các thuộc địa. Những quy định được ban hành năm 1927 bảo vệ những công nhân có ký kết hợp đồng lao động, vì vậy những cải cách trong thập niên 1930 tập trung vào lao động “tự do” – là những người chưa có bất kỳ hình thức bảo vệ nào. Những điều chỉnh ban đầu giải quyết vấn đề điều kiện làm việc cho phụ nữ và trẻ em, số giờ làm việc trong ngày, điều kiện vệ sinh cho công nhân và vai trò của thanh tra lao động.

Vẫn còn nhiều vấn đề chưa được giải đáp, một vài trong số đó được giải quyết bởi những quy định về lao động được thông qua vào ngày 30/12/1936. Theo đánh giá của thanh tra lao động vào thời điểm đó, những quy định này đã xây dựng nền tảng của “một hiến chương lao động thực sự rõ ràng và đầy đủ”. Ông ghi nhận rằng một số “người cực đoan” chỉ trích những quy định này vì không đi đến cùng trong việc bảo vệ các quyền lợi của người lao động. Tuy nhiên, ông vẫn kiên định rằng những quy định đó đã tạo ra những thay đổi thực sự trong khi “không dẫn tới những sự phá vỡ quá đột ngột cấu trúc kinh tế và xã hội của vùng đất này”.

Trước khi nhà hoạt động xã hội chủ nghĩa và là cựu Bộ trưởng Y tế Justin Godart (ảnh dưới) đến Đông Dương vào mùa xuân năm 1937, các giải pháp về chuyên môn có giới hạn lúc ban đầu liên quan đến sức khỏe của người lao động đã biến thành những ảo tưởng phát triển toàn diện hơn. Godart được Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp cử đến để thanh tra tình hình ở các thuộc địa của Pháp như một sự hồi đáp trước những cuộc đình công liên tiếp và tình trạng bất ổn trong dân chúng ở thuộc địa. Trong chuyến đi của ông có hai ngày tới khu vực trồng cao su của Đông Dương và đến những đồn điền thuộc sở hữu của người Pháp và người Việt.
M Justin Godart , Minister of labour Stock Photo - Alamy

Trong chuyến thăm ngắn ngủi của mình, Godart đã nhận thấy cái mà ông gọi là sự tàn bạo và ngu ngốc của xã hội thuộc địa Pháp. Ông có sự sáng suốt của một người ngoài cuộc có hiểu biết, ở vị trí thuận lợi và thường có tinh thần phản biện khi nhìn nhận tình hình ở thuộc địa. Trong báo cáo của mình, ông nhấn mạnh những thay đổi có lợi mà sản xuất cao su đã mang lại cho khu vực. Ông viết về “sự quản lý xuất sắc… và công việc khai phá quan trọng” đã được thực hiện ở các đồn điền mà ông ghé thăm, trong đó có đồn điền của công ty Michelin. Tuy nhiên, ông cũng cảm nhận được “vẻ buồn thảm của những người sống trong các ngôi nhà của công ty”, và so sánh các đồn điền với “một khu rừng không có chim chóc”. Hình ảnh về một khu rừng không có chim chóc đã truyền tải cảm giác kỳ lạ của Godart khi ông đi bộ quanh “bản sao chép khung cảnh thiên nhiên” được tìm thấy nơi bối cảnh làm việc của các đồn điền. Và mặc dù thừa nhận những nỗ lực của người quản lý đồn điền nhằm cải thiện sức khỏe của người lao động, ông cũng ghi nhận sự nghèo nàn về mặt sinh thái và xã hội của khung cảnh ở các đồn điền
File:Justin Godart, le général Grossetti et le général Venel à l'ambulance  juillet sept 1917.jpg - Wikipedia

Duy trì lợi nhuận, duy trì phản kháng
Dưới những cuộc nổi dậy của công nhân cao su để đòi quyền lợi, tư bản Pháp và các đồn điền đã có những thay đổi về chế độ chính sách cho công nhân. Tuy nhiên, những thay đổi này không đáng kể bởi các đồn điền vận hành vì lợi nhuận của chính bản thân nó.
7.Phu-cao-su-lam-viec-duoi-su-giam-sat-cua-nguoi-Phap-1280x959-1.jpg

Phu cao su làm việc dưới sự giám sát của người Pháp.

Chủ đồn điền có rất ít hành động nhằm cải thiện điều kiện lao động​

Một số điền chủ hiểu được sự cần thiết của việc buộc phải thích nghi với nền chính trị thuộc địa đang thay đổi. Trả lời về những vụ đánh đập công nhân của những quản lý người Pháp, Thống đốc Nam Kỳ đã viết về “đầu óc phong kiến đáng tiếc” của các điền chủ. Ông cũng chỉ ra rằng những dự án hỗ trợ cải thiện điều kiện ở các đồn điền phần lớn vẫn đang trong giai đoạn lập kế hoạch, như được mô tả bởi ảnh chụp những ngôi làng trong thực tế của công ty Đồn điền Cao su Đất Đỏ. Trong khi những ngôi nhà trong các bức ảnh thực sự tách biệt thì những con đường đất đã biến thành bùn lầy trong cơn mưa, còn vật liệu xây dựng chỉ toàn gỗ và rơm rạ.

Trong thực tế, các chủ đồn điền vẫn có rất ít hành động nhằm cải thiện điều kiện lao động. Những kết quả điều tra của Ủy ban Guernut đã cho thấy thất bại của đế quốc Pháp trong việc đối phó với những cuộc đình công thường xuyên của công nhân đồn điền và tình trạng bất ổn chung trong dân chúng ở Đông Dương. Trước chuyến thăm của Godart, giới trí thức người Việt đã đề xuất một loạt cải cách. Nhưng cuối cùng, chuyến thăm của ông đã tạo ra nhiều hy vọng hơn là sự thực thi, và đã gây ra nhiều nỗi thất vọng. Thất bại của Chính phủ Pháp trong việc tiến hành những cải cách thực sự có ý nghĩa chính là nguyên nhân khiến nhiều nhà hoạt động chính trị chống lại chế độ thực dân và giúp dẫn đường cho chủ nghĩa dân tộc cách mạng nắm lấy thời cơ.

Công nhân tiếp tục thúc giục thay đổi điều kiện làm việc ở các đồn điền. Một ví dụ là sự thành lập và hoạt động của Hiệp hội Tương trợ Nông nghiệp Nam Kỳ. Được sự chấp thuận của chính quyền, hiệp hội này đã tổ chức cuộc họp đầu tiên vào ngày 18 tháng 5 năm 1935 tại Trường Nông nghiệp Thực hành ở Bến Cát, tỉnh Thủ Dầu Một. Mục tiêu của hiệp hội là giúp đỡ người lao động bị mất việc làm và hỗ trợ gia đình của những thành viên bị túng thiếu. Lệ phí của hiệp hội ban đầu là 3 đồng Đông Dương, về sau là 50 xu mỗi tháng. Hơn một thập niên đấu tranh của công nhân đã đặt ba đồn điền của công ty Michelin, đặc biệt là đồn điền ở Dầu Tiếng và Phú Riềng, nằm trong số những mục tiêu của cải cách. Tình trạng náo động trong công nhân khiến thanh tra lao động để trình một báo cáo dài 85 trang lên Toàn quyền Đông Dương vào ngày 19/6/1937 về cuộc sống của người lao động ở đồn điền Dầu Tiếng.

2.-Chu-Tay-su-dung-lao-dong-nu-nguoi-dan-toc-1280x960-1.jpg
Chủ Tây sử dụng lao động nữ người dân tộc.

Giới trí thức ủng hộ cải thiện điều kiện làm việc ở các đồn điền

Giới trí thức người Việt, bao gồm các bác sĩ và nhà báo, cũng ủng hộ việc cải thiện những điều kiện ở đồn điền bằng cách thúc giục sự cải cách rộng rãi về y tế ở nông thôn. Nhiều hội đoàn chống lại các bệnh cụ thể như bệnh lao đã được thành lập. Hội đoàn Ánh sáng đã có những nỗ lực để xây dựng nhà ở sạch sẽ cho người nghèo, trong khi Hội Lạc Thiện và Hợp Thiện được thành lập để cung cấp sự trợ giúp công cộng lần lượt ở Huế và Bắc Kỳ. Báo chí từ lâu đã là một lực lượng thúc đẩy sự thay đổi. Vũ Đình Dy – người điều hành tờ LEffort indochinois liên tục đăng những bài viết về các cuộc điều tra tình hình ở vùng nông thôn, công luận quan tâm nhiều hơn đến tình hình ở đồn điền thông qua loạt bài của ông vào cuối những năm 1920 viết về các đồn điền ở Nam Kỳ và Campuchia.

Tờ LEffort indochinois đã đăng nhiều bài viết về cảnh ngộ của những người nông dân. Loạt bài này xuất hiện vào tháng 11/1937, đã đặt ra câu hỏi về những ưu tiên mang tính chính trị của chính quyền khi phê duyệt khoản vay 90 triệu đồng Đông Dương cho các đồn điền trong khi lại phân bổ rất ít cho hoạt động cứu trợ thảm họa. Tuy nhiên, ngay cả trong thời kỳ Mặt trận Bình dân, những cuộc tấn công trực diện của báo chí vào các điều kiện ở đồn điền vẫn gặp phải rủi ro. Ngày 13/12/1938, Nguyễn Văn Mai, quản lý của tờ Dân Mới, đã bị Tòa đại hình Sài Gòn tuyên án ba tháng tù, buộc đóng phạt 1.000 franc và bồi thường thiệt hại 100 đồng Đông Dương cho công ty Đồn điền Cao su Đông Dương vì đăng tải một bài viết tiêu cực về công ty này. Năm 1939, vào thời kỳ cuối của Mặt trận Bình dân, chế độ kiểm duyệt gắt gao mới được thiết lập đã khiến cho việc thảo luận cởi mở về sự cải cách liên đến công nhân gặp nhiều khó khăn hơn. Không lâu sau đó, những hình thức quyết liệt hơn của sự bất đồng quan điểm đã xuất hiện. Từ 1936 đến 1939, Nguyễn Văn Bát đã thành lập Hội phụ nữ tại Suối Tre, Biên Hòa. Ông đã dùng câu tục ngữ “bà con xa không bằng láng giềng gần” để thuyết phục công nhân thành lập và gia nhập hội. Tổ chức này dựa trên mối quan hệ vùng miền và cố gắng làm thấm nhuần tình yêu quê hương trong các hội viên. Ông cũng thảo luận về chủ nghĩa ******** và thế giới đại đồng với cha và những người anh của Lê Sắc Nghi – người sau này sẽ trở thành một đảng viên ********. Theo ông Nghi, sau khi hiệp hội của những người đồng hương này được thành lập, những khác biệt về tôn giáo, kinh tế và xã hội không còn tiếp tục chia rẽ những người lao động.

Vô số những cuộc biểu tình của công nhân đã gây áp lực lên giới chủ trong việc cải thiện các điều kiện ở đồn điền và trở thành một lực lượng cho công cuộc cải cách. Hầu hết các cuộc biểu tình tập trung vào yêu cầu đòi được trả lương cao hơn mức lương hiện tại – vốn đã bị giảm xuống mức tối thiểu trong cuộc khủng hoảng kinh tế hồi thập niên 1930. Nhưng các chủ đồn điền thường đáp lại những hành động của công nhân, theo lối khoa trương, bằng việc nhấn mạnh các dự án cho nhà thờ, trường học, sân bóng và bệnh viện.

…Trong trường hợp của Đông Dương thuộc Pháp, các đồn điền – cũng giống như những vườn thực vật, trạm thực nghiệm nông nghiệp, bệnh viện, các trại dành cho người mắc bệnh phong và các phòng thí nghiệm – được thiết kế để vận hành dựa trên cả môi trường và con người. Những không gian này cung cấp kiến thức về thực vật, về những nguyên nhân gây bệnh trong khung cảnh lao động, và là minh chứng về những gì có thể được thực hiện với tự nhiên dựa trên cơ sở khoa học. Nói cách khác, các đồn điền vận hành dựa trên môi trường và chính bản thân nó, vì lợi nhuận
 
Sửa lần cuối:

Cao su chiến

Năm 1945 là một mốc thời gian trọng yếu đối với người Việt Nam và ngành công nghiệp cao su. Đầu tiên, cuộc đảo chính ngày 9/3 dẫn đến việc quân đội Nhật Bản bao vây và bắt giữ những công dân, binh lính và quan chức người Pháp. Cuộc đảo chính này đã chấm dứt một cách hiệu quả nền cai trị của thực dân Pháp, bỏ lại ngành công nghiệp cao su trong tình trạng xáo trộn và thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc trong lực lượng công nhân Việt Nam.

Dung-nguoi-ban-xu-danh-nguoi-ban-xu-mot-chinh-sach-tham-doc-cua-bon-Chu-Tay-1280x853-1.jpg
Dùng người bản xứ đánh người bản xứ, một chính sách thâm độc của bọn chủ Tây

Đồn điền giữ vị trí trọng yếu trong nỗ lực hiện địa hoá nền nông nghiệp​

Năm đó, nạn đói vốn khiến hơn một triệu người chết ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ cũng lên đến đỉnh điểm. Vào ngày 14/8, sau khi bom nguyên tử thứ hai được thả, Nhật Bản đầu hàng lực lượng Đồng minh, để lại khoảng trống quyền lực về quân sự và chính trị trên khắp Đông Nam Á. Vào ngày 19/8, Việt Minh nhanh chóng nắm quyền kiểm soát tại Hà Nội và nhiều tỉnh khác. Ngày 2/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố nền độc lập của Việt Nam và công bố sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 23/9, lực lượng Pháp được giải phóng khỏi các trại của Nhật Bản và được quân đội Anh hậu thuẫn nên nắm lại quyền lực ở Sài Gòn và từ từ tiến về vùng nông thôn, bao gồm cả các đồn điền. Họ cho thấy rằng không thể làm được điều tương tự ở phía Bắc, nơi đang bị quân đội Trung Hoa Dân quốc chiếm đóng. Vào thời điểm lực lượng Viễn chinh Pháp đổ bộ vào ngày mồng 3/10, một cuộc đàm phán phức tạp về quyền lực giữa các lực lượng chính trị và quân sự được bắt đầu. Cuối cùng, một ngày sau lễ Giáng sinh, người Pháp báo hiệu ý định cung cấp nguồn lực cho một cuộc chiến tranh bằng việc định lại tỷ giá đồng Đông Dương từ 10 lên 17 đồng franc, điều này làm tăng sức mua của đồng Đông Dương, nhưng lại gây khó khăn đối với những người đang sinh sống trên bán đảo này.

Cả người Pháp, chính quyền kế tiếp ở miền Nam Việt Nam và Campuchia, Việt Minh và lực lượng Cao Đài đều coi nền công nghiệp cao su, bao gồm đồn điền và nguồn lao động, như tài sản quan trọng trong cuộc đấu tranh chính trị và quân sự sắp tới. Việt Minh đã phá hủy một số cơ sở sản xuất cao su trong suốt thời kỳ Chiến tranh Thế giới lần thứ II, nhưng người Pháp đã bán đi hầu hết cổ phần sau khi cuộc chiến kết thúc. Những hồi ức về ngành công nghiệp cao su thời thuộc địa đã cho thấy quan điểm của các tác nhân này đối với các đồn điền. Từ quan điểm của người Pháp, ngành công nghiệp cao su đã cung cấp phương tiện để khởi động lại nền kinh tế Đông Dương, và các đồn điền giữ vị trí trọng yếu trong nỗ lực hiện đại hóa nền nông nghiệp thông qua những cải cách về kỹ thuật, xã hội, chính trị và tài chính. Các thành phần cầm quyền ở thuộc địa trước đây xem các đồn điền là những tổ chức có thể giải quyết được các vấn đề phức tạp của quá trình thuộc địa hóa mà có liên quan đến lao động và mang lại những sự cải thiện đồng thời cho điều kiện sống ở vùng nông thôn lẫn việc làm gia tăng xuất khẩu sản phẩm từ nông nghiệp.

Một trong những vấn đề cấp bách thời hậu chiến mà ngành công nghiệp cao su phải đối mặt là làm thế nào để gầy dựng lại lực lượng lao động. Vào năm 1946, theo Hiệp hội Những Người trồng Cao su (Union des planteurs de caoutchouc), chỉ có 15.000 công nhân làm việc ở Nam Kỳ và Campuchia, trong khi ngành công nghiệp cao su có khả năng thuê tới 60.000 nhân công. Chính phủ Pháp tỏ ý ủng hộ việc tuyển thêm lao động cho các đồn điền, và tại một hội nghị tổ chức vào tháng 6 ở Đà Lạt, lãnh sự Pháp đã dành 1 điểm trong kế hoạch 7 điểm của ông ta cho việc gia tăng số lượng công nhân đồn điền. Nhiều đề xuất nhằm giải quyết vấn đề khan hiếm lao động đã được đưa ra bàn luận, bao gồm cả cơ giới hóa hơn nữa các đồn điền và khuyến khích tăng cường tuyển dụng công nhân tại miền Nam. Khi những sáng kiến này không đem lại hiệu quả, những chủ đồn điền đã xem xét đến các biện pháp cưỡng bức lao động mà đã được Thanh tra Lao động phê chuẩn, bao gồm bắt giữ lại những công nhân cũ và gia hạn hợp đồng lao động hiện thời. Các chủ đồn điền cũng quan tâm đến việc sử dụng người Việt Nam trở về từ nước ngoài, song cũng nhận thức rằng những nhân công này có khuynh hướng tìm kiếm mức lương cao và thích được sử dụng những kỹ năng tiên tiến mà họ đã học được trong suốt thời chiến hơn là làm việc ở các đồn điền. Cuối cùng, các điển chủ đã thảo luận về việc phục hồi lại kế hoạch thời thực dân để tuyển dụng lao động nước ngoài và nhắm tới những người Tamil, người Thượng, thậm chí cả những lao động người Nam Dương bị bỏ lại ở Xiêm La trong làn sóng rút quân của đế quốc Nhật.

Cuoc-song-cung-cuc-cua-cong-nhan-cao-su-thoi-thuoc-Phap.jpg
Cuộc sống cùng cực của công nhân cao su thời thuộc Pháp.

Đông đảo công nhân cao su tham gia kháng chiến

Đảng Cộng sản Đông Dương cũng rất khẩn trương chuẩn bị cho cuộc kháng chiến và trong ván cờ chiến lược. Các lực lượng ở địa phương không chịu nằm yên, họ khơi những ký ức về cảnh quan đồn điền để chuẩn bị cho một cuộc chiến chống lại sự trở lại của thực dân Pháp như một cuộc kháng chiến chống xâm lược.

Họ cũng đặt ra những khẩu hiệu và làm thơ chống lại các đồn điền, trong đó có nhiều câu nhấn mạnh mối liên hệ giữa thân xác những người công nhân và cây cao su. Một đoạn thơ miêu tả: “Cao su xanh tốt lạ đời/ Mỗi cây bón một xác người công nhân” Sự đánh đồng một mạng công nhân với một cây cao su đã nhấn mạnh cách nhìn của Việt Minh cho rằng cơ chế ở đồn điền đã khiến người lao động phải chống lại cây cối. Những khẩu hiệu như vậy cũng chống lại những quan điểm man rợ, lên án chủ nghĩa tư bản của thực dân Pháp coi trọng cây cao su hơn mạng sống con người. Điều này có thể tóm lại bằng câu nói: “mạng người không quý bằng một cây cao su”. Việt Minh tuyên bố rằng, chủ nghĩa xã hội sẽ mang lẽ phải đến những đồn điền bằng việc đảo ngược sự bất công này và giúp con người khuất phục được cây cao su.

Ban đầu, các ấn phẩm của Việt Minh kêu gọi phá hủy cây cao su và các đồn điền. Một khẩu hiệu lúc bấy giờ kêu gọi công nhân “biến đồn điền cao su thành mặt trận để tiêu diệt kẻ thù”. Sự thúc đẩy của thực tiễn kết hợp với sự thúc đẩy về tư tưởng đã cổ vũ Việt Minh phát động Mặt trận Cao su chiến, với nhiệm vụ chặt phá cây và phá hủy phương tiện sản xuất cao su. Trái ngược với “những tên cướp” và những thành phần vô chính phủ khác trước đây từng sống dựa vào những khu rừng hoang và khu vực có môi trường phức tạp để cản trở những người truy đuổi mình, thì cả Việt Minh và người Pháp đều thực hiện phương cách của mình dựa vào những hàng cây thẳng tắp và sự độc canh của những đồn điền.

Động lực kinh tế và các chiến lược cũng dẫn đến những cuộc tấn công đồn điền. Các lãnh đạo Việt Minh đã lập luận rằng người Pháp đến Đông Dương đơn thuần là vì lợi nhuận và rằng chính cao su đã đóng góp trực tiếp vào nỗ lực chiến tranh của Pháp. Một nhà báo ở phía Bắc Việt Nam, Điệp Liên Anh, đã nhận định rằng “một cây cao su tương đương với một kẻ thù. Hủy diệt một cây cao su là giết được một tên xâm lược”. Không có gì đáng ngạc nhiên khi tấn công trực tiếp vào đồn điền là một phần trong chiến lược của Việt Minh nhằm tàn phá nền kinh tế thực dân nhiều nhất có thể

Cong-nhan-cao-su-nghe-can-bo-Viet-Minh-dien-thuyet-1280x817-1.jpg
Công nhân cao su nghe cán bộ Việt Minh diễn thuyết
Cong-nhan-cao-su-tham-gia-bai-cong-ngay-3-2-1930-1280x924-1.jpg
Công nhân cao su tham gia bãi công ngày 3-2-1930.

Điệp Liên Anh lưu ý rằng “đồn điền cao su trở thành mục tiêu chính trong kế hoạch tấn công của Việt Minh ở khu vực miền Đông [Đông Nam Việt Nam] để làm suy yếu nền kinh tế của Pháp và làm giảm sức mạnh của lực lượng viễn chinh Pháp. Nhà sử học Pierre Brocheux (ảnh dưới) chỉ ra rằng những tài liệu của Việt Minh đầy những cụm từ “tiêu thổ, phong tỏa và chiến tranh kinh tế” khi mà “kinh tế… đã trở thành một vấn đề, một mặt trận, và là một vũ khí. Các mục tiêu “tàn phá nền kinh tế của kẻ địch”, “đóng góp vào xây dựng nền tảng kinh tế cho cuộc kháng chiến” luôn thôi thúc, và những nơi như đồn điền có thể phục vụ cho cả hai mục tiêu trên”
Giáo sư Pierre Brocheux đã ra đi


Những lập luận này thuyết phục được nhiều phu đồn điền cao su đang tìm kiếm điều kiện sống tốt hơn đồng ý gia nhập Việt Minh. Một số công nhân đã tham gia vào các cuộc tổng khởi nghĩa diễn ra hồi tháng 8, và sau đó nhiều người đứng vào hàng ngũ các đơn vị vũ trang như Chi đội 1 thành lập vào năm 1945, Chi đội 10 thành lập vào năm 1946. Kiên định với những khẩu hiệu mô tả cây cao su được bón bằng xác những người công nhân, hầu hết các chiến dịch thuở ban đầu đều nỗ lực phá hủy cả dụng cụ sản xuất lẫn cây cao su. Theo một tài liệu lịch sử về phong trào công nhân đồn điền cao su thì “tất cả các cuộc đấu tranh của công nhân trong suốt thời kỳ kháng chiến chỉ có mục tiêu duy nhất là phá hủy”. Những nỗ lực ban đầu chống lại thực dân Pháp xâm lược, tuy vậy, đã vấp phải khó khăn đáng kể. Vào tháng 2/1946, lực lượng Anh và Pháp đã tái chiếm đóng hầu hết các khu vực đồn điền. Đối mặt với bước lùi này, Việt Minh nỗ lực hình thành một nền kinh tế song song, và vào mùa xuân năm 1946, họ đã phát hành tiền đồng để cạnh tranh với đồng Đông Dương.

Chính quyền thực dân có lý do để ngày càng quan ngại về việc lực lượng lao động dễ dàng bị Việt Minh chiêu mộ; một tài liệu lịch sử của Việt Nam tuyên bố rằng có 34.000 trong số 55.000 lao động tham gia cách mạng. Sau Cách mạng Tháng Tám, những nhà lãnh đạo nhận thức rõ về khả năng phải đối đầu bằng bạo lực. Mark Lawrence đã thảo luận về những nỗ lực để tránh xung đột, bao gồm hiệp ước Pháp – Việt Minh được ký kết vào ngày 6/3 giữa các đại diện của chính phủ Pháp và Việt Minh. Một số người cho rằng cuộc thương thảo này đã đi ngược lại mục tiêu chống thực dân, nhưng thật ra hiệp ước này đã tạo cơ hội để Việt Minh chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Các truyền đơn và báo chí phát hành định kỳ được lưu hành trong giới công nhân cao su, thay thế cho những đài phát thanh phụ của Pháp. Những phương tiện truyền thông này tuyên truyền về đường lối hành động chung và cổ vũ cho cuộc kháng chiến thông qua hàng loạt các tác phẩm thơ và văn xuôi mang âm hưởng anh hùng ca. Một trong những ấn phẩm của Việt Minh là tờ báo Công đoàn, sau này đổi tên thành báo Cảm tử, có số lượng phát hành đáng tự hào là 4.000 bản. Tờ Công đoàn chủ yếu được lưu hành ở phía Nam, nhưng sau khi Việt Minh thành lập những tổ chức cấp tỉnh, mỗi địa phương đã tự xuất bản báo của mình. Vào giữa năm 1946, Ty Thông tin của Biên Hòa ra mắt tờ Đồng Nai, đặt theo tên của tỉnh xuất bản. Tờ báo này chỉ gồm hai trang, với khoảng 300 đến 500 bản mỗi kỳ. Về sau, các thành viên của Chi đội 10 chịu trách nhiệm viết nội dung cho tờ báo. Số lượng phát hành rất hạn chế so với báo Công đoàn, và vào năm 1947 báo Đồng Nai lại thiếu trầm trọng nguyên vật liệu để in ấn, đến nỗi có những số báo phải in bằng mực làm từ tảo biển. Công đoàn Cao su đầu tiên, được thành lập ở Biên Hòa vào tháng 9/1946, với 4.000 thành viên, đã cho ra đời ấn bản của riêng mình là tờ Sinh lực (một cái tên phù hợp đối với một tờ báo hướng đến phu cao su).

Trong lúc cuộc chiến đang diễn ra rải rác ở miền Nam kể từ khi người Pháp xâm lược trở lại, thì cuộc tấn công từ ngày 19 đến ngày 20/12/1946 làm rúng động Hà Nội và các tỉnh khác của Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở ra, đồng thời chính thức đánh dấu cho sự khởi đầu của Chiến tranh Đông Dương lần thứ I. Chiến tranh bùng nổ khiến các lực lượng nòng cốt ở miền Nam ngày càng được tập trung mạnh hơn, vào ngày 20/12, Công đoàn Cao su Tây Ninh được thành lập với 2.533 thành viên. Mười ngày sau, Công đoàn Cao su Thủ Dầu Một được thành lập với 1.635 thành viên trên tổng số 12.000 công nhân. Cả hai Công đoàn này đều xuất bản tờ báo riêng của mình, Cao su và Cần lao.
 
Sửa lần cuối:

Chảy máu kinh tế thuộc địa

Trong suốt thập niên 1940 và 1950, những đồn điền tồn tại ở rìa các vùng biên giới dễ biến động và là những nơi đầu tiên xây dựng những bãi đáp. Bãi đáp giúp các đồn điền cao su tiếp tục được vận hành trong suốt hai cuộc chiến tranh Đông Dương; các nhà lãnh đạo quân đội và chính trị đã ra lệnh trưng dụng những bãi đáp này cho mục đích của họ. Lực lượng chống thực dân cũng tìm cách làm cho những cảnh quan này trở thành lợi thế của họ.

screenshot_1721791003-2.png
Công nhân cao su bị phạt lao động không công vì chống đối chủ.

Đồn điền cao su – lợi thế của lực lượng chống thực dân​

Dạng môi trường pha trộn giữa đồn điền – rừng rậm mang lại nhiều lợi thế cho Mặt trận giải phóng dân tộc Việt Minh. Những hàng cây thẳng tắp ở đồn điền vừa giúp gia tăng sự cơ động của các lực lượng theo chủ nghĩa dân tộc – đa phần đi bộ, không được trang bị cơ giới như quân đội Pháp – vừa vô hiệu hóa sức mạnh của không quân Pháp. Đồn điền cung cấp cho lực lượng du kích nơi để ngủ nghỉ, những con đường mòn có sẵn, củi và nước, cung cấp nơi để gặp gỡ, huấn luyện. Những khu rừng ở bên cạnh các đồn điền là nơi mà các cuộc hành quân của Pháp hầu như không thể xuyên qua và là nơi lực lượng Việt Minh có thể rút lui vào đó sau những trận giao tranh. Những cánh rừng lẫn đồn điền là nơi rất tiện lợi giúp lực lượng Việt Minh tránh bị phát hiện, đặc biệt là tránh bị phi cơ Pháp tìm thấy, chúng được sử dụng như một lá chắn trong suốt quá trình tấn công và rút lui. Lực lượng lao động tại đồn điền là điển hình cho một lực lượng đồng minh tiềm tàng, quan trọng, và là nguồn cung cấp nhu yếu phẩm, tiền bạc. Xét về mặt địa lý, các đồn điền đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát vùng biên giới phía Nam Đông Dương, như cửa ngõ thông ra đồng bằng châu thổ sông Mekông và những kho dự trữ lúa gạo giàu có của nó. Vì các đồn điền nằm ở cả hai bên biên giới giữa Nam Kỳ và Campuchia nên việc cạo mủ cao su là cách ngụy trang hữu hiệu để di chuyển giữa hai vùng đất. Để đối phó, quân đội Pháp và các chủ đồn điền ra sức kiểm soát việc lưu thông và quân sự hóa vùng vành đai quanh các đồn điền, biến đổi một số địa điểm, ví dụ như đồn điền Courtney thành các trại lính. Đồn điền Dầu Tiếng của Michelin đã đặt 8 chốt quân sự với 300 lính, còn đồn điền Quản Lợi duy trì 5 chốt quân sự với 200 lính. Người Pháp cũng hủy hoại cây cao su ở các đồn điền vừa và nhỏ nhằm giảm thiểu giá trị về mặt chiến thuật của chúng đối với lực lượng Việt Minh.

Trong khi đó, Việt Minh vẫn tiếp tục tổ chức, thành lập Nghiệp đoàn Cao su tại Long Khánh vào năm 1947 để phối hợp hoạt động với các nghiệp đoàn cao su khác, các tổ chức cấp tỉnh, và các đơn vị vũ trang trong vùng. Sự pha trộn của các tổ chức cung cấp giải pháp cho sự linh hoạt của Việt Minh, với các nhóm nhỏ tìm cách hoạt động theo kiểu tự quản. Theo đường lối chung, hai mục tiêu chính của các nghiệp đoàn là “biến đồn điền thành chiến trường để tiêu diệt địch” và “phá hủy nền kinh tế của kẻ thù”. Đại đội Cao su thuộc Chi đội 10 chịu trách nhiệm triệt hạ cây cao su và hỗ trợ những tổ chức hoạt động bí mật ở các đồn điền tiêu diệt lực lượng dân quân đang kiểm soát khu vực này. Những tổ chức này vẫn tiếp tục phát hành những bản tin như Sứ mạng và Tiếng rừng.

Một báo cáo của Việt Minh với tiêu đề “Những đồn điền Pháp” đã đưa ra 4 biện pháp để hủy diệt đồn điền, bao gồm: phá hủy lực lượng lao động, hủy hoại công cụ; phá cây; phá hoại những hai cách để triệt phá cây và một số cách để giảm năng suất mủ cao phương tiện giao thông vận tải. Trong mục về cây, báo cáo đã mô tả su, bao gồm gây bệnh cho cây cao su hevea. Việt Minh còn dùng cách lột vỏ cây cao su. Khi các chủ đồn điền nhanh chóng nghĩ ra được những phương pháp để tái tạo lại lớp vỏ cây bị mất, thì Công đoàn Cao su lại tấn công bằng phương thức gọi là “khoanh vỏ, nghĩa là cắt một vòng thật sâu quanh thân cây để chặn dòng mủ chuyển từ rễ lên, và thế là hủy diệt được cả cây. Đốt cây là hình thức kháng cự phổ biến hơn”. Chiến dịch phá hoại nguồn lợi kinh tế của Pháp như vậy đã thành công trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh, và thậm chí là một hình mẫu cho Đảng ******** ở Mã Lai trong suốt thời kỳ khẩn cấp, hay còn gọi là sự nổi dậy của những người ********.
Cong-nhan-cao-su-nghe-can-bo-Viet-Minh-dien-thuyet-1-1280x817-1.jpg
Công nhân cao su nghe cán bộ Việt Minh diễn thuyết.

Tài sản vườn cây của thực dân Pháp bị thiệt hại nặng nề

Theo cuốn Cuộc chiến của công nhân đồn điền cao su do Nhà xuất bản Công nhân phát hành, từ năm 1945 đến năm 1948 công nhân đồn điền cao su đã tiến hành 1.600 vụ hủy diệt cây cao su, đã hủy hoại trên 7 triệu cây chất lượng cao, tương đương 10% tổng số cây cao su hevea ở Đông Dương, và tàn phá 17.000 trên tổng cộng 150.000 ha đồn điền. Hành động đấu tranh đặc thù của công nhân tiếp diễn trong suốt cả năm và thường xảy ra vào những ngày kỷ niệm của Việt Minh. Vào ngày 01/5, Ngày Quốc tế Lao động, những công nhân ở đồn điền Courtney tại Bà Rịa biểu tình đòi tăng lương và các nhà quan sát đã nhận thấy những dấu hiệu của người ******** xuất hiện ở khắp mọi nơi tại Dầu Giây. Ngày Quốc khánh Pháp cũng được đánh dấu bằng những cuộc đấu tranh của công nhân.

Rất khó để xác định số lượng người có liên quan đến những sự kiện này cũng như vai trò tổ chức của Việt Minh. Tác giả của cuốn Cuộc chiến của công nhân đồn điền cao su cho rằng vào ngày 19/5/1947, công nhân ở Biên Hòa đã phá hủy một số lượng đáng kinh ngạc lên đến 300.000 cây cao su. Cuốn Cuộc chiến của công nhân đồn điền cao su chứa những đoạn văn miêu tả rất kinh khủng về những người công nhân bị chặt đầu sau khi bị phát hiện có hành động phá hoại, hay đơn giản chỉ là do xuất hiện không đúng thời gian và địa điểm. Binh lính Pháp là vốn thường trưng ra những đầu người bị chặt một cách dã man trong suốt thời kỳ từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Những hình ảnh này nhằm mục đích làm dấy lên sự phản đối của quần chúng và nhằm cảnh báo những dân quân kháng chiến về hậu quả của việc bị bắt giữ.

Những ấn phẩm như vậy đã góp phần giúp Việt Minh giành được sự ủng hộ của thế giới, và vào ngày 19/5, 300 trí thức người Pháp đã đồng loạt ký vào đơn kiến nghị thúc ép phải đàm phán với Việt Minh. Một ngày sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và ông Hoàng Minh Giám đã từ chối thỏa thuận đình chiến với người Pháp, một phần vì thất bại của thỏa ước ngừng bắn vào năm 1946. Vào đầu năm 1947, hầu hết tướng lĩnh quân đội Pháp tiên đoán sẽ có một chiến thắng chớp nhoáng trước Việt Minh vì các lực lượng chống thực dân hình thành trong Cách mạng Tháng Tám bắt đầu trở nên mâu thuẫn gay gắt, đặc biệt là ở miền Nam. Tuy nhiên, quân đội Pháp cũng đang nhận ra rằng họ khó mà chế ngự được lực lượng Việt Minh ở phía Bắc.

Thiết lập kinh tế thời chiến

Khi chiến tranh Đông Dương bước sang năm thứ hai, không bên nào đạt được tiến triển rõ rệt. Lực lượng công nhân cao su và Việt Minh đã áp dụng một loạt chiến lược trong bối cảnh chính trị và quân sự phức tạp này, bao gồm chiếm giữ các trạm phát thanh, hất đổ mủ cao su, đập vỡ chén hứng mủ, và đồng loạt trốn khỏi đồn điền.

1-1-1280x906-1.png
Du kích đồn điền cao su Dầu Tiếng tham gia kháng chiến

Các cuộc phản đối của công nhân kết hợp với nhiều chiến thuật đa dạng​

Những hành động này có hiệu quả hơn việc đơn thuần chặt phá cây cao su vì nó làm giảm lợi nhuận của công ty nhưng không hủy hoại tiềm năng sản xuất trong tương lai. Tuy nhiên, những hoạt động khác lại không chuyên biệt như vậy, chỉ là cố gắng phá hoại các đồn điền khi có thể, cùng những cuộc phản đối của công nhân thường kết hợp với nhiều chiến thuật đa dạng. Ví dụ, vào ngày 28/1/1948, công nhân ở đồn điền An Viễng và Bình Sơn (thuộc công ty Đồn điền Đất Đỏ) đã đốt các phương tiện của đồn điền và chạy đến vùng giải phóng Những vụ phá hoại do Việt Minh tổ chức có tác dụng duy trì nhuệ khí chống thực dân hơn là làm đình trệ hoạt động kinh tế của người Pháp, và các lãnh đạo Việt Minh bắt đầu phối hợp việc phá cây cao su với những hoạt động chống thực dân khác. Vào năm 1948, Chi đội 1 trở thành thành Trung đoàn 301 và Chi đội 10 trở thành Trung đoàn 310 vì lãnh đạo Việt Minh nỗ lực kết hợp những hoạt động đấu tranh rời rạc, cục bộ thành một cấu trúc quy mô hơn. Đồn điền đã nuôi sống những đơn vị này bởi vì công nhân cao su chiếm phần lớn lực lượng của Trung đoàn 310 và là một lực lượng đáng kể trong các Trung đoàn 300, 301, 309, 311 và 312. Bằng cách kéo công nhân rời khỏi nền công nghiệp, cuộc kháng chiến đã làm dấy lên mối đe dọa thực sự với các đồn điền vì phải đối diện với sự khan hiếm nhân công nghiêm trọng. Theo cuốn Cuộc chiến của công nhân đồn điền cao su, 8.000 thành viên của nghiệp đoàn xuất thân từ hàng ngũ công nhân cao su, một tỷ lệ cao so với tổng số 24.000 công nhân cao su trên toàn miền Nam.

Vào tháng 1/1949, 17 đại diện của các lực lượng Việt Minh ở miền Nam đã có buổi họp mặt để đánh giá lại những hoạt động trong năm 1948 của Mặt trận Cao su chiến. Thành công của lực lượng Việt Minh có sự khác biệt đáng kể giữa các tỉnh, tuy vậy biên bản cuộc họp đã ghi lại nhiều thành tựu, trong đó có vụ phá hủy nhà máy Vên Vên. Lực lượng nòng cốt ở Thủ Dầu Một, tỉnh ở gần Sài Gòn nhất, đã phá hủy hầu hết cây cao su trong nửa đầu năm 1948 và tấn công những khu vực đồn điền trọng yếu khác, bao gồm cả các nhà máy.

Sau khi lực lượng nòng cốt ở Biên Hòa thành lập một Đại đội Cao su vào tháng 5, tỉnh này đã ghi nhận tỷ lệ triệt phá cây ở mức cao nhất. Đại đội Cao su của Biên Hòa phối hợp nhuần nhuyễn với Trung đoàn 310 – trung đoàn vũ trang của tỉnh. Ở Bà Rịa và Tây Ninh, con số này khá thấp trong suốt năm 1948 bởi hoạt động rời rạc của Mặt trận Cao su chiến. Ở Bà Rịa, Trung đoàn 307 đã hỗ trợ các hoạt động triệt hạ cây cao su và hỗ trợ các dân tộc thiểu số.

Người Pháp thúc đẩy những nỗ lực quân sự mạnh mẽ nhằm hoàn tất những bước tiến về mặt chính trị và ổn định tình hình ở Nam Kỳ. Chương trình “bình định” này do Tướng Piere-Georges Boyer de la Tour du Moulin (ảnh dưới) chỉ huy. Các tháp canh mang tên “de la Tour” là biểu tượng cho nỗ lực nắm quyền kiểm soát toàn bộ khu vực miền Nam, bao gồm các thôn làng, ruộng lúa, những khu rừng ở Đồng bằng sông Cửu Long và khu vực đồn điền.
De latour Black and White Stock Photos & Images - Alamy


Lực lượng nòng cốt của Việt Minh cố gắng vô hiệu hóa những tháp canh đó, và những cuộc tấn công vào những vị trí này đặc biệt nổi bật trong huyền thoại về các chiến dịch quân sự của họ. Vào mùa thu năm 1949, người Pháp đã xây dựng khoảng 3.000 đồn quân sự với 70.000 quân lính bảo vệ, biến khu vực Đông Nam Bộ thành vùng được kiểm soát chặt chẽ đầy hiệu quả. Sau một loạt thất bại, Việt Minh buộc phải thay đổi chiến thuật quân sự, và những lãnh đạo ở miền Bắc đã gửi những chỉ thị cho Nguyễn Bình để chuẩn bị cuộc đối đầu quân sự trực tiếp với Pháp. Vào ngày 18/8, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ban hành chỉ thị chuyển từ du kích chiến sang vận động chiến. Để hưởng ứng, Xứ ủy Nam Bộ bắt đầu chuẩn bị tổng phản công.

Thay đổi chiến lược đấu tranh​

Những kế hoạch của Việt Minh trong năm 1949 bao gồm ba hoạt động chính ở đồn điền: tổ chức, phòng thủ và tấn công. Việt Minh cũng nhắc lại sự cần thiết của việc triệt hạ cây cao su, và phân phát dao để chặt cây. Tuy nhiên, vào ngày 17/11, ông Lê Duẩn, lúc này là Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, đã ban hành các chỉ thị mới cho phong trào đấu tranh ở Nam Bộ. Những chỉ thị này bao gồm một mệnh lệnh phá hủy những nguồn lợi của Pháp nhưng không được động đến cây cao su. Quyết định này được đưa ra một phần là để tránh việc phu đồn điền xa lánh lực lượng Việt Minh, đồng thời ông Lê Duẩn cũng khẳng định rằng đồn điền cao su là một phần tạo nên sự thịnh vượng của đất nước trong tương lai.

“Cây cao su”, ông nói, “là nguồn lợi lớn của Tổ quốc, chúng ta phải chăm sóc, bảo vệ và không được chặt phá”. Vì việc chuyển chỉ thị đến lực lượng thực thi khó khăn nên hoạt động bảo tồn lẫn chặt phá vẫn tiếp tục diễn ra mãi đến sau năm 1949, nhưng lời kêu gọi của Bí thư Xứ ủy Lê Duẩn đánh dấu một sự thay đổi lâu dài mang tính chiến lược. Kể từ đó, lãnh đạo Việt Minh bắt đầu xem các đồn điền cao su là nguồn cung cấp tiền và nhu yếu phẩm trực tiếp, như là một nguồn lợi tự nhiên sẽ còn lại sau khi người Pháp ra đi. Kết quả là họ đã làm theo những phương pháp được điều chỉnh tốt hơn để bảo tồn cây cao su và thâu nhận nguồn tài nguyên cùng nhân lực từ ngành công nghiệp này. Trong sáu tháng đầu năm 1950, công nhân đồn điền An Lộc đã phóng hỏa 2.100 tấn cao su và phá hủy 6 xe tải, gây ra thiệt hại đến 2.000 đồng Đông Dương, nhưng vẫn cẩn thận tránh tàn phá cây cao su. Công nhân ở Trảng Bom đốt cháy 34.000 kg cao su và 28 phương tiện vận tải trị giá 600.000 đồng Đông Dương, nhưng họ cũng không hủy hoại cây cao su. Mặc dù cuộc chiến ở Campuchia không lan rộng như ở Nam Kỳ, nhưng ở đó vẫn có chỗ cho những nỗ lực chống thực dân. Năm 1949 đã chứng kiến sự thành lập của Nhà nước Campuchia và ra đời của Hiệp hội Công nhân Cao su Campuchia do Thanh Sơn cùng những người khác sáng lập. Tổ chức này ra đời cuối năm 1949, đã ủng hộ “cuộc đấu tranh cải thiện mức sống cho công nhân, phá hủy đồn điền, và ủng hộ bộ đội (Việt Minh) trong vùng.

Để bảo tồn những nguồn lực có giới hạn trong khi chiến đấu với những nhóm như vậy, quân đội Pháp đã nỗ lực thành lập những lực lượng “tự vệ”, một số cá nhân ở các đồn điền còn gia nhập cái gọi là Quân Tình nguyện Giải phóng, hoạt động như lính địa phương. Nhưng nhiều chủ đồn điền người châu Âu không mấy nhiệt tình với kế hoạch này, nhận ra sự hẻo lánh ở khu vực của họ và tính bất khả thi của việc tuần tra mạng lưới những con đường mênh mông trong đồn điền. Hơn nữa, vì gặp khó khăn trong tuyển dụng nhân công lành nghề cho việc sản xuất cao su nên các điền chủ chỉ dành rất ít nhân lực cho các bổn phận về quân sự. Cuối cùng, các quản lý đồn điền đành đi tới một thỏa ước tạm thời với lực lượng chống thực dân, trong đó dòng chảy nguyên liệu ra, vô từ đồn điền vẫn sẽ được tiếp tục. Đổi lại, các đồn điền sẽ phải trích ra một phần lương thực thực phẩm, tiền mặt, và những nhu yếu phẩm khác.
 
Sửa lần cuối:

Những thành tố chiến tranh lạnh

Ngoài yếu tố môi trường, các thành phần của đồn điền cũng trở thành mục tiêu của các cuộc tranh luận trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Sự thành lập của chính phủ lâm thời Quốc gia Việt Nam vào tháng 6/1949, do Bảo Đại làm Quốc trưởng, dẫn đến việc tái cơ cấu tổ chức chính trị và luật pháp đã giúp một số người Việt nắm giữ những chức vụ trong chính quyền, chẳng hạn như quản lý bộ phận lao động di cư.

IMG_4509-1280x853-1.jpg
Hiện vật của công nhân cao su trưng bày tại Nhà truyền thống Cao su Dầu Tiếng.

Tăng cường tuyển dụng công nhân từ miền Bắc

Thái độ hiếu chiến hơn của Bộ Lao động và Hoạt động xã hội trong các cuộc đàm phán về tuyển dụng lao động cho đồn điền đã cho thấy sức ép đối với nền độc lập của Việt Nam. Lúc đầu, Thanh tra Lao động chỉ miễn cưỡng cho phép tiến hành hoạt động tuyển dụng vì sợ rằng việc này sẽ mở đường cho lực lượng Việt Minh di chuyển vào Nam và kích động phong trào đấu tranh của công nhân. Những quan chức khác lại lo ngại rằng lực lượng lao động người Việt được đưa đến Campuchia có thể gây nên tình trạng căng thẳng với dân chúng địa phương. Song ảnh hưởng cố hữu của ngành công nghiệp cao su rất khó để cải tổ, và các quan chức người Việt cũng phải trải qua quãng thời gian khó khăn mới có thể kiểm soát được ngành công nghiệp này. Những khó khăn như vậy đã thúc đẩy những người chỉ trích rút ra kết luận rằng các nhà lãnh đạo Quốc gia Việt Nam đã tích cực ủng hộ ngành công nghiệp cao su.

Việc sử dụng tù nhân chính trị và tù nhân chiến tranh làm lực lượng lao động, vị trí của lao động Việt Nam ở Campuchia, nhu cầu cải cách lao động, và vai trò của các doanh nghiệp nước ngoài trong một nước Việt Nam độc lập, tất cả những điều này trở thành những chủ điểm của các cuộc tranh luận. Một trong những vấn đề đầu tiên được đưa ra là lỗ hổng chính trị của việc đưa vào đồn điền những “tù nhân chiến tranh” từ miền Bắc. Hầu hết những người bị gọi là “tù nhân chiến tranh” này thật ra là người miền Bắc hoặc miền Trung Việt Nam, do chiến tranh nên họ phải rời bỏ làng quê, nhiều người trong số đó không hề đồng tình với Việt Minh. Việc sử dụng những người di cư sống trong các khu trại tập trung đã làm dấy lên lời cảnh báo trong các nhóm nhân quyền và những người quan tâm đến vấn đề sử dụng lao động cưỡng bức, vốn đã chính thức bị cấm trong các vùng do Pháp kiểm soát kể từ ngày 8/2/1947.

Việt Minh lên án tình trạng tuyển dụng như vậy, và các thành viên trong chính quyền ở miền Nam cũng có những mối lo ngại tương tự. Hải Phòng trở thành trọng điểm cho những cuộc biểu tình phản đối vấn đề nêu trên; thành phố này tiếp tục trở thành điểm khởi hành cho những người đi vô miền Nam; lãnh đạo Sở Lao động của thành phố đã trì hoãn quá trình tuyển dụng. Thay vì thuyết phục giới cầm quyền của miền Bắc Việt Nam thay đổi, các chủ đồn điền lại kêu gọi sự đồng thuận của các quan chức người Pháp và chính quyền miền Nam; vào tháng 3/1949, một đồn điền đã nhận được quyền tuyển dụng 780 “cu-li”. Với sự cho phép của chính phủ, những nhóm công nhân, mỗi nhóm có từ 80 đến 200 người, đã được máy bay chở vô Sài Gòn – hành động này bị nhiều tờ báo ở miền Bắc lên án.

IMG_4499-1280x853-1.jpg
Hiện vật của công nhân cao su trưng bày tại Nhà truyền thống Cao su Dầu Tiếng.
Trong khi đó, các chủ đồn điền tiếp tục những nỗ lực để tuyển dụng con số 2.500 nhân công. Họ đưa ra nhu cầu tuyển dụng mới. Ủy viên Cộng hòa Nam Kỳ vẫn chưa giải quyết yêu cầu này cho tới khi có thêm nhiều kênh tuyển dụng hợp thức được thiết lập. Trong quá trình quyết định đâu là các biện pháp tuyển dụng tốt nhất, hoàng tử Bửu Lộc đã viết một lá thư vào ngày 19/11/1949 hỏi ý kiến của Nguyễn Văn Xuân về việc tuyển dụng tù nhân chiến tranh miền Bắc. Gần một tháng sau, ông Xuân hồi đáp rằng cách tuyển dụng đó là vấn đề rất nhạy cảm – được minh chứng qua sự phản đối của báo chí miền Bắc.

Dước góc độ chính trị, việc sử dụng “tù nhân” mang đến một chiến thắng về mặt tuyên truyền cho những người ******** địa phương, những người luôn sử dụng chủ đề về những sự áp bức thời thuộc địa trong quá trình mộ phu và tại các đồn điền để lên án người Pháp và chính quyền thân Pháp. Mặc dù nhận ra nhu cầu cấp bách về lao động của các đồn điền, nhưng ông Xuân vẫn chỉ ra rằng “việc sử dụng người tản cư do các cuộc giao tranh quân sự” rất dễ đưa đến một ấn tượng trong con mắt của nhiều người dân miền Bắc rằng quân đội Pháp đang bố ráp người dân để đưa đến các đồn điền vốn là những địa ngục trần gian, hay vùng thuộc địa lưu đày, theo cách nhìn nhận của nhiều người miền Bắc. Thêm vào đó, miền Bắc đang cần được tái thiết mạnh, và nếu mất quá nhiều lao động cho miền Nam sẽ gây ra khó khăn và ảnh hưởng đến sự cân bằng xã hội. Dĩ nhiên, ông Xuân viết rằng, tình hình có thể sẽ thay đổi, nhưng ông đề nghị khoan chấp thuận vào lúc đó. Cuộc tranh luận về việc có giao quyền hay không cho các công ty cao su tuyển dụng phu từ miền Bắc vẫn tiếp diễn trong suốt mùa xuân cho đến đầu mùa hè năm 1950. Minh chứng cho sự căng thẳng mang tính địa phương cũng như những khác biệt về chính trị là việc nhiều quan chức miền Bắc, bao gồm Mai Ngọc Thiệu – Bộ trưởng của Bộ Lao động và Nhân sự phản đối tuyển dụng lao động không hạn chế, nhưng các quan chức miền Nam như Trần Văn Hữu, thủ tướng Quốc gia Việt Nam lúc bấy giờ, thường sẵn lòng ngay lập tức cho phép tuyển dụng. Thiệu lên tiếng phản đối bất kỳ dòng di cư nào của nhân công miền Bắc, ông viết rằng các nhà tuyển dụng người Pháp không đáng tin. Như ông Xuân, Thiệu trích dẫn những phản đối bất lợi của công luận và nói rằng người miền Bắc sợ phải rơi vào tay các nhà tư bản. Thiệu, tuy vậy, đã thừa nhận những lý do nên ủng hộ việc di cư lao động vào miền Nam, bao gồm tình trạng thất nghiệp, nhu cầu cải tạo đồn điền để làm ra của cải cho đất nước, và khả năng tận dụng người nước ngoài như người Trung Quốc hay Mã Lai để đáp ứng nhu cầu về nhân công.

Thay vì từ chối thẳng thừng, Thiệu lại nêu lên những cải cách cấp thiết trong hợp đồng lao động, ví dụ như công nhân có quyền chấm dứt hợp đồng nếu xảy ra tình trạng bạo hành hay ngược đãi ở đồn điền. Thiệu cho rằng nên hạn chế mức tuyển dụng dưới 1.000 nhân công, với thời hạn hợp đồng một năm. Ông tiên đoán sự phản đối mạnh mẽ từ phía các chủ đồn điền, nhưng cũng chỉ ra rằng nếu những công nhân được đối xử tốt thì phần lớn họ sẽ tiếp tục ký hợp đồng lao động ở đồn điền”. Để đáp trả, thủ hiến miền Bắc Nguyễn Hữu Trí đình chỉ mọi sự tuyển dụng và đợi đến khi có quyết định của Bộ trưởng Bộ Lao động. Trong lúc đó, Hiệp hội Chủ đồn điền đầy quyền lực, được sự nâng đỡ của Trần Văn Hữu, người đứng đầu Hội đồng Chính phủ Quốc gia, tiếp tục bao biện cho mình. Ông Hữu nghĩ rằng sự đình chỉ này và các đề nghị thay đổi đối với với luật lao động sẽ gây thiệt hại rất vô lý đối với ngành công nghiệp cao su và đe dọa hoạt động sản xuất đang sinh lợi. Hơn nữa, ông cho rằng Việt Nam đang cố gắng thu hút vốn và đầu tư quốc tế, và chính những điều kiện lao động nghiệt ngã như vậy sẽ xua đuổi các nhà đầu tư.

Gía trị của lao động vùng nhiệt đới

Một trong những vấn đề gây tranh cãi nhất trong ngành cao su trước Thế chiến lần thứ II là lương của công nhân và các cuộc đấu tranh về lương bổng vẫn tiếp diễn trong suốt thập niên 1940. Chính phủ bắt đầu xác lập quyền kiểm soát đối với ngành công nghiệp này vào mùa xuân năm 1946 bằng việc thành lập một ủy ban để xác định mức lương tối thiểu cho những công nhân đồn điền có ký kết hợp đồng.

Việc đảm bảo quyền lợi cho công nhân rất ít ỏi​

Tương tự như mối quan tâm về việc bảo vệ đầu tư nước ngoài trực tiếp được thể hiện khắp nơi ở Đông Nam Á. Trớ trêu thay, quan điểm của người Việt về nguồn lao động di cư này đã tạo ra một sự phân chia lợi ích thuộc địa, trong đó các quan chức và chủ đồn điền người Pháp ở miền Nam muốn tiếp cận nguồn dân cư được coi là rất đông đúc ở miền Bắc. Thủ hiến Nam Việt đề nghị thành lập một ủy ban gặp nhau ở Sài Gòn, trong đó qui tụ các đại diện của Bộ trưởng Bộ Lao động, Thủ hiến Bắc Việt, Thủ hiến Nam Việt và Hiệp hội Những người trồng cao su.

Tại cuộc gặp, vốn phản ánh và cụ thể hóa những mối liên kết giữa chính phủ và doanh nghiệp, các đại biểu đồng ý là nên soạn lại bản hợp đồng mẫu của năm 1927, chính phủ nên có nhiều công cụ hơn để buộc các chủ đồn điền thi hành những điều khoản của hợp đồng lao động, và tiêu chuẩn cuộc sống của công nhân cần phải được cải thiện. Các đại biểu cũng thống nhất chấm dứt việc tuyển dụng tù nhân chiến tranh cũng như các phương thức tuyển dụng lao động cưỡng bức, cắt giảm thời hạn hợp đồng từ 3 năm xuống còn 30 tháng, giảm giờ làm việc trong tuần từ 60 giờ xuống 48 giờ, tăng thời lượng nghỉ phép có lương từ 8 ngày lên 11 ngày, trao cho thanh tra lao động nhiều quyền giám sát hơn đối với quy trình tuyển dụng, và tăng cường điều kiện vật chất nhằm đảm bảo đời sống cho công nhân cùng gia đình họ.

Những nhượng bộ như vậy là vẫn còn quá ít ỏi, vì trong khi các đại biểu miền Bắc muốn những hợp đồng chỉ có giá trị 1 năm, song họ chỉ có thể thương lượng giảm được 6 tháng so với hợp đồng năm 1927. Sự thay đổi này, tuy vậy, đã được thiết lập trong thời kỳ Mặt trận Bình dân. Vì vậy, bản giao kèo mới này tượng trưng cho chiến thắng của các doanh nghiệp và chỉ đáp ứng tối thiểu các tiêu chuẩn quốc tế hoặc quá mập mờ để có thể chấp nhận trì hoãn thi hành.
Việc đền bù thiệt hại cho gia đình các công nhân tử vong vì tai nạn lao động cũng là một điểm gây tranh cãi. Vào năm 1950, thợ sửa xe Phạm Văn Ban đã tử vong khi đang sửa chiếc xe tải nhỏ tại đồn điền Quản Lợi ở Thủ Dầu Một. Gia đình bất hạnh của nạn nhân chỉ được đồn điền bồi thường 4.529,7 đồng Đông Dương (chưa tới 300 USD) – tương đương khoản tiền lương một năm. Mặc dù số tiền này nhiều hơn 5 đồng Đông Dương so với giá trị mạng sống của một nhân công vào những năm 1920, nhưng so ra số tiền đó vẫn chẳng là bao.

Hơn nữa, các quản lý phần lớn vẫn chưa phải nhận hình phạt nào vì những hành vi bạo lực đối với nam, nữ công nhân, cho dù các công nhân đã thật sự phải cố gắng chống chọi lại. Điệp Liên Anh ghi nhận từ năm 1945 đến năm 1954 “công nhân cao su là nguồn lực của cả hai phía… Việt Minh cố gắng hướng công nhân cao su vào cuộc đấu tranh chống lại người Pháp”. Trung đoàn 303 ở tỉnh Thủ Biên được thành lập vào năm 1951 từ việc sáp nhập giữa Thủ Dầu Một với Biên Hòa, có 95% số thành viên là công nhân cao su. Công nhân cũng chiếm lấy tài sản của đồn điền, từ bò đến hóa chất, có những bài thơ được viết để ca ngợi những nữ nhân công đã tiếp tế cho binh lính.

Đấu tranh đòi tăng lương​

Hầu hết các quan chức Việt Nam chấp nhận khuôn khổ về pháp lý – y tế cho người lao động đã được thiết lập trong thời kỳ thuộc địa. Đầu năm 1949, Bộ trưởng Bộ Lao động và Hoạt động xã hội Ngô Quốc Côn đã viết một báo cáo cho quốc trưởng lâm thời của Việt Nam đề cập vấn đề mức lương tối thiểu cho công nhân nông nghiệp. Trong báo cáo của mình, vị bộ trưởng đã trình bày đầy đủ chi tiết về những lợi ích tài chính và phi tài chính mà lực lượng lao động đồn điền đã nhận được. Dựa trên lập luận khoa học thời thuộc địa của mình, ông ta đề cập vấn đề gia tăng phúc lợi. Ông cho rằng giá trị tài chính của khẩu phần dinh dưỡng có thể thay đổi theo không gian và thời gian, nhưng tỉ lệ của bản thân nó là không thay đổi, vì vậy cơ thể người Việt Nam ở miền Bắc có cùng nhu cầu như những người ở miền Nam.

Do đó, khẩu phần này có thể được xem là “cơ sở khoa học để xác định một phần tiền lương”, cùng với các nhu cầu khác của con người, như nhà ở và sức ép liên quan đến giá cả các loại thực phẩm, bằng một tỷ lệ cố định. Bên cạnh vấn đề lương thực, nhà ở và các khoản trợ cấp khác được nêu trong các quy định về lao động ban hành năm 1927, vị bộ trưởng kết luận rằng mức lương hiện tại là không đủ và người lao động nên được phép có nhiều quyền kiểm soát hơn đối với cách mà họ nhận được các khoản trợ cấp để điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh của gia đình mình.

Trong khi đó, công nhân đang đấu tranh để yêu cầu tăng mức lương này, vào ngày 30/4 và 1/5/1949, hơn 200 công nhân ở đồn điền An Lộc và Courtney đã đình công đòi tăng lương. Theo thói quen của nông dân Đông Á, họ đã ký tên của mình thành một vòng tròn để không xác định được người ký đầu tiên và đã thành công trong việc đòi tăng lương từ 3,5 đồng Đông Dương lên 5,25 đồng Đông Dương mỗi ngày. Những nhượng bộ như vậy cho thấy các chủ đồn điền đang rất cần công nhân, nhưng họ chỉ sẵn sàng tăng lương khi công nhân chủ động đấu tranh. Những người chỉ trích mức lương thấp và biện pháp tuyển dụng khắc nghiệt thường công kích ngành công nghiệp cao su bằng cách nêu ra lợi nhuận mà các đồn điền cao su thu được. Ví dụ, một báo cáo được lưu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III đã xem xét các chi phí và lợi nhuận từ việc sản xuất cao su của Công ty Đồn điền Đất Đỏ ở Campuchia. Với sản lượng hàng năm từ 1.000 đến 2.000 tấn cao su của Công ty Đồn điền Đất Đỏ, mức lợi nhuận đạt từ 800.000 đến 1.600.000 đồng Đông Dương (tương đương 50.000 USD đến 100.000 USD). Theo tính toán của Việt Minh, lợi nhuận trên toàn Đông Dương vào năm 1948 của ngành cao su là 224.200.000 đồng Đông Dương (tương đương 12 triệu USD). Trong cuộc tranh luận năm 1950 về tuyển dụng lao động, ông Thiệu và chính phủ Quốc gia Việt Nam cũng nêu lên vấn đề tiền lương. Chính phủ Quốc gia Việt Nam chỉ ra rằng những lao động phổ thông tại Hà Nội kiếm được 15 đồng Đông Dương mỗi ngày, trong khi những lao động có tay nghề cao kiếm được 40 đồng Đông Dương. Xem xét việc cung cấp gạo, nhà ở, quần áo, phương tiện đi lại và công cụ, mức lương tương đương cho các đồn điền sẽ vào khoảng 10 đồng đến 25 đồng Đông Dương. Vào thời điểm đó, tiền lương thực tế tại các đồn điền đã được quy định đối với mỗi lao động phổ thông và lao động lành nghề lần lượt là 4,25 đồng Đông Dương và 5,25 đồng Đông Dương mỗi ngày.

Các đại biểu đã không thể đạt được sự đồng thuận về vấn đề này, và đại diện của các chủ đồn điền đã rời cuộc họp cùng với lời hứa “sẽ trao đổi với hiệp hội”. Trong một ghi chép không rõ ngày tháng vào khoảng đầu năm 1950, Công ty Đồn điền Đất Đỏ đã tự đưa ra những tính toán của họ về mức lương. Không có gì ngạc nhiên khi công ty cho rằng mức lương hiện tại 4,25 đồng Đông Dương và 5,25 đồng Đông Dương là hợp lý. Mức lương này đã bao gồm mọi khoản trợ cấp vật chất mà đồn điền cung cấp, căn cứ vào mức chi tiêu của gia đình những lao động phổ thông và lao động lành nghề tại Sài Gòn theo tính toán của Viện Thống kê và Khảo cứu Kinh tế (Institute de la statictique et des études économique). Những mức chi tiêu gia đình như vậy không đưa ra các mức giá tuyệt đối; chúng được tính toán dựa trên các khoản tiền chi tiêu tương đối cho thuốc men, quần áo, thực phẩm và giải trí.
 
Sửa lần cuối:

Mức tăng nhỏ giọt

Việc áp dụng thời giá của miền Nam và mức lương trung bình tại Sài Gòn là 12 đồng Đông Dương và 14 đồng Đông Dương với lao động phổ thông và lao động lành nghề đã phản ánh sự khác biệt quan trọng trong cách tính toán. Việc sử dụng mức lương thấp hơn tại miền Nam, nơi nông dân từ miền Bắc và miền Trung tới làm việc, cho mức chi phí sinh hoạt và mức lương cao hơn tại miền Bắc, nơi nông dân sẽ sinh sống về sau và tiêu khoản tiền dành dụm của họ, tiếng Pháp gọi là pécule, sẽ khiến người lao động phải chịu thiệt. Các chủ đồn điền và quan chức cuối cùng cũng thống nhất với mức lương 8 đồng và 10 đồng Đông Dương. Thoạt nhìn, việc tăng lên 8 đồng là một sự cải thiện đáng kể so với mức lương 40 xu (hay centime) của năm 1939 nhưng trên thực tế, mức tăng này là rất nhỏ. Như Việt Nam Kinh tế Tập san (Bulletin économique du Viet-Nam) đã nêu, chi phí sinh hoạt cuối thập niên 1940 tăng 2.000% so với năm 1939.

126945214_10215811181346450_6340861539845884505_n.jpg

Công nhân cao su thời Pháp đang làm việc

Một tính toán đơn giản cho thấy tỷ lệ phần trăm lạm phát này phù hợp với mức tăng lương từ 40 xu lên 8 đồng Đông Dương, trên thực tế, việc tăng lương cho công nhân cao su chỉ là biện pháp đối phó với giá cả lạm phát. Mức lương cuối thập niên 1930 thường được cho là ở mức cực thấp do những tác động kép của chế độ thực dân và thời kỳ suy thoái. Các đồn điền đã tăng tỷ lệ những giống cây ghép cho năng suất cao, một thành tựu thường được các chủ đồn điền khoe khoang, và trên thực tế công nhân chỉ đang khai thác những cây tốt nhất, điều đó đã cho thấy sự gia tăng đáng kể về năng suất, và những điều này đều không mang lại lợi ích cho công nhân.
Trong bối cảnh các cuộc đình công vẫn tiếp diễn, chính quyền của Nguyễn Văn Tâm (1895 – 1990) đã ban hành các quy định mới về lao động, trong đó cho phép công nhân được lập hội. Trong một động thái phản ứng, Trần Quốc Bửu và đồng minh người Pháp của mình là Gilbert Jouan đã thành lập Tổng Liên đoàn Lao Công Việt Nam tập trung vào công nhân ở vùng nông thôn, cố gắng tránh cả sự chi phối của những người ******** ở phía tả và sự kiểm soát của chính phủ ở phía hữu. Nhưng thủ tướng Nam Việt đã không bỏ mặc ngành công nghiệp cao su và vào tháng 3/1953, chính phủ đã thông qua một đạo luật trong đó tăng cường quyền kiểm soát của Bộ Lao động trong việc ứng phó với các cuộc đấu tranh của công nhân.
Các chủ đồn điền người Pháp đã phản ứng với lý do cho rằng chi phí sản xuất cao hơn giá cao su trên thị trường Sài Gòn. Họ cũng cho rằng việc trả tiền bảo vệ chiếm 10% đến 15% chi phí sản xuất. Theo Economic Bulletin, trong năm 1953, giá trung bình để sản xuất một ký cao su là 17,06 đồng Đông Dương, bao gồm 3,29 đồng chi trả cho công nhân nông nghiệp, 1,75 đồng Đông Dương cho chế biến tại nhà máy, 0,85 đồng Đông Dương cho vận chuyển và 1,50 đồng Đông Dương cho an ninh và các chi phí khác. Nhà sử học Marianne Boucheret, trái lại, đã trích dẫn các số liệu cho thấy rằng chi phí “tự vệ chỉ chiếm 1% đến 2% chi phí sản xuất cao su”. Trong khi đó, giá bán ở mức 13,96 đồng Đông Dương mỗi ký dẫn đến lỗ ròng 3,10 đồng Đông Dương.

Việc tăng lương đóng vai trò là công cụ quảng bá cho các đồn điền

Mặc dù giá bán cao su trung bình hàng tháng tại Sài Gòn dao động rất lớn trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ I, nhưng nhìn chung nó vẫn tương đối cao trong những năm chiến tranh và vẫn tiếp tục được đẩy lên cao hơn do nhu cầu của Chiến tranh Triều Tiên. Giá bán tăng từ mức thấp khoảng 7,50 đồng Đông Dương mỗi ký vào cuối năm 1949 lên mức cao 28,40 đồng Đông Dương trong nửa đầu năm 1951, giảm từ từ xuống mức thấp 11,70 đồng Đông Dương mỗi ký vào tháng 8/1952 trước khi tiếp tục tăng trở lại. Sự biến động này của giá cao su tự nhiên đi theo giá cả thị trường thế giới tập trung tại Singapore, vốn đã chứng kiến mức giá cao nhất kể từ thập niên 1920 và đạt đỉnh vào giữa năm 1951 bằng 660% mức giá mùa hè năm 1949. Trong khi sự tăng giá khủng khiếp này mang lại sự giàu có ngoài sức tưởng tượng cho Singapore, Boucheret cho rằng những ảnh hưởng của nó ở Việt Nam lại ít hơn rất nhiều. Trong mọi trường hợp, sự mất giá của đồng Đông Dương trong nửa đầu năm 1953 đồng nghĩa với việc xuất khẩu cao su của Việt Nam và Campuchia trở nên cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới, góp phần làm tăng khối lượng hàng bán.
Trong suốt chuỗi biến động này, tiền lương tăng đều đặn từ 8 đến 10 đồng Đông Dương vào giữa năm 1950 lên 22 đến 49 đồng Đông Dương vào cuối năm 1953. Sự gia tăng này một phần do giá cả sinh hoạt và giá cả nhân công tăng, cùng với sự mất giá của đồng Đông Dương so với đồng franc trong đầu năm 1953 nhằm bù đắp cho chi phí chiến tranh. Trong tháng 6 năm 1954, Economic Bulletin đã công bố những kết quả khảo sát đầu tiên về mức lương của công nhân cao su dựa trên dữ liệu thu thập được từ 18 đồn điền đã thuê tổng cộng 13.483 nhân công. Những báo cáo về việc tăng lương đóng vai trò là công cụ quảng bá cho các đồn điền. So với mức lương của người lao động ở Sài Gòn – Chợ Lớn tại thời điểm đó, mức lương tại các đồn điền vẫn không thay đổi và đã đạt sự chênh lệch lớn nhất so với công nhân lành nghề: cụ thể, mức lương của công nhân nam phổ thông là 31,75 đồng Đông Dương, của công nhân nữ phổ thông là 27,65 đồng Đông Dương và công nhân lành nghề được trả mức bình quân là 55,64 đồng Đông Dương.
Sự chênh lệch được rút ngắn giữa mức lương của lao động thể cho thấy nhu cầu về lao động rất lớn. Trong khi tình hình hỗn loạn cao độ của chiến tranh khiến sự chênh lệch tiền lương theo thời gian và không gian trở nên khó so sánh được, thì sự thiếu thiện chí của các chủ đồn điền thể hiện qua động thái bí mật gây sức ép buộc chính quyền do Pháp hậu thuẫn trả chi phí cho các dịch vụ giáo dục mà họ khoe khoang như một minh chứng về sự hào phóng của mình. Chính quyền từ chối yêu cầu này, cho rằng các trường địa phương là trường tư, vì chúng được các đồn điền lập ra và điều hành. Mặc dù thường xuyên từ chối những lời đề nghị kiểu như vậy, song chính phủ đã ngầm hỗ trợ các đồn điền bằng cách hạn chế kiểm soát những hoạt động của họ
Những năm cuối của Thế chiến thứ II và hai năm đầu của cuộc chiến giữa lực lượng Pháp và Việt Minh đã làm suy yếu hệ thống y tế và làm cho tình trạng bệnh tật trở nên tồi tệ hơn. Theo báo cáo hàng năm của chính phủ, tổn thất về nhân sự và việc phá hủy cơ sở vật chất đã cản trở các nỗ lực chăm sóc sức khỏe. Tác giả của báo cáo nhấn mạnh sự sụt giảm mạnh về nhân sự y tế người châu Âu, trong khi vẫn còn nhiều bác sĩ Việt Nam ở một số vùng, đặc biệt là Sài Gòn. Sốt rét tiếp tục là một thách thức lớn đối với vùng nông thôn vì thiếu thuốc men để điều trị căn bệnh này. Ví dụ, Đặng Văn Cương, Bộ trưởng Y tế người Việt đầu tiên, chỉ ra rằng việc thiếu bác sĩ kết hợp với tình trạng chiến sự ác liệt tại vùng nông thôn đã chấm dứt hoạt động thanh tra tại các đồn điền. Cả cộng đồng y học và khoa học đều phải đối mặt với thực tế của công cuộc phi thực dân hóa


Xã hội hoá tri trức​

Sự liên kết của các đồn điền cao su với việc sản sinh và lưu thông nguồn tri thức thuộc địa đã thách thức các nhà lãnh đạo chống chủ nghĩa thực dân áp dụng những quan điểm mang sắc thái khoa học hơn.

126881575_10215811180426427_3304460104523342036_n.jpg
Người Pháp thúc đẩy công tác nghiên cứu về cây cao su.

Thành lập các viện, trạm nghiên cứu về cao su​

Số phận của Viện Nghiên cứu Cao su Đông Dương là ví dụ về những áp lực bủa vây công tác nghiên cứu khoa học. Viện này được thành lập vào năm 1941 để thực hiện các điều khoản của Hiệp ước Cao su Quốc tế năm 1934. Món nợ của Đông Dương với các đế quốc thực dân là cái cớ bề ngoài để thành lập Viện Nghiên cứu Cao su Đông Dương, còn nguyên nhân thực tế xuất phát từ mong muốn của các chủ đồn điền người Pháp muốn duy trì tính cạnh tranh, vì mối đe dọa từ cao su tổng hợp và cả những lo ngại về việc rớt giá. Viện được tài trợ bằng nguồn vốn tư nhân và được thụ hưởng từ một di sản nghiên cứu của chính quyền về cao su. Nhiều cơ sở nghiên cứu của Viện, như trạm nghiên cứu nông nghiệp Lai Khê, được kế thừa từ chính quyền. Các cơ sở mới đã được xây dựng trên cả vùng đất xám và đất đỏ ở Nam Kỳ và Campuchia, các doanh nghiệp tư nhân sẽ đóng vai trò chính. Chẳng hạn, công ty Đồn điền Đất Đỏ đã cung cấp máy móc của mình cho Phòng Hóa học và Công nghệ của Viện Nghiên cứu Cao su Đông Dương để nghiên cứu các thuộc tính của mủ cao su.

Sự áp đảo hoàn toàn của ngành công nghiệp cao su trong việc quản lý viện được phản ánh trong thành phần của ban giám đốc, bao gồm năm đại diện của ngành và chỉ có một đại diện của chính quyền. Tuy nhiên, tổ chức nghiên cứu tư nhân này tiếp tục có quan hệ chặt chẽ với chính quyền. Giám đốc đầu tiên của viện là một kỹ sư nông nghiệp, người từng đứng đầu phòng thí nghiệm của các sở nông nghiệp thuộc chính quyền thuộc địa tại Đông Dương trong nhiều năm. Trên thực tế, những mối quan tâm của ngành công nghiệp cao su đã áp đặt viện nghiên cứu trong việc xác định phần lớn kiến thức nông học do các trạm nghiên cứu của viện tạo ra. Các trạm này phù hợp với sự phân chia lao động khoa học đã có từ trước giữa công nghiệp và chính quyền, tập trung vào lĩnh vực thực vật học kinh tế và khoa học về nhựa cây, để các trạm do chính quyền điều hành thực hiện những nghiên cứu đòi hỏi phải đo vẽ đất đai và lập bản đồ khí hậu. Các trạm của viện cũng có chức năng điều chỉnh, khi các nhà nghiên cứu phân loại cao su dành cho thương mại quốc tế và theo dõi dữ liệu thống kê sản xuất.


Năm 1941, sử dụng các dòng vô tính, hoặc các gốc ghép, đã được phát triển tại Đông Ấn Hà Lan và Mã Lai, trạm nghiên cứu nông nghiệp tại Lai Khê đã tạo ra các dòng vô tính của riêng mình. Lĩnh vực thực vật học kinh tế đang được vận hành tại các trạm của viện tiếp tục thực hiện các chương trình khoa học của thập niên 1930 và nhắm đến việc tạo ra giống cao su hevea phù hợp với điều kiện địa phương, nghiên cứu tập tính của các bộ phận trên cây trong mối quan hệ với một loạt các yếu tố sinh trưởng. Những nghiên cứu này phù hợp với xu hướng của ngành công nghiệp cao su vào cuối những năm 1940 và đầu những năm 1950, khi các nhà nghiên cứu tìm ra cơ chế sinh học của việc tạo mủ. Những thí nghiệm này rốt cuộc là nhằm trả lời cho một câu hỏi cơ bản: làm thế nào để có được năng suất cao su cao nhất trên mỗi đơn vị đầu vào và tạo ra năng suất của dòng vô tính trong thực tế gần hơn với năng suất tiềm lực về mặt lý thuyết của chúng”. Khoản tài trợ cho viện ban đầu đến từ Văn phòng Cao su Sài Gòn, được chu cấp từ nguồn thuế xuất khẩu cao su được ủy thác theo hiệp ước quốc tế năm 1934. Từ năm 1941 cho đến khi Nhật đảo chính Pháp năm 1945, viện đã hoạt động hiệu quả đến mức đáng ngạc nhiên. Đã có những dự thảo thành lập một trung tâm nghiên cứu mới tại Lai Khê mà sẽ nhấn mạnh tầm nhìn hiện đại về cao su, tập trung vào dây chuyền sản xuất và tạo ra sản phẩm về tri thức.

Tăng cường viện trợ, thúc đẩy công tác nghiên cứu khoa học

Năm 1949, việc thành lập Quốc gia Việt Nam đã tạo ra một cấu trúc pháp lý mới cho các tổ chức như Viện Nghiên cứu Cao su Đông Dương, trong đó các chủ đồn điền người Pháp vẫn giữ quyền kiểm soát. Bất kể áp lực của chính sách lấy quốc gia làm trung tâm và bao lực gia tăng cùng với sự suy giảm việc lưu chuyển nhân lực và dòng tiền từ Pháp; các chương trình hợp tác khu vực đã được thiết lập trở lại ở các quốc gia mới độc lập như Malaysia, Indonesia và Sri Lanka. Những liên kết khu vực này báo hiệu không còn những liên minh đế quốc nữa; thay vào đó, chúng phản ánh các liên minh trong Chiến tranh Lạnh dựa trên bản sắc các quốc gia. Các báo cáo kỹ thuật và báo cáo thường niên của thập niên 1950 càng cho thấy rõ nét hơn sự bất ổn như với tình trạng nghiên cứu khoa học ở Lai Khê. Từ năm 1952 đến năm 1958, các báo cáo đã phân loại những thí nghiệm thành hai loại: thí nghiệm khoa học cơ bản được thực hiện nhằm hiểu rõ hơn các đặc tính cơ bản của cao su và của mủ cây; và thí nghiệm khoa học ứng dụng nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể mà ngành công nghiệp cao su đang phải đối diện. Khả năng xây dựng tri thức ban đầu của các trạm được thúc đẩybởi các yêu cầu công nghiệp. Sau năm 1958, do sự suy giảm các thí nghiệm nên những kết quả nghiên cứu về sản xuất và tiêu thụ mủ đã được công bố cùng lúc và trở thành các hạng mục tổ chức của hoạt động nghiên cứu.

Chiến tranh Đông Dương lần thứ I đã trộn lẫn những tác động kinh tế đối với viện. Một mặt, chiến tranh mang lại nguồn lợi cho khoa học về cao su và đến năm 1952, ngân sách của Viện Nghiên cứu Cao su đã nhận được tổng cộng 2.250.000 đồng Đông Dương tiền bồi thường thiệt hại chiến tranh cho các công trình xây dựng và cơ sở hạ tầng. Khoản tiền này chiếm một tỷ lệ đáng kể trong ngân sách hàng năm của viện, nguồn ngân sách này vốn đã tăng đều đặn từ 6.358.818 đồng Đông Dương (khoảng 430.000 USD) vào năm 1949 lên 11.812.000 đồng Đông Dương vào năm 1952 (khoảng 670.000 USD). Theo đó, các trạm nghiên cứu chỉ chiếm khoản chi phí nhỏ; ngân sách hoạt động hàng năm của trạm Lai Khê vào năm 1949 ít hơn 200.000 đồng Đông Dương và doanh thu từ việc cạo mủ những cây cao su thử nghiệm cùng với thuế xuất khẩu cao su, đóng góp ngày càng nhiều hơn cho ngân sách của Viện. Sự gia tăng của nguồn ngân quỹ này càng làm dấy lên hoài nghi về những lời than vãn khó khăn của các chủ đồn điền trong các cuộc đàm phán về lương của công nhân
 
Sửa lần cuối:
Cong-nhan-san-xuat-mu.jpg
Công nhân sản xuất mủ thời Pháp.
Mặt khác, các phòng thí nghiệm và các lĩnh vực nghiên cứu của Viện phải chịu đựng vì những ràng buộc của họ với ngành công nghiệp cao su. Quân đội Pháp đã cố gắng tổ chức một số chủ đồn điền thành lực lượng “tự vệ” hoặc “tự bảo vệ” nhưng, như Marianne Boucheret đã chỉ ra, quân đội thường phàn nàn rằng các chủ đồn điền quan tâm đến lợi nhuận hơn là những lợi ích chiến lược. Đối với một số chủ đồn điền, tự vệ là sự tiêu tốn không cần thiết và đe dọa nỗ lực trung lập của họ. Họ cho rằng quân đội đã coi thường tình hình thực tế trong dân chúng và bỏ mặc các đồn điền tự bảo vệ mình. Phần lớn các đơn vị chủ lực của Việt Minh ở địa phương không phân biệt viện với các đồn điền khác.

Hầu như mỗi năm, báo cáo thường niên của Viện đều thống kê có một nhân viên người Pháp đã thiệt mạng hoặc bị thương nặng trong các vụ tấn công. Phần nhiều công nhân cạo mủ và quản lý người Việt Nam phải tự đối mặt với các mối đe dọa gần như hàng ngày vì hợp tác với người Pháp. Mối quan hệ giữa quân đội Pháp và các đồn điền càng rạn nứt hơn nữa trong thập niên 1950, khi quân đội không hỗ trợ các cuộc đấu tranh của các chủ đồn điền chống lại người lao động.

Tập trung sản xuất cao su ở miền Bắc​

Trong khi các trận chiến vẫn còn tiếp diễn tại miền Nam, thì các lãnh đạo Việt Minh đã bắt đầu quan tâm đến việc bắt tay vào sản xuất cao su ở miền Bắc. Cao su có ý nghĩa quan trọng trong một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mới được định hình và có giá trị quốc tế trong khối các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Các quốc gia – dân tộc và cường quốc hình thành nên mạng lưới này, bao gồm Liên Xô và Trung Quốc, đã tìm cách tiếp cận cao su, Việt Minh và sau đó là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã tận dụng lợi thế vị trí khí hậu của mình. Mối quan tâm đối với việc trồng cao su cũng được thúc đẩy bởi các thí nghiệm đang được tiến hành ở miền Nam Trung Quốc. Năm 1952, các lãnh đạo Việt Minh nhận được tin về việc những nhóm thanh niên Trung Quốc được phái đi trồng lại cao su tại vùng nông thôn miền Nam.

Trong một lá thư được đánh dấu “mật” ngày 5 tháng 8 năm 1952, Nguyễn Văn Lưu đã thông báo về việc trồng cao su ở Quảng Tây. Đặng Văn Vinh đã bổ sung vào báo cáo này, viết tóm tắt bên lề của bức thư. Vinh ghi rằng nhìn chung cao su có thể được trồng ở hầu hết các khu vực nằm dưới vĩ tuyến 23 độ, ngoại trừ những điểm cực bắc của Việt Nam. Các điều kiện hạn chế chủ yếu đối với sự tăng trưởng là nhiệt độ, mưa và gió mạnh có thể quật đổ cao su do loài cây này chỉ có bộ rễ nông. Do đó, dù có sự giúp đỡ từ Liên Xô và khối Đông Âu, mãi đến sau năm 1975 các nhà nghiên cứu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới có thể canh tác được các gốc cao su ghép chịu được mùa đông ở miền Bắc. Để tiếp tục phát triển việc trồng cao su ở miền Bắc, các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tìm cách tiếp cận di sản nghiên cứu thực vật thời thuộc địa của Pháp.

Professeur Henri Jumelle - Dreux

Trong một lá thư đề ngày 14/4/1952, Ủy ban Kinh tế của Chính phủ đã đề nghị Nguyễn Xuân Cung – Bộ trưởng Bộ Canh nông cung cấp thông tin về các chuyên gia trồng cao su ở miền Bắc Việt Nam. Bốn tháng sau, Cung thông báo với ủy ban về nhóm chuyên gia đã từng làm việc trong những thập niên trước, bao gồm Nguyễn Duy Cân, người đã làm việc tại Trạm Thí nghiệm Gia Rây từ năm 1931 đến năm 1937, Đào Thiên Tránh, người đã làm việc tại Bolovens, và các chuyên gia nông nghiệp nổi tiếng Đặng Văn Vinh, Vương Gia Cân và Nguyễn Khoa Chi. Các bản tài liệu in ấn, theo bộ trưởng, đã quá cũ kỹ; cuốn Les plantes à Coutcho năm 1930 của Henri Jumelle (ảnh trên: phải) và một ít tài liệu khác tại các trạm thí nghiệm ở miền Bắc những là tài liệu hiếm hoi còn lại. Không chỉ có phía Việt Minh quan tâm đến ý nghĩa của nông nghiệp đồn điền và y học trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương lần thứ I.

Mot-canh-cong-nhan-cao-su-lam-viec-duoi-su-quan-ly-cua-nguoi-Phap.jpg
Một cảnh công nhân cao su làm việc dưới sự quản lý của người Pháp

Xã hội hoá y tế​

Viện Cao su Pháp đã tổ chức các cuộc nói chuyện dành cho những người có kinh nghiệm trực tiếp về đồn điền và vào năm 1949, bác sĩ Trần Đình Quế đã nói về lịch sử của hệ thống y tế ở Việt Nam và cố gắng đánh giá những ảnh hưởng của Pháp bằng cách so sánh Đông Dương với các quốc gia khác trong khu vực, đặc biệt là Nhật Bản, Trung Quốc, Xiêm La (Thái Lan) và Đông Ấn Hà Lan. Bác sĩ Quế kết luận rằng, ngoại trừ Nhật Bản, hệ thống y tế của Việt Nam dưới sự cai trị của thực dân Pháp, về chỉ số giường bệnh và chi phí y tế dành cho mỗi người dân tốt hơn so với các nước khác tại châu Á. Ông cũng đề xuất một chương trình nhằm cải thiện sức khỏe của người Việt Nam, nhấn mạnh rằng những điều luật về bảo vệ quyền lợi của người lao động tại các đồn điền và các cơ sở công nghiệp khác cần phải được củng cố. Ông đã dẫn trường hợp nước Anh như một ví dụ điển hình về lợi ích của sức khỏe trong việc “xã hội hóa” ngành y tế.

Bác sĩ Quế khép lại bài nói chuyện bằng cách tuyên bố rằng các bác sĩ y khoa là “nghệ nhân chính của các công trình hòa bình”. Ông cho rằng y tế có vai trò quan trọng đối với “nguồn vốn con người” và nhấn mạnh đến việc coi cộng đồng như chiếc chìa khóa mở ra các biện pháp chăm sóc sức khỏe đã được hình thành một phần trong thời kỳ thuộc địa. Tuy nhiên, bác sĩ Quế không xem những thành tựu này chỉ là sản phẩm của người Pháp. Ông đề cập đến việc ngài Hoàng Trọng Phu, vị quan đã đưa người dân của một số làng tới bệnh viện để rồi sau đó họ có thể trở về nhà và phổ biến quy tắc vệ sinh.

Bác sĩ Quế nêu thêm ý kiến rằng các chiến dịch vệ sinh công cộng sẽ đạt hiệu quả cao nhất nếu tập trung vào một căn bệnh vì làm như vậy thì người nông dân sẽ hiểu rõ hơn về những gì họ đang chống lại, về hiệu quả từ những hoạt động của họ và về các quy tắc vệ sinh trừu tượng hơn. Việc chống lại nhiều căn bệnh cùng một lúc sẽ chỉ đơn thuần làm phân tán nỗ lực. Để điều chỉnh các quy tắc ở Việt Nam, bác sĩ Quế nói tiếp, cá nhân sẽ chịu trách nhiệm trước tập thể và ngược lại, kỷ luật của xã hội sẽ được sử dụng để thực thi các quy tắc”.
 
Sửa lần cuối:

Có thể bạn quan tâm

Top