• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Đạo lý Hướng dẫn Thiền hơi thở cơ bản

Đề mục niệm hơi thở
Giới thiệu đề mục

Quán niệm hơi thở là đề mục có trong thiền chỉ samatha và thiền quán vipassana.

- Với samatha thì hơi thở là 1 trong 40 đề mục hay 1 trong 10 đề mục tuỳ niệm

- Với vipassana thì nó thuộc thân hành niệm ( quán thân trên thân )

Nhận xét : đây là đề mục đơn giản, dễ thực hiện cho mọi căn cơ, thực hiện được mọi nơi.

Phân biệt thiền chỉ và thiền quán hơi thở:

+ Thiền chỉ thì niệm đặt ở mỗi hơi thở ra vào thôi. Dễ nhất là ở chóp mũi. Chỉ tập trung niệm và định đối với hơi thở và không quan tâm các đối tượng khác. Hay nói theo chuyen môn là cột chặt tâm vào hơi thở.

+ Thiền quán thì đặt niệm tương tự nhưng có gì đó đi qua thì thay đổi đối tượng ghi nhận ( đau lưng, tê chân, buồn ngủ, phóng dật, chán nản … ghi nhận tất cả những gì đang diễn ra tuỳ thuộc vào hiện tại cái gì diễn ra mạnh nhất thì đặt niệm ở đó). Hay nói theo chuyên môn là ghi nhận mọi chuyển động diễn ra trong thân tâm ngay hiện tại.

Chánh kinh

Này các Tỷ kheo, thế nào là Tỷ kheo sống quán thân trên thân?

Này các Tỷ kheo, ở đây Tỷ kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở vô dài"; hay thở ra dài, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở ra dài"; hay thở vô ngắn, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở vô ngắn"; hay thở ra dài, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở ra ngắn"; Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập; "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

Này các tỷ kheo, như người thợ quay hay học trò người thợ quay tuệ tri thiện xảo, khi quay dài, tuệ tri rằng: "Tôi quay dài"; hay khi quay ngắn, tuệ tri rằng: "Tôi quay ngắn." Cũng vậy, này các Tỷ kheo, Tỷ kheo thở vô dài, tuệ tri: "Tôi thở vô dài"; hay thở ra dài tuệ tri: "Tôi thở ra dài"; hay thở vô ngắn, tuệ tri: "Tôi thở vô ngắn"; hay thở ra ngắn, tuệ tri: "Tôi thở ra ngắn"; "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập; "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

Như vậy, vị ấy sống, quán thân trên nội thân hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước vật gì ở trên đời. Này các Tỷ kheo, như vậy Tỷ kheo sống quán thân trên thân.

Giải thích chi tiết các câu Kinh trên : https://xamvn.nl/r/huong-dan-thien-hoi-tho-co-ban.745931/post-17725266

-----------------------------
Kinh nghiệm về hơi thở

Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên. Có người hỏi là ta nên định tâm vào hơi thở hay sự chạm xúc của hơi thở ? Câu trả lời là chỉ nên định tâm vào hơi thở. Hơi thở chạm xúc vào lỗ mũi hay môi trên là nơi dễ theo dõi nhất. Sự chạm xúc là một đề tài thiền quán khác biệt, thuộc về pháp môn quán danh (quán danh-sắc). Đó là pháp quán Xúc giới và các tâm sở có liên quan. Ở đây, chúng ta chỉ quán niệm vào hơi thở, hơi thở có chạm xúc, mà không quán vào sự chạm xúc. Quán niệm hơi thở nầy cần có một chánh niệm vững mạnh và tuệ giác tri.

Bây giờ ta đem tâm vào hơi thở, hơi thở vào và hơi thở ra. Nếu thiền sinh không thể chú tâm vào hơi thở sau một vài buổi thiền, thì có thể tập đếm hơi thở. Việc nầy để giúp họ phát triển định lực. Thiền sinh đếm số sau mỗi hơi thở, như sau: "thở vào ... thở ra ... một", "thở vào ... thở ra ... hai", "thở vào ... thở ra ... ba", ... cho đến "thở vào ... thở ra ... tám". Có thể đếm từ năm đến mười, rồi trở lại số một. Tuy nhiên, thiền sinh nên đếm đến số tám rồi trở lại từ đầu. Số tám là để nhắc nhở chúng ta về Con Đường Tám Chánh (Bát Chánh Đạo) mà chúng ta đang cố gắng hành trì để giác ngộ. Các bạn cần phải cương quyết không để phóng tâm, tâm lang thang chỗ nầy chỗ kia, trong khi đếm hơi thở. Chỉ chú tâm theo dõi hơi thở và đếm số, từ 1 đến 8 rồi trở lại 1 ... Qua việc chỉ chú tâm vào đếm hơi thở như thế, tâm sẽ trở nên an định hơn. Thông thường thì cần phải thực hành như thế trong một giờ để tâm được an định và vững chắc.

Sau đó, khi tâm an định, bạn có thể bỏ lối đếm hơi thở và chuyển sang giai đoạn kế. Nếu bạn thở vào một hơi dài, bạn biết đó là một hơi dài. Nếu bạn thở ra một hơi dài, bạn biết đó là một hơi dài. Tương tự, nếu bạn thở vào một hơi ngắn, bạn biết đó là một hơi ngắn. Nếu bạn thở ra một hơi ngắn, bạn biết đó là một hơi ngắn. Ở đây, dài hay ngắn là gì ? Đó là khoảng thời gian. Nếu cần một thời gian dài để thở thì đó là hơi thở dài. Nếu cần một thời gian ngắn để thở thì đó là hơi thở ngắn. Tuy nhiên, phải thở bình thường mà không cố gắng ép hơi thở. Không nên đặt tên nó là "dài" hay "ngắn". Nếu cần phải đặt tên thầm trong tâm, thì đặt tên nó là "thở vào, thở ra" mà thôi. Chỉ cần biết nó là hơi dài hay ngắn, nhưng lúc nào cũng phải chú tâm vào luồng hơi đang chạm xúc vào lỗ mũi hay môi trên. Không nên đem tâm đi theo luồng hơi vào trong thân thể hay chạy ra ngoài thân thể. Nếu thiền sinh để tâm theo dõi luồng vào trong thân hay ra ngoài thân thì sẽ không thể làm hoàn hão sự định tâm. Cần phải chú tâm ghi nhận hơi thở đang chạm xúc lỗ mũi hay môi trên trong một, hai, hoặc ba giờ.


Đến đây, định tướng (nimitta, ni-mít-tá) sẽ phát sinh. Nếu định tướng không phát sinh thì bạn có thể chuyển sang hành trì như sau: thiền sinh để tâm ghi nhận toàn luồng hơi liên tục từ đầu đến cuối. Bạn không nên đặt tên là: "chặng đầu, chặng giữa, chặng cuối". Nếu cần phải đặt tên thầm trong tâm, thì đặt tên nó là "thở vào, thở ra" mà thôi. Trong lúc đó, nhận biết toàn luồng hơi từ đầu đến cuối, đang chạm xúc tại một nơi cố định (lỗ mũi hay môi trên), và tuyệt đối không theo dõi nó vào bên trong thân thể hay ra bên ngoài. Nếu thiền sinh hành trì như thế trong một hay hai giờ thì định tướng có thể sẽ phát sinh.

Bây giờ, cho dù định tướng có hiện ra hay không, thiền sinh tiếp tục sang giai đoạn kế. Trong giai đoạn nầy, bạn tạo một ước nguyện trong tâm: "Nguyện cho hơi thở của tôi được nhu nhuyễn". Từ từ, hơi thở sẽ tự nó trở nên dịu dàng, nhẹ nhàng, nhu nhuyễn. Bạn không nên cố tình ép hơi thở để nó nhẹ nhàng. Bởi vì nếu làm như thế thì chẳng bao lâu, bạn sẽ bị hụt hơi và tạo mệt nhọc. Khi hơi thở tự nó trở nên nhẹ nhàng và tâm an định theo nó, qua thiền lực, hầu hết các thiền sinh sẽ cảm thấy lâng lâng, như thể là họ không có đầu, không có mũi, không có thân nữa, mà cảm thấy chỉ có hơi thở vào ra nhẹ nhàng và một cái tâm đang theo dõi nó. Lúc nầy, bạn cảm thấy là không có "tôi", mà cũng không có "nó". Bây giờ, chỉ còn có một tâm đang gắn chặt vào hơi thở. Nếu tâm được an định và chăm chú vào đó trong một giờ, thì trong thời gian nầy, tâm không còn liên hệ đến các chuyện thế tục nữa. Tâm đang ở trong trạng thái thiện(kusala), và trạng thái thiện nầy rất gần đến trạng thái cận định (upacara samadhi).


Đến đây, tùy theo giới hạnh của từng cá nhân, định tướng sẽ hiện ra. Mỗi cá nhân khác nhau sẽ có những định tướng khác nhau. Dù đang nhắm mắt, theo dõi hơi thở, dần dần thiền sinh sẽ thấy định tướng hiện ra, có khi như là một làn chỉ trắng, một luồng ánh sáng trắng, một ngôi sao, một cụm mây hoặc một nhúm bông gòn. Nó có thể rất to, trùm cả khuôn mặt, hoặc như mặt trăng, mặt trời, hoặc một viên ngọc thạch, một viên ngọc trai. Nó hiện ra trong các hình sắc khác nhau là vì nó do tưởng uẩn (saññā) tạo ra.

Lúc ban đầu, định tướng có thể giống như có màu khói xám. Dần dần, nếu giữ tâm được an định vào hơi thở, hơi thở và màu khói xám trở thành đồng nhất với nhau, không khác biệt. Sau đó, nếu tâm được an nhẹ và chỉ chú mục vào hơi thở, màu sắc đó trở thành trắng đục. Mặc dù là màu trắng, nhưng nếu bạn chỉ chú mục vào hơi thở, hơi thở sẽ trở thành định tướng và định tướng chính là hơi thở. Nếu hơi thở và định tướng là một, không khác biệt, khi bạn chú mục vào hơi thở thì bạn cũng chú mục vào định tướng, và khi bạn chú mục vào định tướng thì bạn cũng chú mục vào hơi thở. Và như thế, bạn hành thiền tốt và nghiêm túc.


Nếu định tướng trở nên vững bền và nếu bạn chỉ chú tâm vào định tướng của hơi thở (anapana nimitta), mà không chú tâm vào hơi thở nữa, tâm bạn trở nên tập trung vào định tướng lúc đó. Trong giai đoạn nầy, điều quan trọng là thiền sinh không nên tìm cách chuyển hóa định tướng. Bạn không nên tìm cách đẩy nó đi xa, hoặc làm cho nó thay đổi hình dạng. Nếu làm như thế, định lực của bạn sẽ không phát triển, và định tướng có thể sẽ biến mất.

Tuy nhiên, nếu định tướng hiện ra quá xa đối với lỗ mũi thì thiền sinh chưa có đủ lực để chuyển sang mức thiền định hơi thở (anapana jhana samadhi). Tại sao? Bởi vì đây là một nguyên tắc quan trọng trong việc quán niệm hơi thở. Bản luận giải có đề cập rằng việc luyện tâm thiền định niệm hơi thở(anapanasati samadhi bhavana) chỉ hoàn tất khi nào tâm quán niệm được giữ tại nơi mà hơi thở chạm xúc với cơ thể. Khi thiền sinh chú định vào bên ngoài, xa lìa nơi chạm xúc, thì rất khó mà đạt vào tầng thiền định. Do đó, khi định tướng còn ở xa, thì thiền sinh không nên chú tâm vào nó, mà phải chú tâm vào hơi thở tại một nơi cố định. Từ từ, định tướng sẽ đến gần và hòa nhập vào hơi thở.

Khi định tướng có màu khói xám thì đó là sơ tướng (parikamma nimitta) trong trạng thái sơ định (parikamma samadhi). Nếu nó trở thành màu trắng như một nhúm bông gòn, đó là học tướng (uggaha nimitta). Đây là một trạng thái định khá cao. Nếu màu trắng nầy được vững bền, thiền sinh phải an định tâm và chú mục vào đó. Trong giai đoạn nầy, bạn không nên chú ý đến màu sắc của nó, mà chỉ chú tâm vào đó như là một loại định tướng mà thôi.


Thí dụ như một ly nước và có một hạt ngọc trai trong đó. Ta chỉ nhìn hạt trai, như thể đem tâm vào định tướng. Không nên điều tra, trạch vấn về Khổ, Vô thường, Vô ngã. Không cần biết nó nóng hay lạnh, cứng hay mềm, mà cũng không cần phân tích màu sắc của nó. Chỉ cần giữ tâm an định và chú mục vào định tướng. Làm như thế, dần dần định tướng sẽ chuyển từ màu trắng đục sang một màu chói sáng. Đây là tợ tướng (patibhaga nimitta). Nếu tâm vẫn giữ an định và chỉ chú mục vào định tướng khoảng 1 đến 2 giờ, hầu hết các thiền sinh đều có thể nhận rõ 5 thiền chi (jhananga) rất dễ dàng nếu họ phân tích chúng lúc đó. Năm thiền chi đó là:

  1. Tầm (vitakka): đem tâm hướng về định tướng,
  2. Tứ (vicara): bám sát vào định tướng,
  3. Hỷ (pity): ưa thích định tướng,
  4. Lạc (sukha): cảm giác an lạc, sung sướng khi tiếp xúc với định tướng,
  5. Nhất tâm (ekaggata): tập trung tâm về một điểm (đó là định tướng)
Cũng cần biết thêm ở đây là có khi thiền sinh không thể nhận rõ được năm thiền chi trên, là vì lúc đó, thiền sinh vẫn còn bị các triền cái (nivarana) ngăn che. Đó là:

  1. Tham dục (kamachanda)
  2. Sân hận (vyapada)
  3. Hôn trầm (thiramiddha)
  4. Trạo cữ (udhaccakukucca)
  5. Nghi ngờ (vicikiccha)
Thiền sinh phải duyệt xét từng triền cái một, để xem chúng còn vương vấn trong tâm trong lúc hành thiền hay không. Chúng cần phải được loại bỏ thì việc đắc thiền mới thành tựu.

Khi năm thiền chi đều cùng hiện diện đầy đủ, thiền sinh sẽ thấy ngay là mình đang vào tầng thiền thứ nhất (đệ nhất thiền), với tợ tướng là đề mục trong tâm, có tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm. Tiếp tục hành trì trong Nhất Thiền như thế khoảng 1 đến 2 giờ, rồi xuất thiền và duyệt lại năm thiền chi cho tường tận.


Trong các buổi thiền kế tiếp, thiền sinh tiếp tục ôn tập, và hành trì thuần thục trong tầng thiền thứ nhất. Có năm loại thuần thục:

  1. Thuần thục phân biệt: phải thuần thục trong việc phân biệt các thiền chi sau khi xuất thiền
  2. Thuần thục nhập định: phải thuần thục nhập thiền bất cứ lúc nào mà mình muốn
  3. Thuần thục quyết tâm: phải thuần thục giữ mức thiền trong suốt thời gian mà mình đã định trước
  4. Thuần thục xuất định: phải thuần thục xuất ra khỏi tầng thiền mỗi khi mình muốn
  5. Thuần thục xét duyệt: phải thuần thục xét duyệt các thiền chi. Tương tự như mục số 1.
Thiền sinh nên nhận thức rằng tầng thiền thứ nhất rất gần với năm triền cái - tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo cữ, và nghi ngờ. Thiền sinh cũng nên nhận thức rằng các thiền chi Tầm và Tứ trong tầng thiền thứ nhất làm cho tầng thiền nầy không an định bằng tầng thiền thứ nhì. Vì thế, từ ước muốn rời bỏ hai thiền chi nầy và chỉ còn giữ thiền chi Hỷ, Lạc, Nhất Tâm, thiền sinh tiếp tục đem tâm vào tợ tướng. Làm như thế, thiền sinh sẽ có thể đạt vào tầng thiền thứ nhì, vốn chỉ còn ba thiền chi: Hỷ, Lạc, và Nhất Tâm. Sau khi vào được Nhị Thiền, thiền sinh hành trì năm loại thuần thục tương tự như trên.

Sau đó, thiền sinh nhận thức rằng Hỷ cũng không đem lại an định, nên có ước muốn bỏ Hỷ, chỉ còn giữ lại Lạc và Nhất Tâm, thiền sinh tiếp tục đem tâm vào tợ tướng. Làm như thế, thiền sinh sẽ có thể đạt vào tầng thiền thứ ba, vốn chỉ còn hai thiền chi: Lạc, và Nhất Tâm. Sau khi vào được Tam Thiền, thiền sinh hành trì năm loại thuần thục tương tự như trên.

Sau đó, thiện sinh nhận thức rằng nếu cứ duy trì Lạc thì lại là một hình thức tham thủ vào cảm giác vui sướng. Cho nên, với ý định bỏ Lạc, thiền sinh tiếp tục đem tâm vào tợ tướng. Làm như thế, thiền sinh sẽ có thể đạt vào tầng thiền thứ tư. Lúc đó, hai thiền chi mới sẽ sinh ra: Xả và Niệm, thay thế Nhất Tâm. Lúc bấy giờ, thiền sinh ở trong trạng thái "xả niệm thanh tịnh", không còn câu chấp vào các cảm giác, và hơi thở trở nên nhẹ nhàng, hầu như tan biến. Tợ tướng trở nên rõ ràng, tròn sáng, quen thuộc, gần gũi, không xa lạ, và thiền sinh chú mục vào đó một cách nhẹ nhàng, bình thản. Sau khi vào được Tứ Thiền, thiền sinh hành trì năm loại thuần thục tương tự như trên.


Thiền sinh nên tìm đọc bộ Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhi Magga) của Ngài Buddhaghosa, nhất là phần Niệm Hơi Thở trong chương VIII. Sau cùng, thiền sinh cũng cần nên biết rằng công phu hành thiền để đắc bốn tầng thiền như trên chỉ là một giai đoạn sơ khởi, tạo định lực bền vững, dùng đó để làm cơ sở phát triễn tuệ minh sát và tiến đến giải thoát. Trong tiến trình tu học, thiền sinh không nên dừng ở đó, mà cần phải tiếp tục nỗ lực hành trì các giai đoạn kế tiếp, như quán từ bi, quán niệm ân đức Phật, quán tứ đại, quán các sắc pháp, quán thân thể (32 bộ phận), quán các danh pháp, quán lý duyên sinh và các giai đoạn thanh lọc tâm.

Tóm tắt :

9X3kXD4.jpeg



Không có mô tả ảnh.
 
Sửa lần cuối:
Thằng L nào cũng nói vậy cho đến khi đồ lên, cảnh lên, có con em ngon bên cạnh nữa, má loá đóng băng luôn

Này Hiền giả, chớ có tác ý như vậy. Các hành là vô thường có sinh thì có diệt.

Do ta không khéo tác ý ( quan tâm đúng đắn ) nên mới có tham chấp.

Khi nhìn gái mà ta nghĩ tới sắc tướng xinh đẹp, thân hình nóng bỏng, 3 vòng quyến rũ gợi dục hay vô vàn tư thế như 69, doggy, úp thìa, cưỡi ngựa bắn cung lấy dây thun bắn ruồi .... thì là quan tâm sai lầm ( phi lý tác ý)

Còn khi quan tâm đúng đắn ( như lý tác ý) thì ta phải nhìn gái như này :

Dưới cơ thể xinh đẹp, gọi là bén, múp, ngọt địt, con mái hao tinh ... đó là miếng thịt, được bọc bằng lớp da trong ẩm ướt, bao ngoài với lớp da ngoài có những lỗ rải rác đó đây, luôn luôn tiết ra, rỉ ra như một cái bình mỡ dầu trong đó cả một tập thể vì trùng cư trú, đó là cái nhà bịnh tật, nền tảng của những trạng thái đau khổ luôn luôn tiết ra từ 9 lỗ như một cái ung nhọt kinh niên; từ hai con mắt thì ghèn chảy, từ hai lỗ tai là thối tai, từ hai lỗ mũi là mũi nước, từ miệng là thức ăn, mật, đàm, máu, từ hai chỗ bài tiết bên dưới là phân và tiểu, và từ 99 ngàn lỗ chân lông tiết ra một thứ nước xúp bằng mồ hôi vô vị, với ruồi nhặng bu quanh. Cái thân xác này, nếu không được săn sóc bằng xỉa răng, súc miệng, gội đầu, tắm rửa, mặc lót bên trong, khoác y phục bên ngoài, thì xét về tính chất đáng tởm, một ông vua, cũng không khác gì người hốt rác.

Nhưng nhờ đánh răng súc miệng và tất cả những việc tương tự, nhờ che dấu những bộ phận riêng tư dưới nhiều lớp vải, nhờ thoa ướp nó bằng những thứ hương hoa, rắc lên nó những thứ hoa thơm mà nó được biến thành một trạng thái làm cho nó có thể được xem là "tôi" và "của tôi". Cứ thế đàn ông mà không nhận thức cái thực chất dơ bẩn của cơ thể được che đậy bằng trang sức mong manh. Trong ý nghĩa tối hậu, thật không có một chỗ nào trên thân xác dù nhỏ như hạt bụi, đáng kể mà tham đắm. Và khi có một mẫu nhỏ nào từ thân xác ấy rớt ra như tóc, lông, móng, răng, đàm, mũi nước, phân hay nước tiểu, thì người ta sẽ không dám động tới, mà còn cảm thấy hổ thẹn, nhục nhã, ghê tởm. Nhưng khi những thứ ấy còn ở lại trong thân xác, thì mặc dù vẫn đáng ham muốn trường cữu, khả ái tự ngã.. Bởi vì bị trùm kín trong màn tối vô minh, bị nhuốm tham ái đối với tự ngã. Chúng giống như một con chồn già trông thấy một cái hoa đỏ đang còn trên cây rừng, mà thèm, vì nghĩ: "Ðây là miếng thịt, đây là một miếng thịt".


Với tác ý đúng đắn như vậy. Thời hiền giả sẽ nhàm chán các dục. Từ nhàm chán sẽ dẫn đến ly tham.
Từ ly tham sẽ dẫn đến giải thoát 🙏
 
Trước tao cũng tham gia 1 khoá thiền Vipassana trên Sóc Sơn nên thấy bài của mày cũng rất thú vị. Mày nén vào 1 file up driver được ko, bài dài quá nên tao muốn đọc xuyên suốt liền mạch.
 
Trước tao cũng tham gia 1 khoá thiền Vipassana trên Sóc Sơn nên thấy bài của mày cũng rất thú vị. Mày nén vào 1 file up driver được ko, bài dài quá nên tao muốn đọc xuyên suốt liền mạch.
Thực ra m chỉ cần đọc #1 và #2.

Sau đó thực hành rồi khuất mắc chỗ nào thì tra cứu để đỡ bị vọng tưởng và tưởng tượng. Vì một người niệm chưa mạnh rất dễ phóng dật, trạo hối khi hành thiền nếu chứa quá nhiều luồng thông tin. Không thì hỏi thẳng trên này.

Để lát nữa t sẽ ném link bài viết lên đây.
 
Hồi tao mới tham dự khoá thiền Vipassana về, hơn 1 tháng sau đó ngày nào tạo cũng thiền đều đặn 1 tiếng 1 ngày vào buổi sáng, thấy đầu óc minh mẫn, tỉnh táo hơn hẳn, làm chủ cảm xúc tốt hơn. Sau dần dần ko theo được, do công việc, gia đình.....Nói chung thiền hay thật. Các thầy khuyên nên thiền 1 tiếng sáng, và 1 tiếng tối trước khi đi ngủ, mà ko hiểu sao tao mà thiền vào buổi tối trước khi ngủ là y như rằng mất ngủ luôn.
 
Hồi tao mới tham dự khoá thiền Vipassana về, hơn 1 tháng sau đó ngày nào tạo cũng thiền đều đặn 1 tiếng 1 ngày vào buổi sáng, thấy đầu óc minh mẫn, tỉnh táo hơn hẳn, làm chủ cảm xúc tốt hơn. Sau dần dần ko theo được, do công việc, gia đình.....Nói chung thiền hay thật. Các thầy khuyên nên thiền 1 tiếng sáng, và 1 tiếng tối trước khi đi ngủ, mà ko hiểu sao tao mà thiền vào buổi tối trước khi ngủ là y như rằng mất ngủ luôn.
Nếu thiền Vipassana thì m có thể thực hành cả ngày. Không phải thiền = ngồi đâu. Thiền là thay đổi nhận thức của mình thôi mai t sẽ nói rõ.
 
Bây giờ topic này lỡ là thiền hơi thở rồi. Làm sao nhét mấy cái quán chiếu khác vào ta.
Tách ra topic cho đỡ loãng đi m

T thấy mục Kinh nghiệm về hơi thở rất hay. Có lộ trình luyện tập rõ ràng. T tự tập ko có thầy dạy nên có chỗ bị vướng khá lâu. Hôm nay đọc được bài này giúp t giải đáp được nhiều thắc mắc và có thêm niềm tin
Thank m nhiều
 
Tách ra topic cho đỡ loãng đi m

T thấy mục Kinh nghiệm về hơi thở rất hay. Có lộ trình luyện tập rõ ràng. T tự tập ko có thầy dạy nên có chỗ bị vướng khá lâu. Hôm nay đọc được bài này giúp t giải đáp được nhiều thắc mắc và có thêm niềm tin
Thank m nhiều
Cảm ơn Hiền giả đã đọc bài viết !
Mong Hiền giả tu tập tinh tấn. Có gì thắc mắc mình sẽ cố gắng giải đáp hoặc gửi tài liệu phù hợp.
 
T có 1 thắc mắc
Nếu tập vipassana, trước khi chuyển sang quán cảm thọ thì cần phải đạt được trạng thái nào ở giai đoạn quán hơi thở?
 
T có 1 thắc mắc
Nếu tập vipassana, trước khi chuyển sang quán cảm thọ thì cần phải đạt được trạng thái nào ở giai đoạn quán hơi thở?
Quán hơi thở là 1 phần thuộc thân hành niệm tức quán thân trên thân. Tuy nhiên nếu quán 1 cái tức là cũng quán 4 cái kia.

Khi bạn quán thân tức là đồng thời bạn đang quán thọ - tâm - pháp, bạn quán thọ cũng có nghĩa là quán thân - tâm - pháp.

Gọi là quán thân vì lúc này Niệm đang đặt ở thân mạnh nhất.

Khi quán hơi thở mà bạn biết thở ra với thọ lạc - thở ra với thọ khổ - thở ra với thọ xả tức là bạn đang quán thọ. Tụi nó là 1 nhưng Phật chia ra 4 để tùy căn cơ chúng sinh mà thực tập.

Mình có viết 1 bài đó trên đây trong topic Nam Truyền. Có gì mình tìm lại rồi reply sau nhé.
 
Quán hơi thở là 1 phần thuộc thân hành niệm tức quán thân trên thân. Tuy nhiên nếu quán 1 cái tức là cũng quán 4 cái kia.

Khi bạn quán thân tức là đồng thời bạn đang quán thọ - tâm - pháp, bạn quán thọ cũng có nghĩa là quán thân - tâm - pháp.

Gọi là quán thân vì lúc này Niệm đang đặt ở thân mạnh nhất.

Khi quán hơi thở mà bạn biết thở ra với thọ lạc - thở ra với thọ khổ - thở ra với thọ xả tức là bạn đang quán thọ. Tụi nó là 1 nhưng Phật chia ra 4 để tùy căn cơ chúng sinh mà thực tập.

Mình có viết 1 bài đó trên đây trong topic Nam Truyền. Có gì mình tìm lại rồi reply sau nhé.
Hay quá, rất dễ hiểu ạ
Trước đây t đọc đến đoạn này ở sách khác thì ko hiểu lắm. Giờ thì hiểu ra 1 chút rồi
Cảm ơn bạn
 
Quan sát hơi thở một hồi cái tư duy được kích hoạt, nghĩ ra đủ thứ chuyện xong lại quay về hơi thở, hồi thấy tự nhiên mọi thứ nhẹ nhàng rồi chẳng biết chuyện gì đang xảy ra, lại quay về hơi thở. Từ từ tỉnh ra,thấy con người mình cũng bình thường, xong chẳng biết làm gì tiếp.
 
Hay quá, rất dễ hiểu ạ
Trước đây t đọc đến đoạn này ở sách khác thì ko hiểu lắm. Giờ thì hiểu ra 1 chút rồi
Cảm ơn bạn
Lành thay ! Có gì thắc mắc cứ hỏi nhé. Mình sẽ cố gắng giải đáp.

Có lẽ nên viết 1 topic về Tứ Niệm Xứ hay Vipassana tổng quan.
 
Quan sát hơi thở một hồi cái tư duy được kích hoạt, nghĩ ra đủ thứ chuyện xong lại quay về hơi thở, hồi thấy tự nhiên mọi thứ nhẹ nhàng rồi chẳng biết chuyện gì đang xảy ra, lại quay về hơi thở. Từ từ tỉnh ra,thấy con người mình cũng bình thường, xong chẳng biết làm gì tiếp.
Đó là bạn bị phóng dật nên nghĩ đủ thứ, hồi tưởng quá khứ, ước vọng tương lai ...

Vì vậy khi bị phóng dật thì nên quay trở lại an trú trên hơi thở chứ chớ để tư tưởng đi lung tung nhé.
 
TAM HỌC

Toàn bộ những gì chúng ta cần biết nó có nhiều cách nói lắm, và dĩ nhiên tôi chọn cách nói của Đức Phật đó là: “Cả đời Như Lai mấy mươi năm đi hoá đạo ta chỉ nói có hai chuyện đó là cái khổ và con đường thoát khổ.“

Tôi thường nói :“Con đường vào rừng đó chính là con đường ra rừng“.

Nói như vậy con đường thoát khổ nó không rời con đường đau khổ.
Trong vô số kiếp luân hồi chúng ta đam mê với 6 căn và 6 trần. Vậy con đường giải thoát vẫn tiếp tục 6 căn và 6 trần :

6 căn +6 trần + chán = giải thoát
6 căn + 6 trần + thích = sanh tử .


Chính vì thích trong 6 căn và 6 trần cho nên nó hệ quả này :

Thế giới có hai cách nhìn:Tục đế ( hiện tượng )và Chân đế (bản chất).

Trong vô số kiếp luân hồi chúng ta chỉ quan sát thế giới này qua Tục đế, nên dẫn đến hệ quả đầu tiên là thích hay ghét.

Thích và ghét nó không rời nhau, thích ở đâu thì ghét ở đó. Chính vì vô số kiếp mình chỉ thấy thích và ghét cho nên mình chỉ thấy vỏ ngoài của nó.

Thí dụ như Đức Phật nhìn thấy chiếc lá Ngài chỉ thấy đất, nước, lửa, gió. Hình dáng, màu sắc của lá, cây, cành, nhánh, Ngài biết đó là thế giới hiện tượng được quan sát qua 5 giác quan vật chất, còn xét rốt ráo của chiếc lá về bản chất thì nó chỉ là 4 Đại. Đức Phật và chư thánh nhìn chiếc lá qua Chân đế.

Các Ngài có cái nhìn cả hai khi cần thiết. Chúng ta thì chỉ biết nhìn thế giới này qua Tục đế, từ đó mới có thích, ghét.

Bây giờ biết Phật pháp rồi thì chúng ta tập sự nhìn ngắm thế giới qua hai khía cạnh Chân đế và Tục đế. Khi nhìn thế giới qua hai khía cạnh này thì mới đi đến chán được, còn nếu nhìn thế giới qua Tục đế thì không có cách nào chán được.
Con đường nào để giúp cho chúng ta quan sát thế giới qua khía cạnh Chân đế ? Đó chính là con đường tứ niệm xứ, còn cái nhìn bằng thích và ghét nó chỉ đẩy mình chìm sâu trong thế giới Tục đế.

Từ chuyện mình thích ghét trong 6 trần nó mới dẫn đến làm ác và làm thiện.

Làm thiện có hai nhánh:

-Thiện thấp -Hành thập thiện:
Bố thí, trì giới, tu thiền, phục vụ, cung kính, tùy hỷ, hồi hướng, thính pháp, thuyết pháp, điều chỉnh tri kiến.

-Thiện cao: tu thiền .

-Làm ác gồm thập ác :
1-Thân tam :
sát sanh, trộm cướp, tà dâm.

2-Khẩu tứ :
-Nói dối.
-Nói lời đâm thọc, nói lời chia rẽ.
-Nói lời thô ngữ độc ác.
-Nói lời phiếm luận.

3-Ý tam
-Tham ác, Sân ác,Tà kiến .

Như vậy toàn bộ giáo pháp của Đức Phật là :
Không làm các điều ác
Siêng làm các việc lành
Giữ tâm ý trong sạch.


Và ba điều này trong giáo lý duyên khởi gọi là ba hành.

Ba hành là gì ?

1-Làm ác bị lọt xuống các cõi đọa:
Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và Atula.

2-Làm thiện có 2 nhánh :

-Thiện sanh về cõi lành Ngũ Uẩn có hình danh :
sắc, thọ, tưởng, hành, thức (nhân thiên Dục giới và Phạm thiên Sắc giới)

-Thiện sanh về cõi Tứ Uẩn chỉ có : thọ, tưởng, hành, thức.(Phạm thiên Vô Sắc)

3-Giải thoát

Ngày xưa chúng ta thấy không biết thấy, nghe không biết nghe, ngửi không biết ngửi.
Còn bây giờ có tam học rồi thì riêng giới nó là cái rào cho 6 căn không buông lung. Ăn, mặc, ở bị hạn chế.

Định cũng đi ngược lại thói quen của 6 căn, 6 trần. Tuệ càng đi ngược nhiều hơn.
Định và tuệ là nhốt 6 căn và 6 trần để giải quyết không cho thích ghét nữa.

Giới và định tuy nó là thiện, nhưng nó vẫn còn nhốt chúng ta trong thế giới của tục đế
. Riêng tụê cho mình quan sát thế giới qua bản chất chân đế.
Muốn có tuệ bắt buộc chúng ta phải có giới và định.

*Tam học rất rõ ràng :

Giới cho chúng ta quản thúc 6 căn. Định trói chặt 6 căn và Tụê soi thấu 6 căn.


Tại sao chúng ta sanh tử ? Là vì trong đầu có những góc tối không được soi thấu. Giải thoát là gì ? Là giải quyết vấn đề của sanh tử, bằng cách là soi thấu nó để đừng tiếp tục hiểu lầm về nó nữa.
 
Sửa lần cuối:
Top