• 🚀 Đăng ký ngay để không bỏ lỡ những nội dung chất lượng! 💯 Hoàn toàn miễn phí!

Đạo lý Hướng dẫn Thiền hơi thở cơ bản

Đề mục niệm hơi thở
Giới thiệu đề mục

Quán niệm hơi thở là đề mục có trong thiền chỉ samatha và thiền quán vipassana.

- Với samatha thì hơi thở là 1 trong 40 đề mục hay 1 trong 10 đề mục tuỳ niệm

- Với vipassana thì nó thuộc thân hành niệm ( quán thân trên thân )

Nhận xét : đây là đề mục đơn giản, dễ thực hiện cho mọi căn cơ, thực hiện được mọi nơi.

Phân biệt thiền chỉ và thiền quán hơi thở:

+ Thiền chỉ thì niệm đặt ở mỗi hơi thở ra vào thôi. Dễ nhất là ở chóp mũi. Chỉ tập trung niệm và định đối với hơi thở và không quan tâm các đối tượng khác. Hay nói theo chuyen môn là cột chặt tâm vào hơi thở.

+ Thiền quán thì đặt niệm tương tự nhưng có gì đó đi qua thì thay đổi đối tượng ghi nhận ( đau lưng, tê chân, buồn ngủ, phóng dật, chán nản … ghi nhận tất cả những gì đang diễn ra tuỳ thuộc vào hiện tại cái gì diễn ra mạnh nhất thì đặt niệm ở đó). Hay nói theo chuyên môn là ghi nhận mọi chuyển động diễn ra trong thân tâm ngay hiện tại.

Chánh kinh

Này các Tỷ kheo, thế nào là Tỷ kheo sống quán thân trên thân?

Này các Tỷ kheo, ở đây Tỷ kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở vô dài"; hay thở ra dài, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở ra dài"; hay thở vô ngắn, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở vô ngắn"; hay thở ra dài, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở ra ngắn"; Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập; "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

Này các tỷ kheo, như người thợ quay hay học trò người thợ quay tuệ tri thiện xảo, khi quay dài, tuệ tri rằng: "Tôi quay dài"; hay khi quay ngắn, tuệ tri rằng: "Tôi quay ngắn." Cũng vậy, này các Tỷ kheo, Tỷ kheo thở vô dài, tuệ tri: "Tôi thở vô dài"; hay thở ra dài tuệ tri: "Tôi thở ra dài"; hay thở vô ngắn, tuệ tri: "Tôi thở vô ngắn"; hay thở ra ngắn, tuệ tri: "Tôi thở ra ngắn"; "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập; "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

Như vậy, vị ấy sống, quán thân trên nội thân hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước vật gì ở trên đời. Này các Tỷ kheo, như vậy Tỷ kheo sống quán thân trên thân.

Giải thích chi tiết các câu Kinh trên : https://xamvn.nl/r/huong-dan-thien-hoi-tho-co-ban.745931/post-17725266

-----------------------------
Kinh nghiệm về hơi thở

Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên. Có người hỏi là ta nên định tâm vào hơi thở hay sự chạm xúc của hơi thở ? Câu trả lời là chỉ nên định tâm vào hơi thở. Hơi thở chạm xúc vào lỗ mũi hay môi trên là nơi dễ theo dõi nhất. Sự chạm xúc là một đề tài thiền quán khác biệt, thuộc về pháp môn quán danh (quán danh-sắc). Đó là pháp quán Xúc giới và các tâm sở có liên quan. Ở đây, chúng ta chỉ quán niệm vào hơi thở, hơi thở có chạm xúc, mà không quán vào sự chạm xúc. Quán niệm hơi thở nầy cần có một chánh niệm vững mạnh và tuệ giác tri.

Bây giờ ta đem tâm vào hơi thở, hơi thở vào và hơi thở ra. Nếu thiền sinh không thể chú tâm vào hơi thở sau một vài buổi thiền, thì có thể tập đếm hơi thở. Việc nầy để giúp họ phát triển định lực. Thiền sinh đếm số sau mỗi hơi thở, như sau: "thở vào ... thở ra ... một", "thở vào ... thở ra ... hai", "thở vào ... thở ra ... ba", ... cho đến "thở vào ... thở ra ... tám". Có thể đếm từ năm đến mười, rồi trở lại số một. Tuy nhiên, thiền sinh nên đếm đến số tám rồi trở lại từ đầu. Số tám là để nhắc nhở chúng ta về Con Đường Tám Chánh (Bát Chánh Đạo) mà chúng ta đang cố gắng hành trì để giác ngộ. Các bạn cần phải cương quyết không để phóng tâm, tâm lang thang chỗ nầy chỗ kia, trong khi đếm hơi thở. Chỉ chú tâm theo dõi hơi thở và đếm số, từ 1 đến 8 rồi trở lại 1 ... Qua việc chỉ chú tâm vào đếm hơi thở như thế, tâm sẽ trở nên an định hơn. Thông thường thì cần phải thực hành như thế trong một giờ để tâm được an định và vững chắc.

Sau đó, khi tâm an định, bạn có thể bỏ lối đếm hơi thở và chuyển sang giai đoạn kế. Nếu bạn thở vào một hơi dài, bạn biết đó là một hơi dài. Nếu bạn thở ra một hơi dài, bạn biết đó là một hơi dài. Tương tự, nếu bạn thở vào một hơi ngắn, bạn biết đó là một hơi ngắn. Nếu bạn thở ra một hơi ngắn, bạn biết đó là một hơi ngắn. Ở đây, dài hay ngắn là gì ? Đó là khoảng thời gian. Nếu cần một thời gian dài để thở thì đó là hơi thở dài. Nếu cần một thời gian ngắn để thở thì đó là hơi thở ngắn. Tuy nhiên, phải thở bình thường mà không cố gắng ép hơi thở. Không nên đặt tên nó là "dài" hay "ngắn". Nếu cần phải đặt tên thầm trong tâm, thì đặt tên nó là "thở vào, thở ra" mà thôi. Chỉ cần biết nó là hơi dài hay ngắn, nhưng lúc nào cũng phải chú tâm vào luồng hơi đang chạm xúc vào lỗ mũi hay môi trên. Không nên đem tâm đi theo luồng hơi vào trong thân thể hay chạy ra ngoài thân thể. Nếu thiền sinh để tâm theo dõi luồng vào trong thân hay ra ngoài thân thì sẽ không thể làm hoàn hão sự định tâm. Cần phải chú tâm ghi nhận hơi thở đang chạm xúc lỗ mũi hay môi trên trong một, hai, hoặc ba giờ.


Đến đây, định tướng (nimitta, ni-mít-tá) sẽ phát sinh. Nếu định tướng không phát sinh thì bạn có thể chuyển sang hành trì như sau: thiền sinh để tâm ghi nhận toàn luồng hơi liên tục từ đầu đến cuối. Bạn không nên đặt tên là: "chặng đầu, chặng giữa, chặng cuối". Nếu cần phải đặt tên thầm trong tâm, thì đặt tên nó là "thở vào, thở ra" mà thôi. Trong lúc đó, nhận biết toàn luồng hơi từ đầu đến cuối, đang chạm xúc tại một nơi cố định (lỗ mũi hay môi trên), và tuyệt đối không theo dõi nó vào bên trong thân thể hay ra bên ngoài. Nếu thiền sinh hành trì như thế trong một hay hai giờ thì định tướng có thể sẽ phát sinh.

Bây giờ, cho dù định tướng có hiện ra hay không, thiền sinh tiếp tục sang giai đoạn kế. Trong giai đoạn nầy, bạn tạo một ước nguyện trong tâm: "Nguyện cho hơi thở của tôi được nhu nhuyễn". Từ từ, hơi thở sẽ tự nó trở nên dịu dàng, nhẹ nhàng, nhu nhuyễn. Bạn không nên cố tình ép hơi thở để nó nhẹ nhàng. Bởi vì nếu làm như thế thì chẳng bao lâu, bạn sẽ bị hụt hơi và tạo mệt nhọc. Khi hơi thở tự nó trở nên nhẹ nhàng và tâm an định theo nó, qua thiền lực, hầu hết các thiền sinh sẽ cảm thấy lâng lâng, như thể là họ không có đầu, không có mũi, không có thân nữa, mà cảm thấy chỉ có hơi thở vào ra nhẹ nhàng và một cái tâm đang theo dõi nó. Lúc nầy, bạn cảm thấy là không có "tôi", mà cũng không có "nó". Bây giờ, chỉ còn có một tâm đang gắn chặt vào hơi thở. Nếu tâm được an định và chăm chú vào đó trong một giờ, thì trong thời gian nầy, tâm không còn liên hệ đến các chuyện thế tục nữa. Tâm đang ở trong trạng thái thiện(kusala), và trạng thái thiện nầy rất gần đến trạng thái cận định (upacara samadhi).


Đến đây, tùy theo giới hạnh của từng cá nhân, định tướng sẽ hiện ra. Mỗi cá nhân khác nhau sẽ có những định tướng khác nhau. Dù đang nhắm mắt, theo dõi hơi thở, dần dần thiền sinh sẽ thấy định tướng hiện ra, có khi như là một làn chỉ trắng, một luồng ánh sáng trắng, một ngôi sao, một cụm mây hoặc một nhúm bông gòn. Nó có thể rất to, trùm cả khuôn mặt, hoặc như mặt trăng, mặt trời, hoặc một viên ngọc thạch, một viên ngọc trai. Nó hiện ra trong các hình sắc khác nhau là vì nó do tưởng uẩn (saññā) tạo ra.

Lúc ban đầu, định tướng có thể giống như có màu khói xám. Dần dần, nếu giữ tâm được an định vào hơi thở, hơi thở và màu khói xám trở thành đồng nhất với nhau, không khác biệt. Sau đó, nếu tâm được an nhẹ và chỉ chú mục vào hơi thở, màu sắc đó trở thành trắng đục. Mặc dù là màu trắng, nhưng nếu bạn chỉ chú mục vào hơi thở, hơi thở sẽ trở thành định tướng và định tướng chính là hơi thở. Nếu hơi thở và định tướng là một, không khác biệt, khi bạn chú mục vào hơi thở thì bạn cũng chú mục vào định tướng, và khi bạn chú mục vào định tướng thì bạn cũng chú mục vào hơi thở. Và như thế, bạn hành thiền tốt và nghiêm túc.


Nếu định tướng trở nên vững bền và nếu bạn chỉ chú tâm vào định tướng của hơi thở (anapana nimitta), mà không chú tâm vào hơi thở nữa, tâm bạn trở nên tập trung vào định tướng lúc đó. Trong giai đoạn nầy, điều quan trọng là thiền sinh không nên tìm cách chuyển hóa định tướng. Bạn không nên tìm cách đẩy nó đi xa, hoặc làm cho nó thay đổi hình dạng. Nếu làm như thế, định lực của bạn sẽ không phát triển, và định tướng có thể sẽ biến mất.

Tuy nhiên, nếu định tướng hiện ra quá xa đối với lỗ mũi thì thiền sinh chưa có đủ lực để chuyển sang mức thiền định hơi thở (anapana jhana samadhi). Tại sao? Bởi vì đây là một nguyên tắc quan trọng trong việc quán niệm hơi thở. Bản luận giải có đề cập rằng việc luyện tâm thiền định niệm hơi thở(anapanasati samadhi bhavana) chỉ hoàn tất khi nào tâm quán niệm được giữ tại nơi mà hơi thở chạm xúc với cơ thể. Khi thiền sinh chú định vào bên ngoài, xa lìa nơi chạm xúc, thì rất khó mà đạt vào tầng thiền định. Do đó, khi định tướng còn ở xa, thì thiền sinh không nên chú tâm vào nó, mà phải chú tâm vào hơi thở tại một nơi cố định. Từ từ, định tướng sẽ đến gần và hòa nhập vào hơi thở.

Khi định tướng có màu khói xám thì đó là sơ tướng (parikamma nimitta) trong trạng thái sơ định (parikamma samadhi). Nếu nó trở thành màu trắng như một nhúm bông gòn, đó là học tướng (uggaha nimitta). Đây là một trạng thái định khá cao. Nếu màu trắng nầy được vững bền, thiền sinh phải an định tâm và chú mục vào đó. Trong giai đoạn nầy, bạn không nên chú ý đến màu sắc của nó, mà chỉ chú tâm vào đó như là một loại định tướng mà thôi.


Thí dụ như một ly nước và có một hạt ngọc trai trong đó. Ta chỉ nhìn hạt trai, như thể đem tâm vào định tướng. Không nên điều tra, trạch vấn về Khổ, Vô thường, Vô ngã. Không cần biết nó nóng hay lạnh, cứng hay mềm, mà cũng không cần phân tích màu sắc của nó. Chỉ cần giữ tâm an định và chú mục vào định tướng. Làm như thế, dần dần định tướng sẽ chuyển từ màu trắng đục sang một màu chói sáng. Đây là tợ tướng (patibhaga nimitta). Nếu tâm vẫn giữ an định và chỉ chú mục vào định tướng khoảng 1 đến 2 giờ, hầu hết các thiền sinh đều có thể nhận rõ 5 thiền chi (jhananga) rất dễ dàng nếu họ phân tích chúng lúc đó. Năm thiền chi đó là:

  1. Tầm (vitakka): đem tâm hướng về định tướng,
  2. Tứ (vicara): bám sát vào định tướng,
  3. Hỷ (pity): ưa thích định tướng,
  4. Lạc (sukha): cảm giác an lạc, sung sướng khi tiếp xúc với định tướng,
  5. Nhất tâm (ekaggata): tập trung tâm về một điểm (đó là định tướng)
Cũng cần biết thêm ở đây là có khi thiền sinh không thể nhận rõ được năm thiền chi trên, là vì lúc đó, thiền sinh vẫn còn bị các triền cái (nivarana) ngăn che. Đó là:

  1. Tham dục (kamachanda)
  2. Sân hận (vyapada)
  3. Hôn trầm (thiramiddha)
  4. Trạo cữ (udhaccakukucca)
  5. Nghi ngờ (vicikiccha)
Thiền sinh phải duyệt xét từng triền cái một, để xem chúng còn vương vấn trong tâm trong lúc hành thiền hay không. Chúng cần phải được loại bỏ thì việc đắc thiền mới thành tựu.

Khi năm thiền chi đều cùng hiện diện đầy đủ, thiền sinh sẽ thấy ngay là mình đang vào tầng thiền thứ nhất (đệ nhất thiền), với tợ tướng là đề mục trong tâm, có tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm. Tiếp tục hành trì trong Nhất Thiền như thế khoảng 1 đến 2 giờ, rồi xuất thiền và duyệt lại năm thiền chi cho tường tận.


Trong các buổi thiền kế tiếp, thiền sinh tiếp tục ôn tập, và hành trì thuần thục trong tầng thiền thứ nhất. Có năm loại thuần thục:

  1. Thuần thục phân biệt: phải thuần thục trong việc phân biệt các thiền chi sau khi xuất thiền
  2. Thuần thục nhập định: phải thuần thục nhập thiền bất cứ lúc nào mà mình muốn
  3. Thuần thục quyết tâm: phải thuần thục giữ mức thiền trong suốt thời gian mà mình đã định trước
  4. Thuần thục xuất định: phải thuần thục xuất ra khỏi tầng thiền mỗi khi mình muốn
  5. Thuần thục xét duyệt: phải thuần thục xét duyệt các thiền chi. Tương tự như mục số 1.
Thiền sinh nên nhận thức rằng tầng thiền thứ nhất rất gần với năm triền cái - tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo cữ, và nghi ngờ. Thiền sinh cũng nên nhận thức rằng các thiền chi Tầm và Tứ trong tầng thiền thứ nhất làm cho tầng thiền nầy không an định bằng tầng thiền thứ nhì. Vì thế, từ ước muốn rời bỏ hai thiền chi nầy và chỉ còn giữ thiền chi Hỷ, Lạc, Nhất Tâm, thiền sinh tiếp tục đem tâm vào tợ tướng. Làm như thế, thiền sinh sẽ có thể đạt vào tầng thiền thứ nhì, vốn chỉ còn ba thiền chi: Hỷ, Lạc, và Nhất Tâm. Sau khi vào được Nhị Thiền, thiền sinh hành trì năm loại thuần thục tương tự như trên.

Sau đó, thiền sinh nhận thức rằng Hỷ cũng không đem lại an định, nên có ước muốn bỏ Hỷ, chỉ còn giữ lại Lạc và Nhất Tâm, thiền sinh tiếp tục đem tâm vào tợ tướng. Làm như thế, thiền sinh sẽ có thể đạt vào tầng thiền thứ ba, vốn chỉ còn hai thiền chi: Lạc, và Nhất Tâm. Sau khi vào được Tam Thiền, thiền sinh hành trì năm loại thuần thục tương tự như trên.

Sau đó, thiện sinh nhận thức rằng nếu cứ duy trì Lạc thì lại là một hình thức tham thủ vào cảm giác vui sướng. Cho nên, với ý định bỏ Lạc, thiền sinh tiếp tục đem tâm vào tợ tướng. Làm như thế, thiền sinh sẽ có thể đạt vào tầng thiền thứ tư. Lúc đó, hai thiền chi mới sẽ sinh ra: Xả và Niệm, thay thế Nhất Tâm. Lúc bấy giờ, thiền sinh ở trong trạng thái "xả niệm thanh tịnh", không còn câu chấp vào các cảm giác, và hơi thở trở nên nhẹ nhàng, hầu như tan biến. Tợ tướng trở nên rõ ràng, tròn sáng, quen thuộc, gần gũi, không xa lạ, và thiền sinh chú mục vào đó một cách nhẹ nhàng, bình thản. Sau khi vào được Tứ Thiền, thiền sinh hành trì năm loại thuần thục tương tự như trên.


Thiền sinh nên tìm đọc bộ Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhi Magga) của Ngài Buddhaghosa, nhất là phần Niệm Hơi Thở trong chương VIII. Sau cùng, thiền sinh cũng cần nên biết rằng công phu hành thiền để đắc bốn tầng thiền như trên chỉ là một giai đoạn sơ khởi, tạo định lực bền vững, dùng đó để làm cơ sở phát triễn tuệ minh sát và tiến đến giải thoát. Trong tiến trình tu học, thiền sinh không nên dừng ở đó, mà cần phải tiếp tục nỗ lực hành trì các giai đoạn kế tiếp, như quán từ bi, quán niệm ân đức Phật, quán tứ đại, quán các sắc pháp, quán thân thể (32 bộ phận), quán các danh pháp, quán lý duyên sinh và các giai đoạn thanh lọc tâm.

Tóm tắt :

9X3kXD4.jpeg



Không có mô tả ảnh.
 
Sửa lần cuối:
Đó là bạn bị phóng dật nên nghĩ đủ thứ, hồi tưởng quá khứ, ước vọng tương lai ...

Vì vậy khi bị phóng dật thì nên quay trở lại an trú trên hơi thở chứ chớ để tư tưởng đi lung tung nhé.
Phóng dật là tâm chạy lung tung đó hả?
An trú trên hơi thở là tập trung quan sát hơi thở vào, thở ra thay vì cứ quay đi quay lại như khi phóng dật hé?Gồng cứng hết cả người để tập trung, nhức hết người
 
Phóng dật là tâm chạy lung tung đó hả?
An trú trên hơi thở là tập trung quan sát hơi thở vào, thở ra thay vì cứ quay đi quay lại như khi phóng dật hé?Gồng cứng hết cả người để tập trung, nhức hết người

Phóng dật : Tâm tán loạn, phóng lung tung, không tập trung vào cái cần và phóng đến cái không cần. Hay giới trẻ hay dùng là overthinking chẳng hạn là 1 dạng phóng dật hay hoài nghi.

Thả lỏng, thẳng lưng chứ không cần gòng. Bạn chỉ theo dõi hơi thở thôi. Đó là thiền chỉ.

Còn thiền quán là quan sát toàn bộ từ hơi thở, thân mình đau nhức, buồn chán, ... là thiền quán.
 
Thế lúc ngồi mà não cứ bị nhức, căng tức không thấy thoải mái, dễ chịu rất khó chịu là bị gì thế?
 
VỐN LIẾNG AN LẠC
🪷
🪷
🪷


Có hai trường hợp an lạc cho người lành:

1.An lạc do quả lành đời trước nên nay được sống trong môi trường như ý.

2. An lạc do nhân lành hiện tại, dầu sống ở đâu cũng an lạc với thiện pháp trong tâm.
Quí vị hỏi tôi căn cứ vào đâu mà giảng điều này, nhiều lắm, nhưng tôi đơn cử Kinh Pháp Cú:

Nay vui đời sau vui
Kẻ thiện hai đời vui
Vui thấy mình làm thiện
Sinh lạc cảnh vui hơn

Khi sống bằng tâm lành như: tha thứ, bao dung, hào sảng, biết thiền định, chánh niệm, thì lòng vui cách lạ mà người không tu không hiểu được. Thay vì bỏ cả đời mua hột xoàn tối về săm soi hoặc đếm tiền trong bank. Có cái này đếm hay hơn nè: đừng nói, đừng khoe với ai hết, âm thầm nghe giáo lý ghi chép lại vô một cuốn sổ tay. Nghe giảng mà thấy kỳ kỳ thì vào google mà search, cái nào hiểu thì ghi note, cuốn sổ dày thêm thì cái đầu bớt ‘bư’.

Chưa hết, ở không thì luyện hơi thở. Đây là tuyệt chiêu
‼️


Ngồi để ý hơi thở ra vô; buổi đầu chỉ biết ra vô, sau đó biết ra dài, vô dài, sau đó biết thêm mình hít thở bằng tâm trạng gì, hít thở bằng cảm giác gì. Đến một lúc nào đó mình có hai khả năng Chỉ và Quán.
Chỉ thở bằng chánh niệm. Sống chậm lại, đi đứng nằm ngồi chánh niệm. Đó chính là hộp châu báu của mình. Khi sống chánh niệm, sống bằng thiền Chỉ, thiền Quán qua hơi thở, bà con hãy thử thế này: đau chỗ nào, mình tự kỷ ám thị, chuyển hơi thở đến chỗ đó. Cái này không có trong kinh điển, ta chơi một mình, nhưng rất là hay.

‼️
Thử đi. Cứ ngồi tập trung, đau lưng cứ chuyển hơi ấm vào ngay chỗ đau.


Khoa học có nhìn nhận khi mình cạo gió giác hơi có chỗ không đau bởi oxy chỗ đó bị nghẽn, khi mình cạo gió mình đã khai thông nơi đó cho oxy, máu vận hành.

Thay vì dùng tác động của đồng xu cạo gió hay ống giác, mình dùng tâm chuyển hơi đến nơi đó. Rất là đặc biệt. Thay vì mình săm soi đồ quí, tại sao mình không săm soi bản thân mình.

Một chuyện rất độc đáo đó là khả năng nhịn, khả năng tha thứ của mình bây giờ sẽ khá hơn ngày xưa rất nhiều, khả năng định tâm của mình tốt hơn ngày xưa rất nhiều.

Trước tình huống nguy kịch chỉ cần quay về hơi thở là đã ngon lành như Triệu Tử Long ở Đương Dương Trường Bản. Tu làm sao mà trước thị phi ok một chút, tu làm sao mà trước sự sợ chết, bệnh ngặt ok một chút. Sống bằng vốn liếng nào thì mình sẽ an lạc theo mức độ vốn liếng mình có.

Tôi nhắc lại lần nữa, thử đi, hay lắm quí vị, giống như người ta luyện bùa vậy

Như võ Năm ông đó, người ta chí thú luyện tối ngày, nhìn cây nhang niệm chú riết rồi cũng có lúc thành, muốn đánh cái gì thì ra cái đó, không biết đau. Ba cái thứ tà ma ngoại đạo người ta còn chịu hạ thủ công phu, sao trong chánh đạo mình không làm. Khả năng chịu đựng thị phi, khả năng đối diện với cái chết là hai khả năng mình phải tự treo lên trước mặt như một dấu mốc công phu để tự mình cố gắng.
 
Sửa lần cuối:
Tại sao lại phải tu hơi thở?

Bởi vì hơi thở là hiện tượng lý tưởng nhất để ta nhận ra hoạt động và sự tồn tại ngắn ngủi của thân tâm. Không một hoạt động nào của cơ thể lại thường trực và dễ nhận ra như hơi thở.

Ví dụ tuần hoàn của máu huyết thì tuy là liên tục và thường trực nhưng làm sao mình cảm nhận được? Còn những tư thế sinh hoạt như ăn uống, nằm ngồi, đi đứng, nhai nuốt, gãi vuốt, chà xát, cầm lên để xuống, tiểu tiện, tắm giặt,… thì lúc có lúc không. Chỉ có hơi thở. Hơi thở là hoạt động thường trực nhất mà dễ nhận ra nhất trong người mình.
Còn những cái kia thường trực mà khó nhận ra.


Chỉ quan sát hơi thở thì ta mới toàn tâm toàn ý dốc hết sự chuyên chú vào đề mục, vào tấm thân này cùng với những biến chuyển tâm lý đi kèm. Đây! Tôi đang thở ra bằng sự hờn giận. Đây! Tôi đang thở ra bằng sự ghen tuông, sợ hãi, tiếc nuối, áy náy, ray rứt, thao thức, trăn trở… Không có hiện tượng nào trong cơ thể của mình lý tưởng hơn hơi thở.

Quý vị tìm cho tôi đi. Những hoạt động thường trực khác là quá sâu kín, quá trìu tượng. Chỉ có hoạt động hơi thở là cái mình có thể theo nó, dựa vào nó để nhận ra thân tâm này, bản chất của nó ra sao. Tức là dựa vào hơi thở mình mới thấy được "À, thì ra sự tiếp nối buồn và vui liên tục như vậy, sự tiếp nối của cảm giác dễ chịu và khó chịu liên tục như vậy." Không quan sát hơi thở thì chúng ta khó bề mà nhận ra được sự biến chuyển liên tục, thường trực, thường xuyên của tấm thân này. Chỉ quan sát hơi thở.

Quan sát tâm thì lại là đề mục khác. Trong bài kinh này Đức Phật nhìn căn cơ của những vị Tỳ kheo đang ngồi trước mặt mà Ngài giảng về đề mục thân hành tùy niệm. Ở một chỗ khác, thì Ngài lại dạy quán thân quán thọ, quán pháp. Nhưng ở đây, ngay chỗ này, Ngài nói về thân hành niệm.

Một lần đó Đức Phật và chư tăng sau một chuyến du hành hoằng hóa lâu ngày, chuyến đi đường xa trở về chùa Kỳ Viên. Buổi chiều đó chư tăng ngồi với nhau. Các vị phàm tăng nhắc lại chuyến đi. Một vị thích hồ thì nói rằng: “Ở yên một chỗ đâu ngờ trên đời này lại có những cái hồ đẹp vậy.” Vị thích rừng thì nói: “Đâu ngờ trên đời lại có những cánh rừng đẹp vậy.” Có vị thích suối, thích hoa, thích ong bướm, có vị thích ngã ba sông bát ngát, những cánh đồng ngút mắt. Đức Thế Tôn từ hương thất bước qua giảng đường, ở đó lúc nào cũng có chỗ ngồi sẵn cho Ngài, Ngài bước vào ngồi xuống và hỏi: “Các ngươi đang bàn chuyện gì?” Câu chuyện bị gián đoạn bởi sự có mặt của Như Lai. Chư tăng thưa họ đang nhắc lại những nơi chốn đã đi qua. Đức Phật dạy rằng: "Này các Tỳ kheo, không có vùng đất nào đáng để chúng tay lưu tâm chú ý cho nhiều bằng cái thân này, cái tâm này. Thân tâm này chứa hết vũ trụ trong đó, siêu đọa hay giải thoát mai sau đều nằm hết ở đây”.

Tức là mai này mà mình có thành Bill Gates hay Steve Jobs, có giàu, có giỏi, có tiếng tăm, hay vô danh, nghèo đói dưới gầm cầu, mái hiên hay con giòi, con bọ dưới cống, hay phạm thiên trên các cõi, thì tất cả các điều đó đều khởi đi từ thân tâm này. Có đúng không?

Bây giờ tự nhiên có người ăn rồi là chui vô một góc ngồi hít thở. Khi nào có dịp bố thí thì đi bố thí, có dịp đi phục vụ thì đi phục vụ, có dịp nghe pháp thì đi nghe pháp. Còn hễ không chuyện gì thì liền chạy về góc ngồi lim dim. Đời sống người đó nhìn thì có vẻ hình như hơi bị hâm, không bình thường. Nhưng mình đâu có ngờ người đó đang từng ngày từng ngày làm 2 chuyện sau đây: Một là đang đổ nhựa cho con đường giải thoát, mai này chiếc xe của họ cứ lăn bánh mà đi thôi. Hai là trong thời gian chờ đợi giải thoát thì họ đang kiến tạo những khu vườn, những lâu đài, hồ nước, hoa viên cực đẹp mà mình không ngờ. Bởi vì họ đang tu. Cứ quởn là ngồi thiền chỉ, thiền quán. Còn có dịp thì bố thí, phục vụ, nghe pháp. Quý vị tưởng tưởng đó có phải là kiểu sống đang đổ nhựa cho đường giải thoát, đang âm thầm xây những lâu đài hoa viên cho kiếp sau không? Chính xác là đúng! Thay vì bàn bạc về phong cảnh này phong cảnh kia thì họ quay về với tấm thân này và họ xử lý nó. Họ đã ngẫu nhiên, tình cờ, âm thầm kiến tạo ra cảnh giới cho họ có mặt mai này trong thời gian họ trên đường giải thoát sinh tử. Qua thân hành niệm, hành giả mở ra con đường giải thoát và âm thầm kiến tạo những lạc cảnh tuyệt vời cho mai sau.

Xưa nay ta chỉ cử động theo ý thích nên ta sống thất niệm, phóng dật, lúc buồn lúc vui không kiểm soát. Sinh hoạt kiểu đó một tỉ năm cũng chỉ là tạo nhân sanh tử. Nay biết pháp môn thân hành niệm, ta thở ra thở vào cũng là thở công đức, đi đứng nằm ngồi bằng niệm và tuệ đều là hoạt động công đức. Mỗi nhúc nhích đều là công đức. Phải tin như vậy, có chết cũng phải hiểu như vậy. Bởi vì niệm và tuệ là tâm lành. Nếu đủ duyên thì chứng thánh ngay đời này. Còn chưa đủ duyên thì đi cầu cũng là công đức. Chải tóc, rửa mặt, lau mặt, xức dầu,... tất cả đều là công đức. Vì sao? Vì mình sống bằng niệm.

Hôm nay mình học thân hành niệm mới thấy cái đề mục này sâu lắm. Nghĩa là từ khi có được cái pháp này, thì có dịp mình vẫn đi bố thí. Bố thí là vitamin C, còn trì giới là calcium, còn những công đức khác là vitamin B1, B6, B12. Mình không thể nào lấy thuốc bổ này thay thuốc bổ kia được. Thân hành niệm nói riêng, và tứ niệm xứ nói chung là tu tập đường tuệ học. Nhưng mà không phải vì vậy mà mình bỏ lơ những cái khác. Cả vitamin C và calcium đều là những thứ cần thiết. Nhưng mình còn cần bao nhiêu thứ khác nữa, còn cần sắt, magnesium nữa chứ.

Có dịp thì vẫn đi tụng kinh, đi lễ Phật, vẫn nghe pháp, bố thí, vẫn phục vụ người khác, vẫn quét tước, dọn dẹp, rửa chén như bình thường. Nhưng tất thảy những hoạt động lớn nhỏ đều được diễn ra trong chánh niệm. Như vậy thì lúc bấy giờ hít thở cũng là công đức. Gãi lưng, vuốt tóc là công đức. Đi cầu không giúp ai mà cũng là tạo phước. Tôi nói hơi toẹt móng heo như vậy nhưng phải nói như vậy. Vì tất cả đều làm trong chánh niệm. Cái gì làm trong chánh niệm thì cái đó là công đức.
Khi anh sống trong chánh niệm thì thế giới biến đi một mầm loạn. Đó là vô úy thí .

Nhắc lại có 3 loại thí: tài thí là cho vật chất, pháp thí là chia sẻ kiến thức phật pháp, vô úy thí là khiến mình không còn là mối đe dọa cho bất cứ ai.

Quý vị đừng có nói rằng quý vị tay yếu chân mềm, xưa nay quý vị nhút nhát không có lòng hại ai nên quý vị không là mối đe dọa cho ai. Hãy bỏ tư tưởng đó đi vì nó rất là sai. Quý vị có ốm yếu, thiếu máu, kiệt sức nhưng nếu quý vị có cái tật nói xấu, nhiều chuyện, nói đâm thọc người khác thì quý vị đã là mối họa cho nhiều người rồi. Quý vị có thể hoàn toàn khiến cho người ta tan nhà nát cửa bằng một cái email, một cú phone, một tin nhắn. Biết bao nhiêu người đã tự tử vì kẻ khác lấy hình họ đăng trên facebook, để họ nhục mà tự tử chết. Khi thân nhau thì kể cho nhau nghe những bí mật, lúc ghét nhau thì khai quật bí mật của nhau. Vì vậy mình đừng nói rằng sống chánh niệm là vô nghĩa với tha nhân. Kiểu sống chánh niệm tự thân nó đã là vô úy thí, là một pháp bố thí, vì người sống chánh niệm khiến mình trở nên vô hại đối với thiên hạ.

Trích bài giảng Kinh Tăng Chi số 02
 
NHỮNG MỐI BẬN LÒNG

Muốn có chánh niệm thì cần thiết phải dọn dẹp hai chỗ:

- Dọn trong lòng.

Bớt đi những bận lòng, những bận rộn không cần thiết, những cái không đáng nhớ, những cái làm khổ mình. Không nhớ tùm lum chuyện quà cáp sinh nhật, đám giỗ, thôi nôi, đầy tháng, tân gia, email, điện thoại tin nhắn, thương người này, giận người kia, ghét người nọ, cảm ơn người này, lên lớp dằn mặt người kia v.v..., cái đầu chứa quá nhiều thứ thì không kiếp nào mà chánh niệm được.

- Dọn ở ngoài.

Hạn chế nhu cầu ăn, mặc và sinh hoạt. Trong phòng có cái gì không thật sự cần thiết thì nên can đảm bỏ đi để mắt, mũi của mình không bận tâm tới những thứ không cần thiết đó.

Trong phòng ít đồ thì ít bụi; ít đồ thì không có gián, chuột, rắn; ít đồ thì không bị vướng tay vướng chân.

Trong lòng phải bớt những chuyện bận tâm, ở ngoài thì hạn chế tiết giảm tối đa từ trang phục đến vật dụng, thì tôi hứa với quí vị chánh niệm sẽ "lên vun vút". Còn nếu quí vị không thay đổi nếp sống thì không bao giờ, không thể nào chánh niệm tốt được. Phải dọn sạch trống trong lòng. Phải hạn chế những mối bận lòng trong và ngoài đời sống của mình.


Không có mô tả ảnh.
 
NHỮNG MỐI BẬN LÒNG

Muốn có chánh niệm thì cần thiết phải dọn dẹp hai chỗ:

- Dọn trong lòng.

Bớt đi những bận lòng, những bận rộn không cần thiết, những cái không đáng nhớ, những cái làm khổ mình. Không nhớ tùm lum chuyện quà cáp sinh nhật, đám giỗ, thôi nôi, đầy tháng, tân gia, email, điện thoại tin nhắn, thương người này, giận người kia, ghét người nọ, cảm ơn người này, lên lớp dằn mặt người kia v.v..., cái đầu chứa quá nhiều thứ thì không kiếp nào mà chánh niệm được.

- Dọn ở ngoài.

Hạn chế nhu cầu ăn, mặc và sinh hoạt. Trong phòng có cái gì không thật sự cần thiết thì nên can đảm bỏ đi để mắt, mũi của mình không bận tâm tới những thứ không cần thiết đó.

Trong phòng ít đồ thì ít bụi; ít đồ thì không có gián, chuột, rắn; ít đồ thì không bị vướng tay vướng chân.

Trong lòng phải bớt những chuyện bận tâm, ở ngoài thì hạn chế tiết giảm tối đa từ trang phục đến vật dụng, thì tôi hứa với quí vị chánh niệm sẽ "lên vun vút". Còn nếu quí vị không thay đổi nếp sống thì không bao giờ, không thể nào chánh niệm tốt được. Phải dọn sạch trống trong lòng. Phải hạn chế những mối bận lòng trong và ngoài đời sống của mình.


Không có mô tả ảnh.
Đọc cái này thấy lquan đến tham sân si
 
Đọc cái này thấy lquan đến tham sân si
Mọi nguồn khổ đều là gốc tham sân si.

Tham sân si được kể gọn là 3. Nhưng kể rộng thì lúc là 5, lúc là 10.

Nhưng chi tiết nhất là 14 lận !

Nói gọn nhất là hành thiện lánh ác, sống nhẹ nhàng bình thản cùng với nhận thức cái gì có rồi cũng phải mất.
 
Mọi nguồn khổ đều là gốc tham sân si.

Tham sân si được kể gọn là 3. Nhưng kể rộng thì lúc là 5, lúc là 10.

Nhưng chi tiết nhất là 14 lận !

Nói gọn nhất là hành thiện lánh ác, sống nhẹ nhàng bình thản cùng với nhận thức cái gì có rồi cũng phải mất.
Hiền giả cho xin link để nghiên cứu cái 14
 
Sơ lược thì là đây :
CTh82di.jpg



Chi tiết thì là cả topic này . Mình đã định nghĩa 52 hình thái, thành tố tâm lí ở bên đó

https://xamvn.nl/r/phan-tich-tam-li-hoc-chung-sinh-triet-hoc-a-ty-dam.746675/
Ngàn like, trong này thì chắc mấy tml phạm tật phóng dật, tà kiến, tham nữa :)))

Phen vô forum này để share kiến thức cũng lạ thật;))))
 
Ngàn like, trong này thì chắc mấy tml phạm tật phóng dật, tà kiến, tham nữa :)))

Phen vô forum này để share kiến thức cũng lạ thật;))))

Thực ra thiện hay ác nó không phải về mặt tôn giáo, đạo đức. Cái nào cũng chỉ là cái để nhìn, quan sát.
Sẽ có 1 lúc mình sẽ sống thiện vì bản thân mình không còn có khả năng làm ác.

Mình ác nhưng mình biết mình ác thì trong khoảnh khắc đó là đang thiện.
Không có ai thiện hoài cũng như ác hoài. Mọi thứ là vô thường vô ngã.

Như cái bảng ở trên thì trong tâm mình 2 thằng này thay đổi, sinh diệt liên tục:

1 + 13 + 25 = Thiện
1 + 13 + 14 = Bất Thiện
 
Phải phen là người làm topic Phật Giáo Nguyên Thuỷ ko? Mình đang muốn nghiên cứu, đọc hết thread chắc mua bộ 10 cuốn.
 
Phải phen là người làm topic Phật Giáo Nguyên Thuỷ ko? Mình đang muốn nghiên cứu, đọc hết thread chắc mua bộ 10 cuốn.
Đúng rồi, topic đó của mình lập nhưng move qua Hall of fame nên khó sinh hoạt quá.
Với đổi tên miền nên mất hết mấy cái link mình ghim. Topic đó thì giới thiệu rộng quá nên cũng khó nắm cái cốt lõi.

Nói chứ mình chỉ cần đọc 1 ít rồi thực hành thôi chứ không phải nhồi hết đâu.
Rồi quá trình thực hành có chỗ nào thắc mắc hoài nghi thì mình bổ sung vào. Bây giờ mình vẫn như vậy mà :d

Cơ bản nhất là hiểu cơ bản Tứ Diệu Đế + Sống chánh niệm ( Tứ Niệm Xứ hay Vipassana) là đc.
 
Đúng rồi, topic đó của mình lập nhưng move qua Hall of fame nên khó sinh hoạt quá.
Với đổi tên miền nên mất hết mấy cái link mình ghim. Topic đó thì giới thiệu rộng quá nên cũng khó nắm cái cốt lõi.

Nói chứ mình chỉ cần đọc 1 ít rồi thực hành thôi chứ không phải nhồi hết đâu.
Rồi quá trình thực hành có chỗ nào thắc mắc hoài nghi thì mình bổ sung vào. Bây giờ mình vẫn như vậy mà :d

Cơ bản nhất là hiểu cơ bản Tứ Diệu Đế + Sống chánh niệm ( Tứ Niệm Xứ hay Vipassana) là đc.
Phen save bài viết ở local nhé, sau có sập xam còn có backup. Xam thì sập liên tọi, h có link nào tập trung vào tìm hiểu về sự dâm dật và cách tu tâm, hoá giải ko phen?
 
Phen save bài viết ở local nhé, sau có sập xam còn có backup. Xam thì sập liên tọi, h có link nào tập trung vào tìm hiểu về sự dâm dật và cách tu tâm, hoá giải ko phen?
Đây là nội dung mềm nhất mình trích ra từ các pháp thoại. Ngôn ngữ hiện đại dễ hiểu dễ hình dung.

Fen đọc thử xem chỗ nào thắc mắc nhắn hỏi mình. Bây giờ mình chia ra các topic lí thuyết - triết học - thực hành riêng cho dễ đọc và đỡ lạc.

CĂN BẢN CỦA TỨ NIỆM XỨ LÀ GÌ ?

1-Chánh Niệm : Chánh niệm liên tục, không vì lý do gì bỏ chánh niệm dù đang đối diện với cái chết.
2-Buông bỏ : Nó thiện đến mấy cũng chỉ để nhìn, kỵ nhất là tu tứ niệm xứ thấy mình vừa ý tâm đắc.

Hành giả tu Tứ Niệm Xứ không có gì để tâm đắc, không có chỗ nào để hành giả dừng lại thì cái đó mới gọi là tu đúng. Trong Thất Giác Chi có bảy thứ mà trong đó có sáu thứ trồi sụt nhưng riêng Niệm Giác Chi không bao giờ dư. Không biết quí vị còn nhớ bài kinh :"Này các Tỳ Kheo, khi nào vị Tỳ Kheo thấy tâm mình lui sụt, bị động, tiêu cực, thì phải dùng Trạch Cần Hỷ để kéo nó lên. Khi nào thấy nó buông lung loạn động, lăn xăn thì phải dùng Tịnh Định Xả kềm chế nó lại. Riêng Niệm Giác Chi luôn cần thiết ở mọi lúc mọi nơi.

Dẫu tâm đắc gì đi nữa thì hành giả cũng phải nhớ linh hồn thứ hai của Tứ Niệm Xứ là Buông Bỏ, dầu cho mình có giàu có, xinh đẹp, nổi tiếng, trí tuệ, giỏi Phật pháp, ngồi thiền hay, bố thí nhiều, giới luật trong sạch, định tâm giỏi, tất cả những thứ đó hễ còn chỗ nắm, còn chỗ dựa trong chiếc thuyền đang chìm thì chúng ta sẽ chết đuối, không thể ra khỏi con tàu.

Người tu Tứ Niệm Xứ là No Parking.

https://xamvn.nl/r/kinh-nghiem-hoc-phat-van-dap-phat-phap.747014/
 
NĂM ĐIỀU KIỆN ĐẮC ĐẠO

Có năm điều kiện đắc đạo kiếp này :

1- Sức khỏe tốt
2- Có được nền tảng kiến thức giáo lý
3- Thầy bạn ok
4- Trú xứ thích hợp
5- Hành trì liên tục


Năm điều kiện này bà con thấy hình như mình cũng ráng có được chứ ! Nếu năm điều kiện này mình có thể làm được, cho thấy rằng ba-la-mật của mình không đến nổi xoàng. Và quí vị mở lại giùm tôi kinh Trường Bộ và kinh Trung Bộ.

Đặc biệt là Trường Bộ Kinh, trong đó bà con dò cuối kinh Tứ Niệm Xứ có ghi thế này :

“Này các tỳ kheo, một người mà tinh tấn tu tập bốn niệm xứ này thì lâu nhất là bảy năm, nhanh nhất là bảy ngày có thể chứng hai quả vị sau đây : A-la-Hán, A-na-hàm.

Hồi đó tôi đọc tôi sốc lắm, tôi nghĩ sao đắc khó mà Ngài nói có vẻ chắc chắn vậy, nhưng bây giờ tôi già rồi và tôi coi trong Chú giải mới hiểu đó là cách nói mẹo.

Anh mà ba-la-mật yếu thì làm sao có thể tu Đúng 7 năm được, chữ Đúng đó phải gạch dưới, không phải dễ đâu.
Ba-La-Mật là gì ?

-Ba la mật là có khả năng làm thiện.

Làm thiện có hai :

1- Làm thiện cầu quả nhân thiên được gọi là thiện hữu lậu, còn kẹt trong ba cõi sáu đường. Là mong cho kiếp sau sanh ra đẹp, giàu, giỏi, quyền lực, tiếng tăm ..vv. Hữu lậu có nghĩa là thiện mà nó còn dính tới con đường sanh tử.

Và tôi thường nói một trăm người Phật tử VN trong mắt của tôi chưa được một người là Phật tử thứ thiệt, là bởi vì quí vị không phải là người đến với đạo với mục đích cầu giải thoát, mà đến với đạo bằng nhiều lý do :

-Bà ngoại đi thế là má đi, má đi thế là tôi đi. Gia đình có chuyện buồn “hữu sự vái tứ phương, vô sự bất đăng tam bảo điện “, không có chuyện tới chùa tốn nhang thế là đợi coi nhà có ai lật ngang mới vô chùa nhờ tụng kinh. Từ chỗ cúng thất riết mới quen đi chùa luôn lúc nào không hay.

-Đang có tâm sự trùng trùng không biết nói ai, vô kiếm thầy chùa tâm sự khóc thút thít thỏ thẻ thủ thỉ thầm thì bèn thành Phật tử luôn.

-Người quen rủ đi vì tò mò, lúc đầu chở bạn tới chùa ngồi ngoài parking chờ bạn nhưng ngồi lâu quá muỗi chích nên chạy vô nghe pháp rồi trở thành Phật tử.

2-Làm lành, làm thiện với ý cầu quả giải thoát. Đó được gọi là ba-la-mật.
 
Đề mục niệm hơi thở
Giới thiệu đề mục

Quán niệm hơi thở là đề mục có trong thiền chỉ samatha và thiền quán vipassana.

- Với samatha thì hơi thở là 1 trong 40 đề mục hay 1 trong 10 đề mục tuỳ niệm

- Với vipassana thì nó thuộc thân hành niệm ( quán thân trên thân )

Nhận xét : đây là đề mục đơn giản, dễ thực hiện cho mọi căn cơ, thực hiện được mọi nơi.

Phân biệt thiền chỉ và thiền quán hơi thở:

+ Thiền chỉ thì niệm đặt ở mỗi hơi thở ra vào thôi. Dễ nhất là ở chóp mũi. Chỉ tập trung niệm và định đối với hơi thở và không quan tâm các đối tượng khác. Hay nói theo chuyen môn là cột chặt tâm vào hơi thở.

+ Thiền quán thì đặt niệm tương tự nhưng có gì đó đi qua thì thay đổi đối tượng ghi nhận ( đau lưng, tê chân, buồn ngủ, phóng dật, chán nản … ghi nhận tất cả những gì đang diễn ra tuỳ thuộc vào hiện tại cái gì diễn ra mạnh nhất thì đặt niệm ở đó). Hay nói theo chuyên môn là ghi nhận mọi chuyển động diễn ra trong thân tâm ngay hiện tại.

Chánh kinh



Kinh nghiệm về hơi thở




Tóm tắt :

9X3kXD4.jpeg
tao thắc mắc thiền có thấy dc tương lai hoặc nền văn minh ngoài trái đất ko.
nếu dc thì tao luyện:vozvn (25):
 
CỨU CÁNH GIẢI THOÁT LÀ SỰ BUÔNG BỎ
Sư Giác Nguyên giảng

Giải thoát là mục đích để chúng ta hướng tới , nhưng sẽ bậy vô cùng nếu ngồi thiền mà cứ mong đắc .

Tôi thường nói có hai cách tu :

1-Tu để được và đắc cái gì đó .
2-Tu để bỏ cái này cái kia .

Kiểu tu bỏ nó an toàn hơn , vì khi anh tu có ý để bỏ thì lúc nào cũng dễ thương là vì bàn tay lúc nào cũng xoè ra , còn anh tu để được và đắc cái gì đó thì lúc nào anh cũng nắm .

Quí vị biết con khỉ khi nó muốn chuyền từ nhánh này qua nhánh khác chuyện đầu tiên là nó phải buông nhánh cũ nó mới qua được nhánh khác . Còn tu hành mà cứ nắm thì chúng ta không được gì hết .

Thí dụ như ngồi thiền thấy hỷ lạc nó rờn rợn , suốt ngày cứ trông ngồi để thấy nó rờn rợn , thật ra cái rờn rợn đó không phải là cái mình nhắm tới , mà đó chỉ là tí hoa cỏ trên đường thôi . Cái chánh của hành giả tứ niệm xứ là nhìn mọi thứ đang diễn ra , mọi thứ nó đang là cái gì . Cái bậy nhất của hành giả được ba mớ rồi chìm trong đó , sẽ đi không xa .

Có một lần đó Đức Phật và ngài Ananda đi trên một dòng sông . Đức Phật nhìn thấy khúc gỗ trôi , Ngài hỏi :

-Ānanda có nghĩ là khúc gỗ này trôi ra biển được không ?

Ngài Ānanda trả lời :

-Bạch Thế Tôn có thể nó tấp vào bờ , có thể bị người ta vớt , có thể bị nước xoáy rút vào đáy sông , bị mục nửa đường hoặc bị mắc cạn .


Thì người tu hành cũng vậy , khi có lòng đắm đuối trong một cái gì đó thì coi như đã bị mục . Cứu cánh giải thoát là gì ?
Là sự buông bỏ . Có buông bỏ thì mình mới có thể đi đến cứu cánh giải thoát . Vì giải thoát là không còn ràng buộc .

@allendinh
chừng nào đắc đạo =)) =))
 
Top