Các thế lực Quân phiệt cát cứ đánh lẫn nhau
Ở Quan Trung, Lý Thôi – Quách Dĩ chia nhau khống chế Hiến đế, Trương Tế (chú Trương Tú) bị đẩy ra Hoa Âm. Năm 195, Thôi và Dĩ đánh nhau to, Hiến đế trốn về đông. Cả Thôi và Dĩ đều suy yếu. Dĩ bị giết, Thôi cũng bị Đoàn Ổi giết để hàng Tháo (198). Trước đó Trương Tế đã chết. Lực lượng Tây Lương của Trác khói tan mây tạnh
Sau khi Liên quân miền Đông tan rã, hàng chục chư hầu đánh nhau nhằm xâu xé lãnh thổ Sơn Đông.
Ở Hà Bắc, sau khi Viên thiệu hiếp Hàn Phức cướp được Ký Châu, đồng thời Công Tôn Toản giết U châu mục Lưu Ngu, Toản và Thiệu đánh nhau ác liệt nhằm thôn tính địa bàn của nhau. Điền Khải là quân của Toản làm thứ sử Thanh Châu, Thiệu cho con cả là Đàm làm thứ sử Thanh Châu. Toản sai Lưu Bị mang quân sang thanh châu giúp Khải chống Thiệu. Mặt trận Hà Bắc giằng co nhiều năm. Năm 195, Toản thua liên tiếp nhiều trận ở U Châu, đồng thời thua lớn ở Thanh Châu. Toản rút về Dịch Kinh cố thủ. Năm 199 bị Thiệu đánh bại mà chết. Thiệu chiếm được 4 châu Hà Bắc (U, Ký, Thanh, Tinh) mạnh nhất quần hùng. Thiệu giao Cao Cán giữ Tinh châu, 2 con Đàm giữ Thanh Châu, Hy giữ U Châu, được phong Đại tướng quân. Vinh quang của Thiệu lên tới cực điểm.
Ở Duyện châu, năm 192 Tháo đánh bại Khăn vàng Hắc sơn chiếm được Đông Quận. Sau đó Duyện châu thứ sử Lưu Đại bị quân Khăn vàng Thanh Châu giết chết, Tháo đem quân cứu Duyện Châu, được Trần Cung ủng hộ làm thứ sử Duyện Châu. Sau nhiều trận đánh lớn với quân Khăn vàng Thanh châu, Tháo thắng lớn, làm chủ Duyện châu, kiếm được 10 vạn quân Thanh châu – Đây là lực lượng nòng cốt của Tháo trong chiến tranh với chư hầu sau này.
Ở Kinh châu, Lưu Biểu nhanh chóng ổn định tình hình Kinh châu. Thuật bị kẹp giữa chư hầu, thua Trương Tú (cháu Trương Tế) k giữ được Nam Dương bèn chạy về Hoài Nam. Năm 196, Thuật k kìm được dã tâm, xưng đế. Nhưng chỉ được 2 năm, sau khi Bố bị Tháo diệt thì đến lượt Thuật. Thuật định chạy lên bắc theo Thiệu, giữa đường bị chết. Tú năm 197 bị Tháo đánh, hàng rồi lại phản, rồi lại hàng.
Chú 10: Tú hàng rồi, Tháo cướp vợ của Tế là Trâu Thị, ức hiếp Tú. Tú nghe lời của Giả Hủ đem quân đánh úp Tháo. Tháo thua, 1 đứa con (Ngang) 1 đứa cháu (An Dân) cùng mãnh tướng Điển Vi bị giết. Nên mới có câu “Ta bị mất 1 đứa con 1 đứa cháu mà k đau bằng mất Điển Vi”
Ở Từ Châu, sau khi cha Tháo bị giết lúc về quê dưỡng già ở Thanh Châu, Tháo k phân biệt xanh chín, đem quân đánh Từ Châu (194), thắng lớn ở Bành Thanh. Đào Khiêm rút về Đan Dương, sai người cầu cứu Điền Khải. Khải bèn sai Lưu Bị sang giúp Khiêm, đẩy lui được Tháo. Tức giận Tháo tàn sát dân Từ Châu.
Trương Mạc và Trần Cung thấy Tháo mất nhân tâm bèn ủng hộ đón Lữ Bố về làm chủ Duyện Châu. Vốn Bố từ Quan Trung sang k được Thiệu – Thuật và Trương Dương dung thứ bèn về Duyện châu. Bố có được Duyện châu như miếng mỡ từ trời ban xuống cho con mèo đói. Nhưng Bố k chiếm hết được Duyện châu, còn 3 thành trung thành với Tháo. Bố k giữ nơi hiểm yếu lại đóng ở Bộc Dương cự nhau với Tháo. Năm sau, Tháo đổi cách đánh, đánh tan quân Bố, Bố thua bỏ về Từ Châu theo Bị (lúc này Khiêm đã chết Bị được nhường chức châu mục Từ châu)
Nhưng Bố nương nhờ Bị rồi lại cướp Từ Châu của Bị. Hòa với Thuật ở Hoài Nam đánh Tháo, lại hòa với Tháo đánh Thuật. Một kẻ bội tín bội nghĩa như Bố k có kết cục trọn vẹn. Năm 198, Bố đuổi được Bị khỏi Tiểu bái, Bị sang nương nhờ Tháo. Năm đó, Tháo đem Bị sang đông đánh Bố. Bố thua bị bắt giết ở Lầu Bạch Môn.
Chú 11: Trần Cung có kế mà Bố k dùng lại nghe lời vợ là Nghiêm thị, đúng là ngu dại. Trương Liêu hàng Tháo trong dịp này nhưng k phải vì Vũ xin cho. Vũ bắt được vợ lẽ của Bố, mấy lần xin riêng với Tháo, Tháo bèn cướp lấy của mình!
Ở Dương Châu, Thuật muốn đánh chiếm Lư Giang, Cửu Giang bèn sai Tôn Sách (con của Kiên – người đem gia quyến của Kiên theo về với Thuật) đánh, nhưng lại bội ước nhiều lần với Sách. Sách bèn xin sang đông đánh Lưu Do – người được Trác phong làm thứ sử Dương Châu. Sau khi diệt Lưu Do, Sách chiếm được Cối Kê của Vương Lãng, Ngô quận của Nghiêm Bạch Hổ, Đan Dương của Tổ Lãng, rồi Dự Chương của Hoa Hâm. Về cơ bản Sách đã làm chủ Giang Đông.
Năm 197, Thuật xưng đế, Sách tuyệt giao với Thuật, được Tháo phong chức tước. 2 năm sau, Thuật chết, Sách chiếm nốt Lư Giang và Cửu Giang của Thuật. Như vậy chỉ trong có 5 năm Sách đã kiêm tính gần như toàn bộ Dương Châu nhà Hán. Nhân lúc Tháo đi đánh Thiệu, Sách định tập kích Hứa xương nhưng bị bộ hạ của Hứa Cống ám sát mà mất mạng. Ngôi vị thủ lĩnh Giang Đông được trao cho em trai – Tôn Quyền.
Bản đồ chư hầu Năm 196
Ở Ích châu, Lưu Yên làm châu Mục. Quân khăn vàng còn ở nhiều nơi. Sau Yên sai Trương Lỗ đánh Hán Trung để án ngữ lối vào Thục. Lỗ thắng bèn giữ Hán Trung chống lại Yên. Ích châu bị chia 2 – Đông Xuyên là Hán Trung và Tây Xuyên là khu vực còn lại do Yên cai quản.
Ở Giao Châu, Sĩ Nhiếp được phong làm thái thú Giao Chỉ, dần dần kiểm soát cả Giao Châu. Khu vực này thần phục yên ổn suốt thời Đông Hán và Đông Ngô. Quyền chia Giao Châu làm 2, đem Hợp phố về bắc làm Quảng Châu. Sau Nhiếp chết, Quyền dẹp được họ Sĩ, nhập Quảng Châu vào Giao Châu như cũ.
Lại nói về Từ Châu, tuy Tháo chiếm được mà trả cho Bị, lại để cho Xa Trụ làm thứ sử. Đem về giam lỏng ở Hứa Xương – phong làm Tả tướng quân. Bị lẻn đi về phía đông, giết Xa Trụ cướp lại Từ Châu. Nhưng Bị đánh được Xa Trụ mà không có sứ đánh Tào Tháo. Chỉ 1 trận Tháo sang đông mà tan vỡ, Bị trốn lên bắc theo Thiệu, Phi trốn về Nhữ Nam, Vũ cùng đường hàng họ Tào
Chú 12: Có thuyết nói Bị liên minh với Đổng Thừa để chống lại Tào Tháo. Việc này k đúng, có thể là sau khi Bị trốn đi, mới chép chung vào việc của Đổng Thừa để lấy cớ đánh Từ Châu.
Vũ hàng Tháo nhưng k đưa ra 3 điều kiện như TQDN. Một chi tiết nữa là việc Hiến đế nhận họ (Lưu hoàng thúc) là không có thật. Dòng dõi Lưu Bị không xét được, k có chuyện Hiến đế đồng mưu và nhờ Bị như trong TQDN.
Về cơ bản, đến khoảng năm 200 miền Bắc TQ – ngoại trừ Tây Lương trong tay Mã Đằng – Hàn Toại và Công Tôn Độ kiểm soát Liêu Đông – thì chỉ còn 2 lãnh chúa lớn là Viên Thiệu (Kiểm soát 4 châu Tinh – Ký – U – Thanh) và Tào Tháo (3 châu Từ - Duyện – Dự, 1 phần các châu Kinh, Dương). Cuộc chiến lớn kiểm soát miền Bắc phải diễn ra ở phía trước
Khống chế thiên tử, ra lệnh cho chư hầu
Năm 195, vì cùng khổ, Hiến đế bí mật trốn thoát về đông. Hành trình đông tiến gian nan sau 1 năm mới tới Lạc Dương. Đổng Thừa k muốn Hàn Tiêm nắm quyền bèn mời Tháo từ Duyện Châu đến hộ giá. Tháo nghe kế của Mao Giới - Giúp thiên tử mà đánh dẹp phản thần, đem quân đánh bại Hàn Tiêm đón Hiến đế về Hứa Xương
Thiệu ở phía bắc cũng được Thư Thụ đề xuất ý tưởng Hiếp thiên tử mà ra lệnh cho chư hầu. Nhưng Thiệu nghe lời của Quách Đồ, Thuần Vu Quỳnh do dự mà không nghe lời. Đến lúc Hiến đế về Hứa xương, Thiệu hối hận bảo Tháo mang hiến đế tới chỗ mình. Nhưng lúc này Tháo đã có Hiến đế trong tay đời nào nghe theo Thiệu nữa
Tháo giữ thiên tử, dùng mệnh lệnh chế ngự chư hầu là một trong những điểm quan trọng để Tào Tháo thành công. TQ cổ đại trọng tính chính danh, ai giữ thiên tử nghĩa là người đó có quyền lực chi phối các đối thủ khác trong tay, đem quân đi đánh đối thủ là vì vâng lệnh vua. Hơn nữa Tháo có vua trong tay thì có thể giữ chính nghĩa, chống lại cuộc tấn công (phạm thượng) của đối thủ.
Tháo làm thừa tướng, k phải là vua mà lại là vua, khuynh loát triều chính hơn 20 năm cũng nhờ việc này. Đây cũng là tiền lệ để cho các quyền thần đời sau dùng làm bàn đạp cướp ngôi vua.
Thống nhất Phương bắc và tài năng của Tào Tháo
Trận Quan Độ có vai trò rất lớn trong giai đoạn tiền Tam Quốc. Nó là dấu mốc kết thúc giai đoạn thống trị của Viên Thiệu ở Hà Bắc và thống nhất Hoa Bắc sau hơn 10 năm chiến tranh liên miên. Cuộc chiến diễn ra sau khi Thiệu đánh bại Toản ở phía bắc còn Tháo dẹp được các lực lượng Lưu Bị, Viên Thuật, Trương Tú, Lữ Bố.
Về quân đội, cả 2 bên sở hữu lực lượng rất mạnh. TQDN nói Tháo có 7 vạn, Thiệu có 70 vạn nhưng tất nhiên k đáng tin. Có nguồn nói Tháo có 4 vạn, Thiệu có 14 vạn hay Tháo có 10 vạn Thiệu có hơn 10 vạn. Tao nghĩ thuyết thứ 3 là đúng. Lực lượng của Tháo k thể ít hơn Thiệu nhiều được. Chắc chắn phải xấp xỉ nhau mới có thể có cuộc chiến cân sức như vậy. Quân Tào nếu ít hơn nhiều thì họ Viên sẽ bao vây chặt, chỉ vậy thôi đã đủ đánh bại Tào tháo rồi.

Bản đồ Trận Quan Độ
Về nhân sự, Táo Tháo sở hữu rất nhiều tướng giỏi – anh em họ Tào, họ Hạ Hầu, Trương Liêu, Từ Hoảng, Vu Cấm, Nhạc Tiến và Quan Vũ. Quân sư có Tuân Úc, Tuân Du, Quách Gia, Trình Dục, Giả Hủ.. nhưng bị thiếu lương nên chỉ thích hợp với đánh lâu dài (như lời của Quách Gia). Bên Thiệu có Thư Thụ, Điền Phong nhưng đều k được Thiệu trọng dụng. Tướng có Nhan Lương, Văn Xú là mãnh tướng đất Hà Bắc nhưng đều là dạng hữu dũng vô mưu. Ngoài ra còn có Lưu Bị về hàng. Thiệu đánh lâu dài sẽ nhàn.
Thiệu sai quân đánh Bạch Mã, đại quân đánh Diên Tân ở Phía Tây của Bạch Mã. Tháo đem quân cứu Bạch Mã, ở đây Vũ 1 mình 1 ngựa chém chết Nhan Lương, giải vây cho Bạch Mã. Sau đó quân Tháo đi về phía Tây đánh Diên Tân. Văn Xú bị loạn tên bắn chết
(k phải do Vũ giết) . Do quân ít Tháo rút về Nam.
Chú 13: Thời điểm này Vũ biết Lưu Bị còn sống bèn bỏ Tháo về với Bị. Không có chuyện qua 5 cửa chém 6 tướng, cũng k có chuyện đốt đuốc trông chị dâu. Nhưng việc Vũ vừa giết đại tướng của Thiệu mà lại sang quân doanh của Thiệu là một việc làm nguy hiểm, còn hơn qua 5 cửa chém 6 tướng. Tháo biết việc, cảm khái khen Vũ, nhưng tuyệt nhiên k rời khỏi trận địa.
Bị thấy Thiệu rốt cục sẽ thất bại bèn xin đi đến Nhữ Nam đánh tập hậu Tháo, rồi chạy về với Lưu Biểu, đóng quân ở Tân Dã.
Mấy tháng sau 2 bên đại chiến ở Quan Độ, phía nam dòng Biện Thủy. Tháo chống nhau với Thiệu hơn trăm ngày. Sau đó nội bộ quân Thiệu lục đục, Hứa Du sang hàng. Tháo biết quân Thiệu chứa lương ở Ô Sào bèn dẫn kỵ binh đánh úp, đốt cháy kho lương giết Thuần Vu Quỳnh, rồi đại phá quân Thiệu. Thiệu dẫn 1 nhúm kỵ binh chạy về Hà Bắc. Trận Quan Độ là điểm kết của Viên Thiệu
Hai năm sau Thiệu chết. Các con của Thiệu đánh nhau. Tháo ngư ông đắc lợi, dần dần diệt 3 anh em Đàm – Thượng – Hy và cháu của Thiệu là Cao Cán cùng Đạp Đốn, thủ lĩnh Ô Hoàn ủng hộ họ Viên. Năm 207 thống nhất được Hà Bắc.
Năm 211, Tháo đem quân về Tây đánh bại 10 vạn Liên quân Mã Siêu – Hàn Toại. Miền Bắc chính thức là của Tào Tháo.
Trong các tướng lĩnh quân sự cổ đại tao rất phục Tào Tháo. Có 1 chuyện ntn, xưa Thiệu và Tháo còn chơi với nhau, Thiệu hỏi Tháo rằng: “Nếu như việc chẳng xong, thì nên chiếm cứ mặt nào?” Tháo nói: “Ý của túc hạ thì sao?” Thiệu bảo: “Ở phía nam ta giữ lấy Hoàng Hà, phía bắc ngăn các xứ Yên- Đại, kiêm gồm dân chúng Nhung-Địch, ngoảnh về nam để tranh thiên hạ, như vậy có thể nên việc chăng?” Tháo nói: “Ta dùng trí lực của người trong thiên hạ, lấy đạo lý chế ngự họ, chẳng chỗ nào là không ở được.”
Về Trí thuật
Từ thời Xuân Thu – Chiến Quốc đến Tam Quốc, người ta đều dựa vào địa thế hiểm trở để chế ngự địch. Thiệu cũng là dựa vào điều đó. Trái lại Tháo chiếm cứ Duyện Châu để làm bàn đạp bình thiên hạ. Đây là nơi giữa đồng bằng Hoa Bắc, Tứ bề thọ địch, vậy mà cuối cùng đánh bại quần hùng, độc chiếm Trung Nguyên. Đó là do trí thuật của Tháo hơn hẳn người ta, bầy tôi giỏi cũng không hơn được.
Tự cổ vua chúa rất ít người tài năng hơn kẻ dưới, giỏi như Lưu Bang, chẳng qua là giỏi dùng người. Cùng thời Lưu Bị, Tôn Quyền cũng như vậy, chẳng qua là do võ tướng văn quan xuất sắc chứ tự mình cầm quân thì thường thua nhiều hơn thắng. Nhưng Tháo thì ngược lại, tự tay quyết định hết mọi việc. Tháo còn trẻ suốt ngày đọc sách, giỏi binh pháp, tự mình chế định lại Binh Pháp tôn tử, gọi là tân thư. Trong bụng chứa đầy mưu kế. Lúc phòng thủ Hợp Phì chống lại quân Ngô, Tháo viết thư dặn việc cho Trương Liêu mà thắng được Quyền – đúng với câu liệu việc như thần. Lại như lúc Tháo đánh Hy, Thượng chạy tới Liêu Đông, Tháo rút quân về và biết – nếu về sẽ lấy đươc đầu họ Viên, còn ở lại thì phải tốn xương máu mà việc chưa chắc đã thành.
Về dùng người
Một điểm đặc trưng khác của Tháo là giỏi dùng người. Có tài là dùng, theo lối Pháp gia, tận dụng hết khả năng của người ta. Vả lại Tháo dùng k phận biệt kẻ thù hay không. Hàng phục được là dùng. Các tướng Trương Liêu, Bàng Đức, Cao Lãm, Sái Mạo, Trương Tú…mưu thần như Hứa Du, Giả Hủ…đều là người của địch nhưng đều được Tháo dùng hết khả năng của mình. Người xưa có câu thời loạn, anh hùng trọng anh hùng. Tháo không thẹn với 2 chữ anh hùng.
Tháo khôi phục lại sản xuất, bỏ hình pháp khắc nghiệt, quân đội kỷ luật nghiêm minh dân chúng sợ luật phát, khiến cho kinh tế phát triển, xã hội ổn định, lấy được lòng người thiên hạ. Đó là cái mà 2 nhà Ngụy Tấn được hưởng từ Tào Tháo.