Tào Tháo hạ Giang Nam và chia ba thiên hạ
Năm 207, Tào Tháo lấy được đầu 2 anh em Hy, Thượng bèn đem quân nam hạ. Bấy giờ Lưu Biểu đang nắm Kinh Châu. Tôn Quyền đang chiếm Dương Châu. Đây là 2 lãnh địa rộng nhất trong số các lãnh chúa còn lại. Tháo muốn đánh Kinh Châu rồi xuôi dòng Trường Giang nhấc tay lấy Giang Đông, thống nhất đất đai nhà Hán.
Chú 1: Kinh châu có 7 quận thì phần lớn Nam Dương do Tào Tháo chiếm của Trương Tú, Biểu giữ 6 quận là Nam Quận, Trường Sa, Quể Lăng, Linh Lăng, Giang Hạ, Vũ Lăng. Châu trị Kinh châu vốn là Nam Dương – thuộc vùng Trung Nguyên – vì bị Tháo chiếm nên phải dời về đóng ở phía nam. Giang Hạ do Hoàng Tổ trấn giữ để phòng Giang Đông. Bị sau khi thua chạy ở Nhữ Nam đầu quân cho Biểu, được Biểu cho đóng quân ở Tân Dã (thuộc Nam Dương) phòng mặt bắc của Tào Tháo.
Chú 2: Trận hỏa thiêu gò bác vọng được TQDN chép là do Gia Cát Lượng bày mưu cho Lưu Bị để hạ Hạ Hầu Đôn. Quả thực k phải. Sự việc này k chép rõ năm nhưng xảy ra sau khi Tháo đánh Thiệu (năm 200) và trước chiến dịch đánh Ô Hoàn của Táo Tháo (năm Kiến An thứ 12 – năm 207). Năm 208 GCL mới về với Lưu Bị nên k có chuyện ông ta bày mưu cho Lưu Bị
Lưu Bị k bằng Tào Tháo nhưng Hạ Hầu Đôn là kẻ vũ phu mà vô mưu há có thể là đối thủ của Bị sào?
Chú 3: Chuyện Biểu định hại Bị, sai Khoái Việt và Sái Mạo đi giết Bị mà không thành. Bị nhờ con Đích Lư mà chạy thoát về Tân Dã rất vô lý. Bị và Biểu là cái thế chủ khách, Bị ở nhờ nhà Biểu, quân chẳng qua có vài ngàn, há có chuyện Biểu muốn Bị chết mà Bị sống được chăng?
Biểu dẫu k phải đại anh hùng nhưng khi Biểu còn sống rất nhiều nhân sĩ trung châu tới Kinh Châu lánh nạn được Biểu chiếu cố. Bị có tiếng tốt là người hiền, Biểu dẫu có k trọng dụng nhưng nhất định k có ý sát hại.
Khi Tào Tháo đến Tân Dã thì Lưu Bị chạy về Giang Hạ. Biểu trước đó đã bệnh nặng lại lo lắng việc Tào Tháo đánh mà chết. Con nhỏ của Biểu là Tông hàng Tháo (
Con lớn là Kỳ ra Giang Hạ đóng quân thay Hoàng Tổ bị quân Giang Đông giết). Bị bèn chạy đến Giang Lăng để phòng thủ. Bị mang cả dân nên đi k nhanh, Tháo bèn đem 5000 kị binh đi 1 ngày 300 dặm đến Trường Bản thì gặp Bị, đánh Bị thua to một trận. Lúc đó Phi tới cứu được Bị.
Chú 4: Chuyện TQDN có chép việc Trương Phi cầm ngang mâu thét to tới mức Hạ Hầu Lan thổ huyết mà chết. Hạ Hầu Lan k có thật. Ngoài việc cầu bị phá, Tháo cũng nghi ngờ có phục binh cộng với việc quân lẻ vào sâu khiên cho Tháo dừng lại chứ k phải vì sợ Phi
Đến Trường Bản, Lỗ Túc sang viếng Biểu gặp Bị, khuyên Bị k xuống Giao Châu mà liên kết với Tôn Quyền để chống Tào. Bị bèn sai GCL sang đông thuyết Quyền liên Ngô Kháng Tào. Còn Bị thì sang đông đến Giang Hạ với Lưu Kỳ và Quan Vũ.
Chú 5: Cả Lỗ Túc, GCL và Chu Du đều khuyên Quyền liên kết với Bị chống Tháo. Tuy nhiên công đầu đáng ghi cho GCL. Việc Lượng thuyết Quyền chính là cái đinh chốt việc Đông Ngô chống lại tào tháo và Chu Du cầm 3 vạn thủy binh sang Tây đánh Tháo.
Chú 6: GCL thiệt chiến quần nho là sự kiện không có thật. Bấy giờ thân là kẻ đi đến nhà người ta cầu liên minh lại đi đối đáp như phường buôn bán ngoài chợ, quả là chuyện hư cấu. Chuyện Trương Chiêu không đồng ý với chuyện chống Tào cũng có lý do của nó, năm xưa lúc Sách chết có nói với Chiêu, “nếu…nếu lại không thắng lợi thì lại thong thả về tây”. Về tây có nghĩa là về với Tháo.
Chú 7: Chuyện GCL chọc giận Chu Du bằng bài phú Đổng Tước đài là chi tiết hư cấu. Tháo dựng đài Đồng Tước sau chiến bại Xích Bích khá lâu, và cũng là để an hưởng tuổi già, k liên quan gì đến Nhị Kiều.
Tháo đến Giang Lăng bèn tập trung quân đội để sang đông đánh Tôn Quyền.
Về lực lượng 2 bên. Tháo có 15 vạn quân cộng với 7 vạn quân của Lưu Tông đầu hàng, tổng cộng có 22 vạn quân. Kỳ có 1 vạn quân, Bị có 1 vạn quân ở Giang Hạ. Chu Du dẫn 3 vạn quân từ Sài Tang, sang phía tây hội quân với Lưu Bị, tổng là 5 vạn quân.
Trận Xích Bích (Chính xác phải gọi là trận Ô Lâm do xảy ra ở bờ Bắc Trường Giang, Xích Bích ở bờ nam trường giang) diễn ra vào Mùa đông năm 208.
View attachment 275578
Bản đồ Trận Xích Bích
Tiền quân của Tháo chạm trán với quân Tôn – Lưu nhưng thất lợi ở xích Bích nên lùi về bờ bắc đóng trại ở Ô Lâm. Tháo dùng xích sắt nối các thuyền lại với nhau. Bộ tướng của Du là Hoàng Cái thấy thế nghĩ ra cách trá hàng rồi dùng hỏa công và được Du đồng ý. Tháo rất sảng khoái chấp nhận thư hàng. Đúng ngày giờ đã định nhưng Tháo k thấy hàng quân đâu chỉ thấy thuyền cỏ tẩm chất cháy đùng đùng hướng về phía thuyền quân mình. Quân Tào chết vì cháy và vì đuối rất nhiều. Tháo tất tả rút quân về qua ngả Hoa Dung, rồi một mạch về thẳng Nghiệp thành, giao cho Từ Hoảng và Tào Nhân giữ Giang Lăng, Nhạc Tiến giữ Tương Dương, Mãn Sủng giữ Đương Dương. Năm 209, Chu Du đánh Giang lăng, 1 năm sau chiếm được trọng trấn này. Tháo lui về, lấy Tương Dương để làm phòng tuyến đối với 2 nhà Tôn – Lưu đến hết thời Tam Quốc.
Chú 8: Lưu Tông và Sái thị k hề bị giết, Tông sau này vẫn làm quan cho nhà Ngụy nhiều năm và chết già trên đất Bắc, k hề bị Tháo giết. Sái Mạo cũng vậy. Chi tiết tập đoàn Lưu Tông bị giết là hư cấu
Chú 9: Cầu gió đông – TQDN có chép chuyện Du ép Lượng cầu gió đông để có thể áp dụng kế hỏa công. Tuy nhiên đây là chi tiết hư cấu. Du làm đô đốc luyện thủy quân nhiều năm, khu vực Giang Hạ và Sài Tang, Tầm Dương có khí hậu như nhau, Du k biết khi nào có gió đông há Lượng có thể biết sao?
Chú 10: Hoàng Cái trá hàng nhưng k hề chịu đòn roi. Lúc ấy thế của Tháo như trẻ tre, Tháo rất ngạo mạn mà k có chút nghi ngờ gì, nên kế trá hàng ấy rất thuận lợi
Chú 11: Không phải Tháo k biết liên hoàn thuyền chiến lại dễ bị hỏa công nhưng k còn cách nào khác vì quân phương bắc đa phần là kỵ binh, k quen sông nước, bị say sóng nên phải xích thuyền lại. Các mưu sĩ như Tuân Úc hay Trình Dục cũng đều khuyên Tháo mà k được. Đây là việc bất đắc dĩ Tháo phải làm. Sau này Tháo có than “ nếu Phụng Hiếu còn thì cô k gặp phải cảnh này” và “thương thay Phụng Hiếu, tiếc thay Phụng Hiếu” nhưng k phải ngay sau trận Xích Bích.
Chú 12: Vũ tha Tháo ở cửa Hoa Dung cũng là tình tiết hư cấu, k có thật. Tháo thua rút chạy về quân Tôn – Lưu có truy kích nhưng k đủ lực để có thể tiêu diệt được Tào Tháo.Vũ k chặn Tháo ở Hoa Dung nên cũng k thể tha cho Tháo được.
Long Trung đối sách và sự bất lực của Tào Tháo nhằm thống nhất Trung Quốc
Lưu Bị là người cả đời bôn ba lưu lạc, từ Trác Quận miền Hà Bắc xa xôi theo Toản, rồi sang Thanh châu theo Điền khải, xuống Từ châu theo Đào Khiêm, rồi lại lên Ký châu với Viên Thiệu, xuống Kinh châu với Lưu Biểu, có thể nói k có chỗ đứng chân, k có nơi để thi thố tài năng. Ông ta có mãnh tướng (Vũ, Phi, Vân) lại được lòng người mà thủy chung cứ đánh là thua, đến đâu cũng mất đất, mất dân, mất quân.
Điều cốt yếu nhất là Bị thiếu một tầm nhìn và thiếu những người để giúp ông ta thực hiện tầm nhìn đó. Và GCL chính là người giúp Bị việc đó.
Năm 208, Bị nghe lời Tư Mã Huy, 3 lần đến lều tranh thuyết phục Lượng theo về với mình. Lượng thuyết bị rằng Hán thất nghiêng đổ và Bị là người được trao thiên mệnh để phục hưng Hán thất và đưa ra kế sách (đời gọi là Long Trung đối)
Điểm cốt yếu trong Long Trung đối là phân tích tình hình Hiện tại của Bị và đưa ra chiến lược hoạt động cho tập đoàn Lưu Bị - Miền Bắc có 9 châu thì Tháo đã làm chủ 8 châu, chỉ còn Lương châu xa xôi chưa quy phục – dân cư đông đúc, giàu có, binh hùng tướng mạnh. Giang Đông có Tôn Quyền trải 3 đời cha anh có ân uy với quan lại dân chúng, lại có Trường Giang bao bọc nên k thể tính kế với Dương châu được. Chỉ có thể đánh và cướp lấy Kinh Châu và Ích Châu – nơi tôn thất nhà Hán nắm – những người nhu nhược k có năng lực - để làm đất căn bản nhằm bắc phạt tào tháo, tranh thiên hạ. Đây trở thành kế hoạch, tôn chỉ hoạt động lâu dài của tập đoàn Lưu Bị.
Long trung đối sách dựa theo tình thế đương thời và cũng chỉ ra 1 nguyên nhân khiến cho Tào Tháo k thể thống nhất được TQ – Thiên hiểm và sự khu biệt về Địa lý của miền Nam và miền Bắc.
View attachment 275582
Bản đồ Địa hình thời Tam Quốc
Về địa lý, thời Đông Hán có 13 châu – lãnh thổ mà TQ ổn định tới trước thời Thanh (Trung Quốc bản thổ) – ranh giới phía bắc là Trường Thành về Nam, tây bắc là miền Âm Sơn, Hà Sáo, đông bắc tới Liêu Đông, phía tây tới hành lang Hà Tây, đông là biển, tây là Tứ Xuyên về đông. Trung Quốc Bản thổ được chia thành 2 vùng tự nhiên rõ rệt là miền Bắc và miền Nam. Ranh giới tự nhiên là 1 dải Tần Lĩnh ở phía tây (phía bắc của Hán trung) và Hoài Hà (hoặc Trường Giang) ở đông. 2 vùng tự nhiên này được chi phối bởi 2 vùng khí hậu rõ rệt – miền bắc lạnh lẽo, ít mưa, nơi có 2 vùng đồng bằng rộng lớn – đồng bằng Quan Trung (Tam Tần) và Hoa Bắc. Miền nam nóng ẩm mưa nhiều, lắm sông ngòi chằng chịt (Hoài hà, Trường Giang,hồ động đình, hồ bà dương…), núi đồi nhiều.
Đặc điểm này tạo ra sự khác biệt về Quân sự - quân đội miền bắc tận dụng vùng đồng cỏ mênh mông để luyện ngựa, và cũng do phải đối phó với quân du mục người Hồ, nên họ phát triển đội kỵ binh rất mạnh. Địa hình bằng phẳng lại nên giúp cho họ dễ dàng tạo các cuộc tấn công lớn bằng quân kỵ, di chuyển hàng hàng chục vạn quân trong thời gian ngắn. Trong khi miền nam sông ngòi kênh rạch chằng chịt, mưa nhiều nên thủy quân phát triển mạnh mẽ. Miền nam k có đồng cỏ nên k nuôi được ngựa chiến, rất ít kị binh. Miền bắc k có sông hồ lớn như miền Nam nên k có chỗ luyện thủy binh. Do đó trong lịch sử phương nam rất ít khi đánh được miền Bắc và nếu k có chỗ luyện thủy quân, miền bắc cũng k thể vượt được Trường giang mênh mông để đánh được miền nam.
Trong trận xích bích, Tào tháo có 7 vạn quân của Lưu tông, nhưng trong số đó lượng thủy quân k quá nhiều, đồng thời độ trung thành là câu hỏi lớn. Do thủy binh k có nên sau thất bại Xích Bích, Tháo và con cháu đều k cố gắng vượt trường giang thêm 1 lần nào nữa. Miền Nam yên ổn vô sự chính là do Trường Giang là thiên hiểm của Đông Ngô. Sau này, Dương Hỗ - Đỗ Dự nhà Tấn sử dụng Ích châu đóng chiến thuyền, luyện thủy quân mới phạt được Ngô.
Một điểm nữa là miền nam có 2 vùng địa lý rõ rệt – Ích Châu góc tây nam riêng biệt, Kinh – Dương – Giang – Quảng thành một khối phía đông. Trong trận Xích bích nếu như Tháo đánh chiếm được Hán Khẩu sẽ đông hạ Đan Dương lấy Dương châu. Kinh – Dương như thế răng môi, là yếu địa giữ mặt tây Đông Ngô, cũng như Hán Trung với Ba Thục. Bởi vậy suốt thời gian dài, Tôn Quyền đều bằng mọi giá chiếm bằng được Kinh Châu. Trong khi đó Kinh Châu là vị trí Bị buộc phải có để tạo thành thế gọng kìm đánh vào Trung Nguyên. Nếu chỉ có Ba Thục hẻo lánh sẽ k đủ sức tạo ra thế giáp công với phương Bắc. Đây là quả thực là vấn đề chí tử với Kế hoạch Long trung.