MỘT QUỐC GIA ASEAN CÓ THỂ SẮP XẢY RA KHỦNG HOẢNG
Tôi đang nói về một quốc gia tưởng tượng là thành viên của ASEAN. Quốc gia này có thể tồn tại hoặc không. Để tránh những hậu quả tiêu cực không cần thiết, quốc gia này sẽ không có tên và được gọi là quốc gia "N" với đơn vị tiền tệ là "D". Đất nước này là ngôi sao của ASEAN với tốc độ tăng trưởng GDP trung bình 5 năm là 7% trước khi bùng phát Covid.
Ngay cả trong thời kỳ bùng phát dịch bệnh, quốc gia này vẫn có thể duy trì mức tăng trưởng gần 3,0%. Ngân hàng Thế giới dự báo tăng trưởng GDP năm 2022 sẽ là 7,2%, cao nhất trong các nước ASEAN.
Thật kinh ngạc, đất nước ngôi sao này đang đứng trước nguy cơ rơi vào khủng hoảng tương tự như cuộc khủng hoảng Tom Yum Kung của Thái Lan năm 1997.
Chúng tôi biết ba vấn đề về đất nước tưởng tượng này, nhưng chúng tôi không có thông tin rõ ràng về vấn đề thứ tư, vốn dĩ là vấn đề quan trọng nhất. Các vấn đề được biết đến là: (1) thị trường chứng khoán chìm trong sụt giảm kể từ tháng 4 (2) suy giảm thanh khoản trong quý 3, và (3) cạn kiệt dự trữ ngoại hối do thâm hụt cán cân thanh toán.
Vấn đề mà chúng tôi không biết là dữ liệu dự trữ ngoại hối bị thiếu trong tháng Bảy đến tháng Chín. Phân tích dựa trên thông tin này.
Vấn đề đầu tiên: Niềm tin của nhà đầu tư đang bay bổng. Kể từ tháng 4 năm 2022, chỉ số chứng khoán đã giảm mạnh 42,6%. Điều này không nên xảy ra ở một quốc gia có mức tăng trưởng GDP 13,7% trong quý II. Dưới áp lực dòng vốn chảy ra (?), Ngân hàng trung ương đã tăng lãi suất chiết khấu từ 2,5% lên 3,5% vào ngày 22 tháng 9. Ngân hàng đã giữ lãi suất không đổi ở mức 2,5% kể từ tháng 10 năm 2020, bất kể điều gì xảy ra ở thế giới bên ngoài.
Vấn đề thứ hai: Thắt chặt thanh khoản trong nước. Mặc dù ngân hàng trung ương chưa bao giờ thừa nhận đã có dòng vốn chảy ra, nhưng tình hình thanh khoản trong nước khá eo hẹp.
Ngày 7/10, nhiều ngân hàng thương mại đã tăng lãi suất huy động để thu hút người gửi tiền. Dưới đây là lãi suất tiền gửi của một ngân hàng lớn: 7,5% cho khoản tiền gửi 6 tháng, 7,8% cho khoản tiền gửi 9 tháng, 8% cho khoản tiền gửi 12 tháng và 8,4% cho khoản tiền gửi 18 tháng. Đây không phải là mức tăng lãi suất do lạm phát vì tỷ lệ lạm phát chỉ ở mức 3,94% trong tháng 9.
Tình huống này không phải là bình thường đối với tôi. Sẽ không rẻ hơn nhiều nếu các ngân hàng trả lãi suất chiết khấu 3,5% cho ngân hàng trung ương hơn là tăng tiền gửi với chi phí 7,5% và hơn thế nữa? Tình hình có thể tương tự như nửa đầu năm 1997 ở Thái Lan. Ngân hàng Trung ương Thái Lan cảnh báo các tổ chức tài chính phải tìm thanh khoản cho riêng mình hoặc có nguy cơ đóng cửa, điều mà Ngân hàng Trung ương Thái Lan đã thực sự làm.
Vấn đề thứ ba: Dự trữ ngoại hối cạn kiệt. Vấn đề tồi tệ nhất mà N phải đối mặt, giống như Sri Lanka, là dự trữ ngoại hối không đủ. Dữ liệu dự trữ nước ngoài chỉ có sẵn cho đến tháng 6.
Dữ liệu dự trữ của tháng Sáu đã là một điểm đáng quan tâm. Dự trữ của nước này tương đương với 3,1 tháng nhập khẩu, ở mức an toàn. Theo khuyến nghị của IMF, một quốc gia nên có dự trữ để trang trải các khoản thanh toán nhập khẩu từ 3-6 tháng. Dự trữ thấp hơn mức nhập khẩu tương đương một tháng có nghĩa là đất nước đang rơi vào khủng hoảng. Sri Lanka bắt đầu vào năm 2022 với chỉ 1,5 tháng dự trữ có sẵn.
Nền kinh tế của quốc gia N là một nền kinh tế đang phát triển vượt bậc. Khi nền kinh tế đang phát triển vượt bậc, quốc gia này sẽ sử dụng thu nhập từ nước ngoài để nhập khẩu nguyên liệu thô, dự trữ sản phẩm, nâng cấp nhà máy và cải thiện cơ sở hạ tầng. Người ta sẽ chọn gì nếu một người điều hành một chính phủ thông minh?
Lựa chọn A: giữ nhiều ngoại tệ trong tài khoản Ngân hàng trung ương, tài khoản này sẽ thu được lợi suất 1% đối với trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ. Lựa chọn B: cung cấp ngoại tệ cho các ngành công nghiệp địa phương thu được 10% lợi nhuận. Đó là lý do tại sao tăng trưởng GDP của quốc gia N cho năm 2019 là 7,2% trong khi tăng trưởng GDP của Thái Lan trong năm đó, ngay cả với thu nhập từ 40 triệu khách du lịch, là 2,2%.
Tuy nhiên, có một ranh giới ở đâu đó, và quốc gia N đã vượt qua ranh giới đó giống như Thái Lan đã lâm nạn vào năm 1997.
Từ năm 1992-1996, Thái Lan đạt mức tăng trưởng GDP bình quân 7,6%. Một nền kinh tế bùng nổ như hiện nay luôn khát thanh khoản.
Thái Lan đáp ứng nhu cầu thanh khoản của mình bằng cách vay nợ nước ngoài. Đến cuối năm 1996, quốc gia này đã đạt đến tối đa hạn mức vay. Đã đến lúc quay đầu để hạ cánh nhẹ nhàng. Tình hình thanh khoản eo hẹp rõ ràng khi lãi suất cho vay liên ngân hàng tăng gấp đôi. Thay vì chuẩn bị cho một cuộc hạ cánh nhẹ nhàng, chính phủ và Ngân hàng Trung ương Thái Lan đã phấn đấu đạt mức tăng trưởng 7% cho năm 1997.
Ngân hàng Trung ương Thái Lan đã thực hiện một động thái không khôn ngoan khi bảo vệ đồng tiền của mình (và hệ thống tỷ giá hối đoái cố định) bằng cách can thiệp mạnh vào thị trường ngoại hối. Nó đã giành chiến thắng trong cuộc chiến đầu cơ tiền tệ vào tháng 3 năm 1997 nhưng phải chịu một khoản lỗ dự trữ nặng nề.
Để che đậy vết thương này, ngân hàng đã thể hiện dự trữ ngoại hối cao hơn thực tế. Làm thế nào điều này được thực hiện sẽ không được tiết lộ. Hãy để tôi nói rằng động thái này giống như giao một khẩu súng cho kẻ thù của bạn để bắn bạn. Những gì xảy ra sau đó đã được biết đến.
Điểm tương đồng giữa nước N và Thái Lan trước năm 1997 là tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đòi hỏi mức độ thanh khoản cao liên tục. Điểm khác biệt là nước N đã áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt, nhưng Thái Lan vào năm 1997 đã áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định trước khủng hoảng.
Vấn đề thứ tư: Thiếu dữ liệu quý thứ ba. Ngân hàng trung ương N đã có thể báo cáo dữ liệu ngoại thương đến tháng 9, cho thấy cán cân thương mại dương là 1,14 tỷ đô la. Nhưng nó chỉ báo cáo dữ liệu dự trữ ngoại hối cho đến tháng Sáu. Đây không phải là do vấn đề thu thập dữ liệu; nó chỉ đơn giản là chọn không báo cáo. Việc này cũng không rõ ràng giống như Trung Quốc, hiện tại cũng đang trì hoãn việc công bố các dữ liệu kinh tế quan trọng.
Trong quý 3 này, đồng đô la Mỹ tăng giá 7,7% so với các đồng tiền chủ chốt trên thế giới. Nhưng đồng tiền D chỉ mất giá 2,6% so với đồng đô la.
Ngân hàng trung ương N có can thiệp không ngừng để giữ giá trị đồng tiền ổn định bất chấp dòng vốn chảy ra lớn? Với thực tế là thanh khoản nội bộ đột ngột trở nên eo hẹp và nhà đầu tư bán tháo cổ phiếu để lấy tiền mặt, các bằng chứng dường như chỉ ra điều đó.
Mọi thứ có vẻ tồi tệ hơn vào tháng 10. Với dữ liệu cho đến ngày 18 tháng 10, đồng tiền D giảm thêm 2,4%, cho thấy rằng tiền tiếp tục chảy ra khỏi đất nước. Lần này không phải là chênh lệch lãi suất mà là thiếu niềm tin vào nền kinh tế.
Một điểm đáng quan tâm khác là nợ nước ngoài của quốc gia N là 130 tỷ USD, trong đó 26,6 tỷ là nợ ngắn hạn. Nếu nợ ngắn hạn không được gia hạn hoặc thu hồi, dự trữ ngoại hối của nước N có thể giảm xuống dưới mức hai tháng nhập khẩu.
Đây thực sự là một cuộc khủng hoảng trong quá trình sản xuất. Quốc gia N phải ngay lập tức khôi phục niềm tin của nhà đầu tư bằng cách đảm bảo đủ dự trữ ngoại hối để trang trải cho bốn tháng nhập khẩu, nếu không quốc gia này có thể gặp rủi ro giống như Thái Lan vào năm 1997.
I am talking about an imaginary country which is a member of Asean. This country may or may not exist. To avoid unnecessary negative repercussions, this country shall remain nameless and be referred to as country "N" with its currency "D". This country is the star of Asean with a 5-year average...
www.bangkokpost.com